1. Bài viết phân tích nghệ thuật đặc sắc trong 'Tiếng hát con tàu' - Mẫu 4
Chế Lan Viên, nhà thơ lãng mạn nổi tiếng với tập thơ “Điêu tàn” trước Cách mạng tháng Tám, đã tạm rút lui khi đất nước bước vào kháng chiến. Chỉ khi hòa bình trở lại, ông mới cho ra đời những tác phẩm thơ tuyệt vời. Bài thơ “Tiếng hát con tàu” trong tập “Ánh sáng và phù sa” phản ánh tinh thần thời đại, đáp ứng lời kêu gọi khai hoang Tây Bắc.
Thay vì miêu tả nhiệm vụ lịch sử một cách khô khan, nhà thơ thể hiện bằng cảm xúc chân thành và nhiệt huyết. Một vùng đất tươi đẹp và anh hùng của Tổ quốc hiện lên dưới ánh sáng trí tuệ. Tâm hồn thi sĩ trở thành con tàu mộng tưởng, vừa trở về với nhân dân, vừa trở về với chính lòng mình.
Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru
Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng
Chế Lan Viên mở đầu bài thơ bằng sự tự vấn, bộc lộ nỗi trăn trở trước nhiệm vụ trọng đại của đất nước:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu”
Nhà thơ nhạy bén với nhiệm vụ của Đảng và dân tộc, chuyển hóa nhiệm vụ chung thành trách nhiệm cá nhân và sâu xa là trách nhiệm của “tâm hồn ta”. “Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu?” Đây là hình ảnh của mộng tưởng (không có đường tàu lên Tây Bắc), thích hợp với hình ảnh ra đi, gợi lên ước mơ lãng mạn:
“Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô, tàu đói những vành trăng”
Nhà thơ còn thúc giục người ra đi khai hoang Tây Bắc không chỉ vì Tây Bắc mà còn mở lối cho cuộc sống, cho sáng tạo, cho thơ:
“Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”
Cuộc ra đi trở thành cuộc trở về. Trở về “nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất”. Và tha thiết hơn nữa “cho con về gặp lại Mẹ yêu thương”. Và thiêng liêng hơn nữa:
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”
Những so sánh bất ngờ, chi tiết bất chợt làm cho dòng suy nghĩ không khô khan mà lung linh, biến hóa. Nhà thơ hồi tưởng những kỉ niệm sâu sắc trong kháng chiến với nhân dân Tây Bắc, như một cuộn phim. Hình ảnh của nhân dân được gọi thân thiết, như “Con nhớ anh con, người anh du kích”, “Con nhớ em con, thằng em liên lạc”, “Con nhớ mế, lửa hồng soi tóc bạc”. Qua từng chi tiết đầy xúc động, nhà thơ muốn truyền đạt nhân dân Tây Bắc anh hùng mà tình nghĩa. Sau đó, Chế Lan Viên chuyển đến triết lý. Hiện thực chỉ là cái cớ để nhà thơ triết lý:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”
Người đọc cảm phục Chế Lan Viên vì đã phát hiện quy luật của tình cảm, của đời sống tâm hồn con người. Nhà thơ dẫn dắt người đọc đến triết lý bằng nhạc và hình: “Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ”. Điệp từ “nhớ” diễn tả sự da diết của tình cảm và tăng cường nhạc điệu cho câu thơ. Về hình họa, nhà thơ áp sát ống kính vào từng khuôn mặt thân thương để biểu dương.
Nhà thơ lùi ống kính ra xa để thu hình ảnh của núi rừng Tây Bắc với những “bản sương giăng”, những “đèo mây phủ”, hình ảnh huyền ảo của núi rừng Tây Bắc cũng là hình ảnh sương khói của hoài niệm. Nhà thơ tự hỏi: “Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?”. Câu thơ của Chế Lan Viên gợi nhớ câu thơ của Hồng Nguyên:
“Chúng tôi đi
Mang cuộc đời lưu động
Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng
Đã nghĩ lại rất nhiều nhà dân chúng
Tôi nhớ bờ tre gió lộng
Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau”
(Nhớ)
Nhưng Chế Lan Viên không dẫn tới tự sự mà dẫn đến triết lý:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”
Hai câu thơ đối (Khi ta ở - Khi ta đi) diễn tả hai trạng thái của tâm hồn con người, điệp từ, điệp ngữ tạo âm hưởng cho ý thơ triết lý vốn dễ khô khan. Từ chiêm nghiệm của chính mình, tác giả phát hiện quy luật về tình cảm có giá trị khái quát.
Nhà thơ nói hộ chúng ta về sự gắn bó giữa con người với quê hương xứ sở, với những miền đất xa lạ đã từng sống. Cái cụ thể là “đất” đã hoá thành cái trừu tượng là “tâm hồn”. Hai câu thơ rất là Chế Lan Viên! Từ triết lý, nhà thơ chuyển sang diễn tả những rung động cụ thể, riêng tư. Tứ thơ chuyển lạ, nhưng không gãy đổ vì vẫn liền mạch tư duy:
“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.”
Khổ thơ như một rẽ ngoặt bày ra cảnh quan mới lạ. Nhưng ta vẫn nhận ra giọng điệu của Chế Lan Viên. Vẫn từ xúc cảm, hình ảnh cụ thể dẫn đến suy ngẫm triết luận. Tăng thêm cảm xúc riêng tư nên câu thơ trở nên xôn xao. “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét”, những so sánh lạ, lấp lánh trí tuệ chứ không phải tình cảm thuần khiết.
Xét cho cùng, không phải nỗi niềm riêng, dù nhà thơ có nói thật tha thiết “Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng”; mà là “riêng chung” như Xuân Diệu. Cái lấp lánh của màu sắc “cánh kiến hoa vàng” như “chim rừng lông trở biếc” là cái lấp lánh của trí tuệ. Tác giả như phát hiện sự kết nối khăng khít của sự vật như mùa đông với cái rét, mùa xuân với “chim rừng lông trở biếc”. Và cái da diết của nhạc điệu, hình ảnh, màu sắc chuẩn bị cho triết lý mới: “Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.”
Mỗi người tự cảm nhận triết lý này. Nhà thơ đã đạt đến chiều sâu của chủ đề “Tiếng hát con tàu”. Nhà thơ tiếp tục giục giã lên đường xây dựng quê hương Tây Bắc. Tất cả hồi tưởng, hoài niệm, triết luận đều nhằm thực hiện nhiệm vụ lịch sử này:
“Đất nước gọi hay lòng ta gọi?
Tình em đang mong tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga”
Xây dựng quê hương Tây Bắc cho “mẹ”, cho “em” thì còn ai không tha thiết, không nhiệt tình? Đối với nhà thơ, Tây Bắc là nguồn cảm hứng, nguồn sáng tạo, là giá trị tinh thần thiêng liêng, cuộc “trở về” có ý nghĩa bao nhiêu!
“Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ
Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa
Nay trở về, ta lấy lại vàng ta.”
Bài thơ kết thúc bằng những ý tưởng lãng mạn đẹp và tình yêu nồng nàn (tình yêu cuộc sống và yêu em):
“(…) Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân”
Chế Lan Viên với tâm hồn đổi mới, nhạy cảm với nhiệm vụ cách mạng. Khi đất nước cần mở mang Tây Bắc, ông đã có thơ ứng chiến, vượt lên trên thơ minh họa tầm thường. Chất trí tuệ mẫn tiệp của ông được bồi đắp thêm những tình cảm mới mẻ, cách mạng khiến “Tiếng hát con tàu” hấp dẫn. Đáng tiếc, tài năng ngôn ngữ siêu phàm của ông đôi khi lạm dụng từ thiêng liêng như “mẹ”, khiến người đọc thoáng hoài nghi về cảm xúc chân thật của nhà thơ. Một thời, bao học sinh, sinh viên, trí thức mê thơ ông, say sưa với phát hiện triết lý trong thơ ông:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn.”
2. Phân tích nghệ thuật độc đáo trong 'Tiếng hát con tàu' - ví dụ 5
Bài thơ 'Tiếng hát con tàu' của Chế Lan Viên, viết năm 1960 và xuất hiện trong tập 'Ánh sáng và phù sa', phản ánh một giai đoạn quan trọng của miền Bắc sau chiến thắng kháng chiến và bước vào kế hoạch năm năm đầu tiên. Lúc này, giới văn nghệ sĩ tràn đầy ý thức nghệ thuật, đồng hành cùng công cuộc xây dựng đất nước, hòa mình vào cuộc sống của nhân dân để tìm kiếm nguồn cảm hứng sáng tạo.
Bài thơ không chỉ đơn thuần thể hiện tư tưởng động viên thanh niên xây dựng Tổ quốc mà còn bày tỏ lòng yêu nước sâu sắc. Hình ảnh con tàu trong bài thơ, mặc dù chưa hiện thực, trở thành biểu tượng cho khát vọng vượt ra khỏi cuộc sống hạn hẹp, tìm về cuộc sống rộng lớn và nguồn cảm hứng sáng tạo. Tây Bắc không chỉ là một địa danh cụ thể mà còn là biểu tượng của cuộc sống lớn và nguồn cảm hứng nghệ thuật. Bài thơ mở đầu bằng lời mời gọi thiết tha:
Chuyến tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vầng trăng.
Chế Lan Viên sử dụng hình ảnh thiên nhiên để khơi dậy khát vọng lên đường và động viên mọi người hòa nhập vào cuộc sống mới. Bài thơ mở ra những suy tư về cuộc sống và nghệ thuật, phản ánh sự khao khát của tác giả và những yêu cầu của thời đại:
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vầng trăng.
Nhà thơ khuyến khích mọi người vượt ra khỏi cái tôi nhỏ bé để tìm kiếm nghệ thuật chân chính và gặp gỡ tâm hồn mình. Khát vọng ấy thể hiện qua những hình ảnh tinh tế:
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia
Chế Lan Viên biến tâm hồn mình thành con tàu khát khao, say sưa trong hành trình trở về với cuộc sống và nhân dân. Bài thơ tiếp tục với khát vọng mãnh liệt và sự trở về đầy cảm xúc với nhân dân:
Ôi chim én có bay không, chim én?
Đến những đảo xa, đến những đảo mờ
Ở đâu chưa đi thì lòng sẽ đến
Lúc trở về, lòng ngậm những cành thơ.
Khát vọng trở về và hòa nhập với nhân dân được thể hiện qua những hình ảnh so sánh sâu sắc, từ niềm hạnh phúc trở về với quê hương, với cuộc sống:
Con gặp lại nhân dân hư nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
Bài thơ là một phần của dòng thơ viết về xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể hiện cái nhìn sâu sắc về cuộc đời và con người, đồng thời lắng đọng những rung động chân thành của tác giả đối với nhân dân và đất nước. Đây là một tác phẩm không chỉ về tình yêu quê hương mà còn là triết lý cuộc sống, mang lại cảm xúc chân thành cho người đọc.
3. Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm 'Tiếng hát con tàu' - mẫu 6
Chế Lan Viên (1920 - 1989), tên thật là Phan Ngọc Hoan, quê quán Cam Lộ, Quảng Trị, là một nhà thơ nổi tiếng với tập thơ 'Điêu tàn' xuất bản năm 1937. Ông được biết đến như một trong những nhà thơ lãng mạn tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Trước Cách mạng tháng Tám, ông từng viết những câu thể hiện sự bế tắc và cầu xin sự cứu rỗi khỏi đau khổ: 'Với tôi tất cả như vô nghĩa, Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau' và 'Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh, Một vì sao trơ trọi cuối trời xa…'. Sau Cách mạng, trong quá trình đất nước và dân tộc thay đổi, nhà thơ cũng đã thay đổi để hòa nhập với cuộc sống mới. Hòa bình lập lại, miền Bắc bắt tay vào xây dựng xã hội chủ nghĩa, và năm 1958, phong trào khai hoang được phát động, thu hút sự tham gia nhiệt tình của nhân dân các địa phương như Hà Nam, Nam Định, Thái Bình. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Chế Lan Viên thường xuyên công tác và sống trong sự yêu thương của đồng bào Việt Bắc, Tây Bắc, điều này đã trở thành nguồn cảm hứng cho bài thơ 'Tiếng hát con tàu'. Bài thơ là một khúc hát say mê của hồn thơ khi vượt ra khỏi cái tôi nhỏ bé để hòa mình vào nhân dân và đất nước, đồng thời thể hiện lòng biết ơn và nỗi nhớ về Tây Bắc. 'Tiếng hát con tàu' có cấu trúc theo diễn biến tâm trạng của tác giả, với giọng điệu thay đổi từ sự trăn trở, lời mời gọi, đến khát vọng về với nhân dân và khúc hát lên đường. Những câu thơ như 'Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc' thể hiện sự trăn trở và lòng tự hỏi của nhà thơ. Hình ảnh con tàu và địa danh Tây Bắc là biểu tượng của bài thơ, mang ý nghĩa tượng trưng cho khát vọng hòa hợp với dân tộc và đất nước. Chế Lan Viên đã sử dụng hình ảnh thiên nhiên và những câu hỏi tu từ để thể hiện khát vọng lên đường và sự hòa hợp với đất nước. Bài thơ còn chứa đựng hình ảnh về những con người tiêu biểu đã giúp đỡ nhà thơ trong kháng chiến, cũng như khát vọng trở về với nhân dân và gắn bó sâu sắc với quê hương. Đoạn cuối của bài thơ mang âm hưởng của sự tự cổ vũ và khẳng định quyết tâm lên Tây Bắc để mở mang vùng đất mới cho đất nước. Chế Lan Viên đã sử dụng những hình ảnh tượng trưng và những cảm xúc chân thành để tạo ra một tác phẩm nghệ thuật phong phú và đầy ý nghĩa.
4. Phân tích nghệ thuật nổi bật trong 'Tiếng hát con tàu' - mẫu 7
'Ôi, một cánh hoa dù vô tình hái
Vẫn là vì yêu đời quá đẹp đẽ
Câu thơ viết bằng nước mắt dâng tràn
Chính là mang hạnh phúc đến cho anh...'.
(Khi đã có định hướng)
Chế Lan Viên đã để lại bao lời thơ chan chứa nước mắt, và 'Tiếng hát con tàu' là một trong những tác phẩm đó. Viết vào năm 1960, 'Tiếng hát con tàu' là một viên ngọc quý trong tập thơ 'Ánh sáng và phù sa' của ông, tập thơ đã tạo nên một dấu ấn quan trọng trong sự nghiệp thơ ca của Chế Lan Viên cũng như thơ Việt Nam, mở ra một thi pháp và giọng điệu mới.
Bài thơ này có 4 câu đề từ và 15 khổ thơ, tổng cộng 60 câu, chủ yếu là thơ 8 chữ, chỉ có một câu 12 chữ. Năm 1960, miền Bắc bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần đầu tiên để xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa. Cuộc vận động xây dựng kinh tế miền núi trở thành một phong trào rộng lớn, biến Tây Bắc thành “hòn ngọc ngày mai của Tổ quốc” (Phạm Văn Đồng).
'Tiếng hát con tàu' đã mang trong mình tinh thần thời đại (Tố Hữu), vượt qua tính chất thời sự để trở thành một khúc ca thể hiện khát vọng mãnh liệt, gắn bó với cuộc sống đầy hứng khởi bằng tình yêu Tổ quốc và nhân dân. Bài thơ hội tụ chất suy tưởng sâu sắc, vẻ đẹp trí tuệ và hình ảnh độc đáo, tạo nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật đích thực.
Khổ thơ đề từ rất độc đáo với cấu trúc hỏi – đáp, cả hỏi và đáp đều bằng câu hỏi. Giọng điệu ngân vang, hào hứng:
'Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?'.
Lời đề từ tỏa ra niềm tự hào về tình yêu lớn của nhà thơ. Câu đầu thể hiện tình cảm bao la: không chỉ yêu riêng Tây Bắc mà nhà thơ còn hướng tâm hồn đến mọi miền của Tổ quốc với tất cả tình yêu thương. Câu thứ hai và ba làm rõ nguồn gốc của tình cảm này: 'Khi lòng ta đã hóa những con tàu', tự mình đã sống với khát vọng đi khắp mọi miền của Tổ quốc. Điều kiện khách quan là thực tế xã hội: 'Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát', một thời kỳ sôi động với sự hứng khởi trong xây dựng đất nước. Câu cuối cùng là kết quả của những điều kiện đó: 'Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?'.
Nhà thơ bày tỏ sự hòa nhập sâu sắc với Tây Bắc, thể hiện bằng cách so sánh và cách nói mới mẻ. Khổ thơ đề từ không chỉ thể hiện tình yêu Tây Bắc, tình yêu Tổ quốc mà còn phản ánh sự biện luận sắc sảo của Chế Lan Viên.
'Anh đi chăng?' hay 'anh giữ trời Hà Nội?'; 'Anh có nghe...?' và 'Tàu gọi anh đi, sao anh chửa ra đi?' - đó là nỗi băn khoăn về việc đi hay ở lại, lo ngại khó khăn. Chế Lan Viên sử dụng biện pháp tương phản để làm nổi bật tâm trạng này. Những câu hỏi liên tiếp, âm điệu thơ đầy ám ảnh và giục giã:
'Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
... Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
...Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi!?'.
Hình ảnh con tàu trong hai khổ thơ đầu chỉ là biểu tượng của một hành trình xa; con tàu còn 'đói những vành trăng' nghĩa là chưa đủ động lực để đến những chân trời mới. Đây là sự tinh tế trong tư duy nghệ thuật của Chế Lan Viên.
Chín khổ thơ tiếp theo diễn tả tình cảm sâu sắc của nhà thơ về Tây Bắc và con người nơi đây với những kỷ niệm cảm động. Tây Bắc là biểu tượng của lửa kháng chiến, là nơi đầy tình thương, nơi mà sự hy sinh và nghĩa tình được ghi nhớ sâu sắc. Hình ảnh của bà mế, những chiến sĩ, và cuộc sống miền núi đều góp phần tạo nên một bức tranh đầy tình yêu và lòng tri ân.
Tây Bắc là nơi thiêng liêng với nhiều kỷ niệm: ngọn lửa kháng chiến, 'xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng', nơi máu rỏ và trái đầu xuân. Tự hào và hướng về tương lai với niềm tin:
'Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường'.
Sự nhận thức về con đường gian khổ nhưng đáng giá, tự ý thức 'con cần vượt nữa' để trở về cội nguồn 'gặp lại Mẹ yêu thương'. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ chính xác và hình ảnh sáng tạo đã làm cho bài thơ bay cao.
'Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ,
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa'.
Những hình ảnh so sánh tạo nên một niềm vui lớn khi trở về với nhân dân, tượng trưng cho sự trở về nguồn cội và hạnh phúc. Nhân dân là cội nguồn của sự sống và tình yêu, là điều quý giá nhất trong cuộc đời.
Những hình ảnh thơ mộng, ấm áp như 'lửa hồng soi tóc bạc', 'vắt xôi nuôi quân', và 'nhớ' những nơi đã đi qua. Tình yêu và sự trở về tạo nên một mối liên kết sâu sắc giữa nhà thơ và quê hương.
Cuối bài thơ, hình ảnh con tàu đã trở thành biểu tượng của khát vọng và niềm vui, với giọng điệu rộn ràng, diễn tả niềm vui khi lên đường:
'Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?
Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga'.
Khổ thơ cuối khẳng định một niềm tin của nhà nghệ sĩ chân chính. Trở về với nhân dân là để khám phá và sáng tạo, làm đẹp cuộc sống và tình yêu. 'Tiếng hát con tàu' đã thể hiện phong cách nghệ thuật của Chế Lan Viên với hình ảnh độc đáo, biện pháp tương phản và một giọng thơ đa thanh. Đây là văn chương đích thực, mang lại cảm xúc và hiểu biết về lẽ sống và tình yêu.
5. Phân tích nghệ thuật nổi bật trong 'Tiếng hát con tàu' - mẫu 8
Trong giai đoạn từ 1958 đến 1960, miền Bắc chứng kiến một phong trào mạnh mẽ kêu gọi người dân từ miền xuôi, chủ yếu là thanh niên, lên xây dựng kinh tế ở miền núi Tây Bắc. Sự kiện kinh tế - xã hội này đã truyền cảm hứng cho Chế Lan Viên sáng tác bài thơ 'Tiếng hát con tàu'. Bài thơ không chỉ thể hiện khát vọng trở về với nhân dân mà còn hòa nhập vào cuộc sống lớn của đất nước và tình nghĩa nhân dân vĩ đại. Bài thơ mở đầu với hai khổ thơ mang đến sự trăn trở và lời mời gọi lên đường, tiếp theo là chín khổ thơ giữa hồi tưởng những kỉ niệm kháng chiến, và bốn khổ thơ cuối là khúc hát hân hoan lên đường. Để hiểu rõ bài thơ, cần nắm hai hình ảnh biểu tượng: 'con tàu' và 'Tây Bắc'.
Thực tế, không có con tàu nào đi lên Tây Bắc, mà hình ảnh 'con tàu' trong bài thơ là biểu tượng của khát vọng lên đường đến với cuộc sống rộng lớn, nhân dân vĩ đại, và ước mơ cao đẹp. Điều này thể hiện qua những câu thơ như: Khi lòng ta đã hóa những con tàu, Tàu đói những vầng trăng, Tàu gọi anh đi, sao chưa ra đi, Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép, Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia...
Hình ảnh 'Tây Bắc' không chỉ là địa danh mà còn là Tổ quốc bao la, nơi có cuộc sống gian khổ nhưng đầy nghĩa tình và kỉ niệm. Lên Tây Bắc đồng nghĩa với việc trở về chính mình và hòa nhập với tình cảm sâu nặng đối với nhân dân và đất nước, như thể hiện trong những câu thơ:
Khi tổ quốc bốn bề lên tiếng hát,
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?
Trên Tây Bắc! ôi mười năm Tây Bắc,
Xứ thiêng liêng, rừng núi đã anh hùng.
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất,
Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ...
Hiểu được hai hình ảnh biểu tượng cơ bản này giúp ta hiểu tên bài thơ và các câu thơ đề từ, nhận thấy tính khái quát và sự vượt lên các sự vật cụ thể. Sau lời đề từ là những câu hỏi thúc giục lên đường với sự hối thúc và khích lệ, thể hiện qua giọng điệu hăm hở của nhà thơ:
- Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?
- Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
- Tàu gọi anh đi, sao chưa ra đi?...
Nhà thơ tự vấn và tự thuyết phục bản thân, thể hiện sự phân thân của chủ thể trữ tình. Sự đối lập giữa các yếu tố (bạn bè đi xa / anh giữ trời Hà Nội, Đất nước mênh mông / đời anh nhỏ hẹp, thơ / lòng đóng khép...) làm nổi bật ý tưởng của tác giả về cuộc sống mới đang mời gọi.
Phần hồi tưởng về những kỉ niệm kháng chiến gợi lên những hình ảnh thiêng liêng và đẹp đẽ của mảnh đất Tây Bắc anh hùng, thể hiện ân tình sâu nặng với cuộc kháng chiến chống Pháp. Những câu thơ như 'Mười năm qua như ngọn lửa, Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường' phản ánh sự chuyển biến trong cuộc đời và con đường nghệ thuật của nhà thơ. Lên Tây Bắc là trở về với những kỉ niệm thiết tha và khát vọng hiện tại, thể hiện qua các hình ảnh so sánh sinh động:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cò đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
Những hình ảnh này thể hiện mối quan hệ gần gũi, gắn bó với nhân dân trong hồi tưởng của nhà thơ. Chế Lan Viên đã khắc họa các nhân vật với tình thương và sự chở che, từ người anh du kích đến bà mế già. Hình ảnh cụ thể và cảm động như bà mế đêm đêm chăm sóc đứa con chiến sĩ suốt mùa dài.
Nhà thơ còn có những liên tưởng bất ngờ về vẻ đẹp:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Cuối cùng, bài thơ kết hợp giữa trí tuệ và cảm xúc chân thành, thể hiện sự hòa quyện giữa suy tưởng và cảm xúc. Với các câu nghi vấn và khẳng định mạnh mẽ, bài thơ 'Tiếng hát con tàu' trở thành tác phẩm tiêu biểu của Chế Lan Viên.
6. Phân tích nghệ thuật đặc sắc trong bài thơ 'Tiếng hát con tàu' - mẫu 9
Buổi đầu tiên Chế Lan Viên đến với thơ ca bằng một nỗi buồn ghê rợn và kinh dị. Cái hơi hám ấy đi vào tập Điêu Tàn ám ảnh với những bóng ma dật dờ trở về từ cõi âm đầy ám khí.
Cái ám khi ấy hắt lên tâm hồn của một chàng trai trẻ tuổi mà đã sớm bi quan trốn tránh sự đời. Thế rồi sau cách mạng, cuộc kháng chiến thần thánh đã lùa vào thơ anh một hơi thở mới đầy đam mê, rạo rực hướng cho anh đi tới những chân trời tràn khát vọng. Tiếng hát con tàu đã được ra đời trong hoàn cảnh như thế.
Bài thơ là một khúc ca lên đường, là khát vọng muốn thoát ra khỏi cáĩ tôi cá nhân, phá toang cái lồng chật hẹp của cái tôi cá nhân để đến với những miền đất xa xôi, đến với cuộc đời rộng lớn, cũng là đên với nhân dân đất nước, với những mơ ước ngọn nguồn của cảm hứng nghệ thuật. Bài thơ được mở đầu bằng một âm hưởng rạo rực, xốn xang, thúc giục, lôi cuốn.
Tây Bắc ư có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.
Câu hỏi tu từ được cất lên như xoáy sâu vào lòng người, tác giả đã tự hỏi, tự lí giải, tự phân tích rồi tự phủ định. Tây Bắc – cái mảnh đất từng gắn bó máu thịt với nhà thơ trong hơn suốt mười năm đấu tranh gian khổ, mảnh đất ấy giờ đây đang cần những bàn tay vun xới. Vậy thì cớ sao tác giả lại không đi cho được? Và anh không chỉ trở về với Tây Bắc “có riêng gì Tây Bắc”.
Tây Bắc là khát vọng mà anh hướng tới, xa hơn không chỉ dừng lại ở vùng Tây Bắc nhỏ bé mà đất nước còn có bao mảnh đất cần đến bàn tay của con người thì tám hồn tác giả còn muốn hướng về, bước chân tác giả còn muốn đi tới những miền đất sổi đá mà nhiều hứa hẹn. Đó là những miền đất mà Hoàng Trung Thông từng đặt niềm tin mãnh liệt.
Đường xa ta tói đây
Trên đồi cây cát nắng
Giữa hai dòng suối vắng
Đoàn ta vui cấy cày.
(Bài ca vỡ đất)
Với điệp từ khi – khi trong hai câu thơ “Khi lòng ta đã hóa những con tàu, Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát” đã có sự gặp gỡ trùng hợp thật đẹp đẽ giữa khát vọng của cá nhân và yêu cầu của đất nước. Đó là sự gặp gỡ, hòa quyện giữa cái chung và cái riêng. Khi lòng người thôi thúc một khát vọng công hiến thì cũng chính là khi mà Tổ quốc đang cần những bàn tay, những khối óc.
Tây Bắc không chỉ là nơi gợi khát vọng công hiến mà nó còn cuốn hút tâm hồn nhà thơ bởi những ý tưởng nghệ thuật, ở đây tác giả đã dùng biện pháp đồng nhất trong từng cặp đối tượng. “Lòng ta đã hóa những con tàu” và “tâm hồn ta là Tây Bắc” có nghĩa khi tâm hồn nhà thơ hướng tới cuộc sống thì chính cuộc sống lại gợi lên cho nhà thơ biết bao cảm xúc. Tây Bắc là xứ sở đã ôm ấp, nâng niu bao kỷ niệm trong suốt mười năm kháng chiến nên khi đến với Tây Bắc thì cũng chính là tác giả trở về với lòng mình, trở về với ngọn nguồn của dân tộc. Khi nói “tâm hồn ta ià Tây Bắc” thì cũng là lúc tác giả xem mình đã thuộc về Tổ quốc, thuộc về nhân dân. Đó là sự khẳng định thống nhất tuyệt đối giữa cái tôi và cái ta.
Con tàu này lên Tây Bắc anh đì chăng
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô tàu đói những vành trăng.
Những câu thơ mang giọng điệu giục giã lên dường đã nói lên bao nỗi niềm tâm trạng của tác giả. Thực ra, hồi bấy giờ làm gì có tàu lên Tây Bắc, thế nhưng con tàu trong tâm tưởng của nhà thơ vẫn lên đường trong một không khí háo hức, sôi động.. Ớ đây, tác giả đã dùng biện pháp phân đôi chủ đề trữ tình để tự đối thoại. Nhà thơ tự mời gọi mình “anh đi chăng”, nhưng thực ra câu hỏi ấy không chỉ dành riêng cho tác giả mà còn là câu hỏi cho muôn lớp thanh niên đang sống trên mảnh đất Hà Nội, và xa hơn là trên khắp đất nước Việt Nam. Điệu thơ chuyển từ mời gọi sang giục giã hối thúc.
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô tàu đói những vành trăng.
Cái tôi trữ tình cứ băn khoăn trăn trở giữa hai không gian Hà Nội và Tây Bắc, giữa hai lối sống hưởng thụ và cống hiến. Câu thơ tạo nên hai hình ảnh đối lập: “đất nước mênh mông / đời anh nhỏ hẹp”. Giờ đây, anh sẽ sống cho đất nước hay cho riêng cá nhân mình? Nhưng rồi nhà thơ đã khẳng định cuộc sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi anh lên Tây Bắc, còn nếu như anh chỉ khư khư giữ lấy bầu trời Hà Nội, ích kỉ sống cho cái tôi cá nhân riêng lẻ thì tâm hồn anh sẽ cằn cỗi đi, cuộc sống của anh chẳng còn gì là thi vị nữa.
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
Tổ quốc đang vẫy gọi thế mà nếu anh không ra đi làm sao anh có thể tìm thấy những cảm hứng nghệ thuật mới lạ, làm sao anh thấy cuộc đời còn nhiều nghĩa lí? Thực ra cuộc hành trình trở về của Chế Lan Viên không phải không có những suy nghĩ, những day dứt, nhưng đó là sự trở về với nhân dân, với đất nước, với kỷ niệm dấu yêu và cũng chính là sự trở về với lòng mình nên anh đã không ngần ngại dang tay đón lấy những “vầng trăng”. Đón lấy vầng trăng như một cuộc hành trình đi tìm chất thơ, đi tìm những cảm hứng mới cho nghệ thuật.
Trên Tây Bắc ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi rỏ máu tâm hồn ta thấm đất
Nay rạt rào đã thấm trái đầu xuân.
Khổ thơ chở đầy kỷ niệm của mười năm kháng chiến gian lao. Mảnh đất ấy từng ghi bao chiến công vang dội, cũng chính là nơi thấm máu của bao người anh hùng đã ngã xuống cho những mùa xuân ngàn sau đẹp mãi, cho cuộc sống đơm hoa kết trái. Trong nỗi nhớ thiết tha về Tây Bắc thiêng liêng có cảm xúc tự hào, có cả phút giây trầm lắng khi nghĩ tới những người đã khuất, song tình cảm đọng lại vẫn là một niềm dạt dào phơi phới trước mùa xuân hoa lá xôn xao. Và khi được trở về với mảnh đất thiêng liêng anh hùng của Tây Bắc, tác giả đã không nén nổi lòng. mình nên bật thành tiếng reo trào dâng xúc động.
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
Bằng những nỗi niềm hiện tại, bôn câu thơ như một tiếng hát vọng về từ quá khứ. Về với nhân dân là về với những gì thân thuộc nhất, gần gũi nhất. Tác giả trở về sông giữa lòng nhân dân mang theo cả một biển trời thương nhớ, một biển trời đầy ắp kỷ niệm. Chính nhân dân đã đem lại cho nhà thơ sự sống. Tâm hồn anh đã được nuôi dưỡng bằng nguồn sữa ngọt ngào của nhân dân. Những dòng thơ hối hả dạt dào tuôn chảy như để diễn tả niềm vui sướng tột cùng của tác giả khi anh được trở về giữa vòng tay yêu thương trìu mến của nhân dân. Niềm hạnh phúc ấy được Chế Lan Viên thể hiện bằng những hình ảnh so sánh có sức gợi lớn: “nai về suối cũ”, “cỏ đón giêng hai”, “chim én gặp mùa”, “trẻ thơ gặp sữa”, “nôi ngừng gặp tay đưa”…
Tất cả đã thể hiện được lòng biết ơn sâu sắc của nhà thơ đối với công lao to lớn của nhân dân. Chính nhân dân đã dìu dắt anh, bế anh qua cơn mộng tưởng, bi lụy của Điêu tàn để đến với một cuộc sống đầy “ánh sáng và phù sa”, đầy niềm tin yêu và nhiều ý nghĩa. Gặp lại mảnh đất thân yêu ngày nào, tác giả như sống lại giữa bao kỷ niệm của một thời kháng chiến gian khổ mà thắm thiết nghĩa tình quân dân. Cách xưng hô của anh thấm đượm một tình cảm thiết tha, anh xem mình như một người con của Tây Bắc, người con của Tổ Quốc.
Con nhớ anh con người anh du kích…
Con nhớ em con thằng em liên lạc…
Con nhớ mế lửa hồng soi tóc hạc.
Nhân dân hiện lên bằng những con người cụ thể, hành động cụ thể. Đó là anh, là em, là mế – là những người từng gắn bó máu thịt với tác giả trong mười năm trường kháng chiến, những người đại diện cho nhân dân với tình cảm gia đình ấm áp. “Con nhớ anh con”, “Con nhớ em con”, “Con nhớ mế”, cấu trúc thơ được lặp đi lặp lại trong một điệu thơ da diết? nỗi nhớ ấy cứ hằn sâu trong lòng tác giả như nhắc nhở, như nhắn nhủ về một miền quá khứ đầy tình nghĩa.
Cuộc kháng chiến đầy gian khổ, họ đã phải nhường nhau từng miếng cơm, manh áo. Tấm áo vá rách được gửi lại cho tác giả không chỉ mang hơi ấm của người anh du kích mà trong đó còn gửi lại cả bao nhiêu niềm tin yêu và lí tưởng của người đi trước dành cho người đi sau. Cứ như vậy, thế hệ này cho đến thế hệ khác đã đứng lên bảo vệ mảnh đất Tây Bắc thân yêu trong sự yêu thương che chở, đùm bọc, trong ý chí quyết tâm, trong sự thông minh, gan dạ, dũng cảm. Nhưng có lẽ xúc động nhất ỉà tình cảm mà nhà thơ đã dành cho người mẹ. Con nhớ mế lửa hồng soi tóc bạc Năm con đau mế thức một mùa dài Con với mê' không phải hòn máu cắt Nhưng suốt đời con nhớ mãi ơn nuôi.
Những câu thơ chan chứa lòng biết ơn sâu nặng, sự gắn bó chân thành thâm thìa của một tấm lòng, một trái tim biết nghĩ và biết sống. Tác giả nhớ về người mẹ nuôi năm xưa với tất cả nỗi niềm kính phục. Đó là người đã ủ ấm, chở che, đã làm dịu những vết đau trên thịt da và trong tâm hồn tác giả. Đôi với nhà thơ mỗi lần nghĩ về mẹ là nghĩ về một chỗ dựa vững vàng tin cậy. Nỗi nhớ của tác giả đi từ những con người, những gương mặt cụ thể chuyển sang những hoài niệm khái quát về nhân dân. Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ. Với điệp từ nhớ được dùng trong một câu thơ đã diễn tả được cái nhớ dồn dập, ào ạt. Tác giả không biết nén sắp xếp thế nào cho vừa, cho đủ nên đã hạ một câu thơ đầy suy ngẫm: “nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương”. Tình yêu đối với mảnh đất này, đối với người dân ở đây như một lẽ tất yếu, đất ấm nồng, người tình nghĩa thì có cớ gì mà tác giả lại quên. Nhớ “sương giăng”, nhớ “mây phủ” là nhớ tất cả khung cảnh và con người của Tây Bắc. Nỗi nhớ ấy được nâng lên thành một lẽ sống.
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.
Hai câu thơ mang màu sắc triết lí, triết lí mà không khô khan, triết lí mà vẫn đầy cảm xúc, vẫn giàu sức lay động lòng người. “Khi ta ở chỉ là nai đất ở” – con người quả thật rất dễ thờ ơ, vô tâm với những gì mình vốn có, đặc biệt là với đất, một hình ảnh vô tri vô giác, nhưng khi ta đi rồi, ta không còn nắm bắt được nó thì lại cảm thấy thiêng liêng nuôi tiếc, vì nó dường như là một phần tâm hồn ta, một phần máu thịt ta. “Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” – thực ra thì đất và người đã có sự gắn bó thân thiết từ lâu lắm rồi mà người chưa cảm nhận được hết, nay người đi xa người mới nhận ra là đất cũng có tâm hồn. Tâm hồn của đất hay nói đúng hơn là tâm hồn của người gửi lại cho đất. Câu thơ viết về đất mà thực ra là để nói lòng người, nói sự thủy chung và đạo lí làm người. Mỗi bản làng, mỗi con đường mà tác giả đã đi qua, đã từng gắn bó giờ đây đều được gọi dậy trong nỗi nhớ, nhưng cái nhớ đắm đuối nhất, cái nhớ nhiều đam mê nhất vẫn là cái nhớ dành cho “em”.
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừng lông trở biếc Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.Nỗi nhớ em được gọi về từ nỗi nhớ nhân dân, đất nước. Cái riêng hòa trong cái chung. Cái chung được đặt lên trên hết nhưng không vì thế mà thờ ơ nhạt nhẽo với cái riêng. Ngược lai, cái chung đã làm cho cái riêng thêm thiêng liêng, ý nghĩa. Tình yêu trong thơ Chế Lan Viên dung dị, chân chất nhưng không kém phần tha thiết. Tác giả thường hay nghĩ đến người yêu giữa mùa đông giá rét.
Cái rét đầu mùa anh rét xa em
Đêm dài lạnh chăn chia làm hai nửa
Một đắp cho em ở vùng sóng bể
Một đắp cho mình ở phía không em.
(Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể)
Dường như trong giá lạnh, người ta thường xích lại gần nhau hơn, người ta cần đến nhau hơn. “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét”, đây không phải là nỗi nhớ chợt đến vì thực ra trong lòng anh lúc nào cũng có hình bóng của em, và giờ đây được sống giữa nhân dân ấm áp tình người, anh bỗng nhớ đến em bằng một “nỗi nhớ chưa bao giờ nhớ thế”. Chưa lúc nào anh lại nhớ em da diết như thế này. Anh với em là một, “đông” không thể thiếu rét và “anh” không thể thiếu “em”. Tình yêu giữa anh và em giản dị, thanh cao nhưng cũng sực nức hương thơm và lắm sắc màu thú vị qua những hình ảnh so sánh độc đáo, kì lạ. Tình yêu thấm vào cái lạnh của mùa đông, cái rạo rực của mùa hè, cái mơ màng của mùa thu, cái tràn trề của mùa xuân. Và giờ đây, nỗi nhớ quê hương, đất nước lại được gọi về từ nỗi nhớ em.
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương. Câu thơ như một chân lí về tình yêu. Tình yêu ở đây không chỉ đơn thuần là của anh dành cho em nữa. Không phải chỉ vì tình yêu của em mà anh mới gắn bó với mảnh đất này mà còn cả tình cảm của bao người, của quê hương làng bản, của nhân dân. Tất cả những tình cảm ấy, nghĩa tình ấy đã làm cho miền đất Tây Bắc anh hùng trở thành quê hương thiêng liêng trong lòng tác giả. Những kỷ niệm êm đềm vẫn tiếp tục chảy về trong miền kí ức của nhà thơ.
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Bắp xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương.
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch” là một hình ảnh đẹp, nhiều hứa hẹn, là sự trọn vẹn giữa tình riêng và nghĩa chung. Để đưa được “vắt xôi” ra trận tuyến đã phải trải qua bao nhọc nhằn gian khổ. Những gian khổ ấy, công lao ấy không thể ghi hết được. Song cho đến bây giờ, tác giả vẫn như còn ngửi thấy hương khói thơm nồng của bữa xôi đầu tiên. Bao nhiêu kỷ niệm chồng chất cứ lần lượt xô đẩy nhau về thôi thúc, réo rắt tâm hồn tác giả thành một câu hỏi lớn.
Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi
Tình em đang mong tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga.
Thực ra thì đất nước đang cần mà lòng ta, bước chân ta cũng muôn đi, cũng muôn trở về mảnh đất thân yêu xưa vì ở đấy còn có bao người đang đợi mong tác giả. “Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ” vậy thì còn chần chừ gì nữa mà không lên đường. Tiếng gọi ấy vọng về từ trái tim, thôi thúc cả hồn thơ tác giả vì đó thực sự là cuộc trở về với ngọn nguồn của cảm hứng sáng tạo. Nhà thơ muốn đến thật nhanh, không phải muốn đến nữa mà muốn bay về ngay với miền đất Tây Bắc để được ngắm nhìn những ngôi nhà, những khuôn mặt, những tiếng nói, những mùa bội thu.
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga
Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào
Rẽ người mà đi vịn tay mà đến
Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao
Nhựa nóng cần lao nhân dân máu đổ
Tây Bắc ơi người là mẹ của hồn thơ.
Hình ảnh của nhân dân, đất nước náo nức đi về trong tất cả giác quan của tác giả. Đâu đâu trong tâm trí của nhà thơ cũng vang lên âm thanh của cuộc sống, của vùng đất Tây Bắc. Cuộc sống ấy, vùng đất ấy gợi hứng cho thơ ca, gợi hứng cho nghệ thuật.
Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa
Nay trở về ta lấy lại vàng ta
Lấy cả những cơn mơ ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tàu ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân.
Vùng Tây Bắc đã có biết bao tiềm năng quý giá nhưng những năm tháng chiến tranh kéo dài đã vùi lấp mất những tiềm năng ấy, nay là lúc phải trở về để khôi phục, để đánh thức nó sau một giác ngủ dài ngày. Đánh thức những tiềm năng cũng chính là thức dậy cái tương lai đẹp đẽ của đất nước, của núi rừng Tây Bắc. Đánh thức nó bằng khát vọng lên đường, khát vọng đi xa. Ra đi để lấy lại giá trị vốn có bao đời của mảnh đất, lấy lại những cơn mơ, những điều mộng tưởng và thay vào đó là những hành động thiết thực, cải hóa một miền đất đã bị đạn bom tàn phá. Mặt đất ấy giờ đây khô cằn sỏi đá nhưng dường như vẫn hiểu được sự gian khổ, cần lao của lòng người.
Tàu uống trăng để có nhiều khát vọng, tác giả uống trăng để thêm nhiều thi hứng. Và bài thơ đã được kết thúc giữa một hình ảnh rạng ngời sức sống, rạng ngời niềm hi vọng. “Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân” là hình ảnh có sức gợi lớn, sức gợi trong lòng người, sức gợi giữa đất trời về một đất nước trong tương lai, một Tây Bắc trong tương lai tràn ngập sức xuân, tình xuân. Những câu thơ kết bài được viết dính kết, móc xích vào nhau thể hiện mạch cảm xúc tuôn trào của tác giả. Lắng lại sau muôn vàn nỗi nhớ là niềm tin về một ngày mai tươi sáng đẹp đẽ. Niềm tin ấy được khẳng định ở ý chí, nghị lực và quyết tâm xây dựng những vùng đất mới. Khát vọng lên đường của Chế Lan Viên cũng chính là khát vọng về sự sống mà Hoàng Trung Thông đã từng quả quyết trong bài Bài ca vỡ đất.
Bàn tay lao động
Ta gieo sự sống
Trên tầng đất khô.
7. Bài luận phân tích nghệ thuật đặc sắc trong 'Tiếng hát con tàu' - mẫu 10
“Tiếng hát con tàu” dẫn dắt tâm hồn ta, từ những lúc hứng khởi, bâng khuâng đến tràn ngập hạnh phúc khi đến với Tây Bắc, “vùng đất thiêng” của Tổ quốc, để cảm nhận dư vị ngọt ngào của tình yêu quê hương. Đọc thơ Chế Lan Viên trước Cách mạng Tháng Tám - một thế giới nghệ thuật bí ẩn với những hình ảnh kinh dị như “cảnh ngàn thu cây lả ngọn”, “muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi”, thì “Tiếng hát con tàu” hiện lên như một hành khúc mới mẻ của tâm hồn trong “ánh sáng và phù sa” của cuộc sống mới.
Bài thơ ra đời khi cả nước đang chuyển mình sau chiến tranh và đói nghèo. Niềm vui lớn lao của cuộc sống đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo bất tận. Đặc biệt với các văn nghệ sĩ lãng mạn, những người đã từng ẩn náu trong “cái tôi” cá nhân, nay trở về sống giữa nhân dân trong vận hội mới. Nhà thơ Chế Lan Viên mở đầu bài thơ bằng bốn câu thơ hàm súc:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”.
Bài thơ là hành trình của con tàu tâm hồn với khát vọng lên đường, là cuộc chuyển mình kỳ diệu của thơ lãng mạn trong cuộc đời đầy ý nghĩa, đồng thời là cuộc trở về với chính tâm hồn thơ của mình giữa cuộc sống rộng lớn của nhân dân. Tây Bắc không chỉ là vùng đất rộng lớn của Tổ quốc đang vẫy gọi, mà còn là biểu tượng của cuộc sống mới trong lòng đã hóa thành những con tàu tốc hành của tình yêu đất nước.
Khi Tổ quốc lên tiếng hát, tâm hồn thi sĩ cũng trở thành vùng đất phì nhiêu với những tiềm năng mới, như một hương thơm trái ngọt cho cuộc đời. Dù chưa có tàu cụ thể lên Tây Bắc, nhưng hình tượng “con tàu” và “Tây Bắc” thể hiện dụng ý nghệ thuật sâu xa.
“Tây Bắc” không chỉ là địa danh xa xôi mà còn là biểu tượng cuộc sống rộng lớn của nhân dân, là nguồn cảm hứng của văn học nghệ thuật. “Con tàu” trở thành biểu tượng cho tâm hồn nhà thơ khao khát thoát khỏi cuộc sống chật hẹp để đến với nhân dân. Thơ ca không chỉ là sản phẩm của tâm hồn nghệ sĩ mà còn là sản phẩm của hoàn cảnh.
Vì vậy, bài thơ “Tiếng hát con tàu” không thể có nếu không có hoàn cảnh lịch sử tạo ra những tiền đề cho nhà thơ. Công cuộc xây dựng đất nước những năm đầu của kế hoạch năm năm lần thứ nhất đã định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, đánh thức ý thức tự chủ của con người, nhiều bài thơ cùng thời là biểu hiện của khát vọng dựng xây đất nước. Tên bài thơ “Tiếng hát con tàu” thể hiện tiếng gọi của hồn thơ:
“Đất nước mênh mông đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”...
“Con tàu” là sự hóa thân và phân thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ. Khi là con tàu mời gọi lên đường: “Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng”? “Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?” Khi lại là con tàu mơ mộng chứa đựng nỗi niềm, khát vọng lãng mạn: “Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng”, “Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội”, “lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng”...
Đọc bài thơ, ta thấy cá tính sáng tạo của Chế Lan Viên qua những hình ảnh thơ đầy bất ngờ, thú vị, giúp người đọc nhận ra giá trị mới của cuộc sống. “Khi lòng ta đã hóa những con tàu”, thì con tàu tâm hồn chở đầy những toa thương, toa nhớ:...
“Con nhớ anh con, người anh du kích...
Con nhớ em con, thằng em liên lạc....
Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc....
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét....
Nhớ bản sương dăng nhớ đèo mây phủ.
Tình cảm nhớ thương ấy xóa bỏ khoảng cách thời gian và không gian, vượt qua thử thách tâm lý và mặc cảm. Không có nơi nào xa xôi, không có thử thách nào ngăn cản lòng ta đến với cuộc đời.
Như nhà thơ đã tâm sự, cuộc trở về của ông “từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui”. Chế Lan Viên đã có một thời thơ “đi trốn” xa lánh thực tại đến cực đoan, nhưng giờ đây, ông trở về với cuộc đời thực, trân trọng giá trị của cuộc sống nhân dân:
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng, hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”.
“Gặp lại nhân dân” là trở về với sự sống, với niềm vui thanh xuân tâm hồn, với năng lượng cảm hứng, lòng nhân ái bao dung. Những hình ảnh so sánh, ẩn dụ diễn tả cuộc “phục sinh” tâm hồn của thi sĩ lãng mạn. Những ý nghĩa cao đẹp trở thành nguồn cảm xúc thiêng liêng, cất lên tiếng hát dạt dào cảm xúc.
Nhà thơ nhận ra: “Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ”. Khi tâm hồn nhà thơ đã lắng lọc cảm xúc từ cuộc đời, kỷ niệm hiển hiện trong lòng. Đây không phải lần đầu Tổ quốc lên tiếng gọi về Tây Bắc. Theo tiếng gọi của Tổ quốc, bao thế hệ đã vượt thác băng rừng trong chiến dịch “Chín năm làm một Điện Biên - Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” (Tố Hữu).
Giờ đây, tiếng hát gọi về “Mùa nhân dân, giăng lúa chín rì rào” để lấy lại giấc mơ xưa, những tâm hồn, những tấm lòng vàng một thời đau trong lửa... Tiếng hát ấy ngân nga xao xuyến ân tình, thức dậy trong lòng tình yêu quê hương:
“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng,
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”.
Vị ngọt ngào của tình yêu như cái rét ngọt mùa đông, không có rét sao gọi mùa đông. Nỗi “nhớ em” trở nên ý nghĩa, “tình yêu ta” quý giá, sống động và thiêng liêng, cảm hoá lòng người và tạo vật. Sự hòa điệu giữa tiếng hát tâm hồn và cuộc đời thăng hoa cảm xúc của nhà thơ. Quy luật hình thành nghệ thuật cũng từ sự nhập cuộc và hóa thân kỳ diệu ấy.
“Cái tôi” trữ tình của nhà thơ biểu đạt tâm trạng điển hình của “cái ta” chung cho mọi người. Tiếng hát của con tàu trở thành điệp khúc tâm tình của bao tâm hồn khát khao cống hiến cho Tổ quốc. Nhịp thơ linh hoạt tạo nên những cao trào cảm xúc, giữ cho tiếng hát vừa dồn dập vừa ngân nga.
Lắng nghe cảm xúc, suy tư qua trải nghiệm cuộc sống, lời thơ trở thành tâm sự chân thành, bộc lộ và hàm súc triết lý cuộc sống. Đây là bài thơ thể hiện đặc sắc các thủ pháp nghệ thuật của Chế Lan Viên, cũng là bài thơ tuyên ngôn thơ sau cách mạng của ông với những ý tưởng sâu xa.
Trở về với cuộc đời, sống giữa nhân dân không chỉ tìm nguồn cảm hứng sáng tác mới, mà còn là trở về với chính mình, với hồn thơ đích thực của nghệ sĩ chân chính.
Bài “Tiếng hát con tàu” có nhiều câu thơ và hình ảnh thuộc vào loại hay nhất của đời thơ Chế Lan Viên và thơ ca cách mạng. Cách mạng và nhân dân đã thăng hoa cảm xúc thơ, phục sinh tâm hồn thi sĩ, và chính nhà thơ đã tôn vinh vẻ đẹp của nhân dân và cách mạng, tôn vinh thơ ca cách mạng. Như Xuân Diệu nói: “Văn chương cách mạng, văn chương với gian khổ hi sinh, cũng lại là cái văn chương chí nghĩa chí tình, văn chương nên thơ nên nhạc”.
8. Phân tích nghệ thuật độc đáo trong 'Tiếng hát con tàu' - mẫu 1
Bài thơ 'Tiếng hát con tàu' nổi bật với nghệ thuật sáng tạo hình ảnh. Những hình ảnh được xây dựng từ các thủ pháp tả thực, đồng thời có những hình ảnh – biểu tượng chứa đựng triết lý sâu sắc, thể hiện phong cách thơ đặc trưng của Chế Lan Viên.
Trong hồi ức, các hình ảnh tả thực gắn với kỉ niệm kháng chiến, hình bóng của con người và thiên nhiên Tây Bắc như: chiếc áo nâu trong đêm công đồn, lửa hồng chiếu sáng tóc bạc, bản sương giăng, đèo mây phủ, và vắt xôi nuôi quân giấu giữa rừng. Những chi tiết này đã trở thành hình ảnh cụ thể trong kí ức. Nhan đề bài thơ, 'Tiếng hát con tàu', là một biểu tượng của khát vọng và niềm vui lên đường, phản ánh thực tế những năm 1958 – 1960 khi có cuộc vận động lên Tây Bắc xây dựng kinh tế miền núi, dù thời điểm đó chưa có đường tàu và con tàu đến Tây Bắc.
Tây Bắc ở đây không chỉ là địa danh cụ thể mà còn là biểu tượng của cuộc sống nhân dân, mảnh đất chứa đựng nhiều hứa hẹn và nguồn cảm hứng nghệ thuật. Trong bài thơ, chúng ta còn gặp nhiều hình ảnh ẩn dụ như: gió ngàn gọi, vầng trăng, trái đầu xuân, mẹ yêu thương, mùa nhân dân giăng lúa chín, mẹ của hồn thơ, vàng ta đau trong lửa, mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân, và nhiều hình ảnh so sánh độc đáo: kháng chiến mười năm như ngọn lửa, gặp lại nhân dân như nai về suối cũ, cỏ đón giêng hai, chim én mùa, đứa trẻ đói lòng gặp sữa, chiếc nôi gặp cánh tay đưa, nỗi nhớ em như đông về nhớ rét, tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng. Những hình ảnh so sánh sinh động giúp cụ thể hóa ý nghĩa trừu tượng của kháng chiến, mối liên hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, nỗi nhớ và tình yêu.
Bài thơ 'Tiếng hát con tàu' khẳng định sức mạnh lay động của thơ Chế Lan Viên chính là nhờ nghệ thuật tạo hình ảnh biểu tượng giàu ý nghĩa.
9. Phân tích nghệ thuật đặc sắc trong 'Tiếng hát con tàu' - mẫu 2
Chế Lan Viên là một nhà thơ vĩ đại của nền văn học Việt Nam hiện đại, nổi bật với tập thơ “Điêu tàn”. Con đường sáng tác của ông trải qua nhiều thăng trầm, luôn là sự tìm kiếm không ngừng. Thơ của ông mang đậm tính triết lý với những hình ảnh độc đáo và tinh tế. Bài thơ “Tiếng hát con tàu” của ông phản ánh một cái nhìn mới mẻ về một đất nước đang trong giai đoạn khôi phục kinh tế miền Bắc, trong bối cảnh kế hoạch 5 năm đầu tiên, khi các văn nghệ sĩ đã có sự gắn bó sâu sắc với công cuộc xây dựng mới của nhân dân, sẵn sàng dấn thân đến những vùng đất còn nhiều khó khăn.
Chế Lan Viên đã viết bài thơ này như một hành trình tâm tưởng đến Tây Bắc, nơi con người thân thiện. Điểm nhấn nghệ thuật của bài thơ là việc xây dựng hình ảnh, thể hiện qua nhan đề và lời đề từ “Tiếng hát con tàu”, tạo nên một bức tranh sinh động và âm thanh du dương, nhờ biện pháp nhân hóa, tác giả đã gửi gắm tình yêu quê hương. Bốn câu mở đầu thể hiện tấm lòng của nhà thơ với mảnh đất Tây Bắc:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bộn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”.
Khi đọc khổ thơ này, hình ảnh Con tàu và Tây Bắc hiện lên như những biểu tượng mạnh mẽ. Con tàu là biểu tượng của khát vọng xa xôi, đến với những nguồn sáng tạo nghệ thuật, và cũng phản ánh thực tế những năm 1956-1958, khi hàng vạn bộ đội và thanh niên xung kích khôi phục tuyến đường sắt lên Lào Cai, Yên Bái. “Tây Bắc” không chỉ là địa danh tuyệt đẹp mà còn là nơi xa xôi, thiếu thốn, nơi nhà thơ đã để lại tâm hồn mình. Tây Bắc là điểm đến và cũng là điểm trở về, nơi nhà thơ gắn bó sâu sắc với kỷ niệm kháng chiến. Từ đó, tâm hồn nhà thơ hòa quyện với cuộc sống lớn, tìm thấy cảm xúc chân thực cho bài thơ. Hai khổ thơ tiếp theo tiếp tục sử dụng biện pháp tu từ:
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng
Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia
Khổ thơ mở đầu bằng câu hỏi có tầm vóc thời đại, sử dụng hình ảnh thiên nhiên để khơi dậy khát vọng lên đường. Nhà thơ khuyên mình và người khác rằng nghệ thuật chỉ nảy sinh khi hồn mở rộng đón nhận cuộc sống. Khát vọng này rõ nét trong các tác phẩm của Chế Lan Viên, vì tâm hồn ông rộng lớn, muốn chia sẻ với mọi người.
Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
Cho con về gặp lại mẹ yêu thương
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
Tác giả sử dụng biện pháp so sánh trùng điệp để truyền tải niềm hạnh phúc, khát vọng về với nhân dân và kỷ niệm sâu nặng. Nhà thơ thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với kháng chiến và tình cảm thiêng liêng với nhân dân. Cách xưng hô “con” vừa thể hiện lòng thành kính vừa thể hiện tình yêu thương bền chặt. Những hình ảnh vừa thơ mộng vừa hòa hợp giữa khát vọng cá nhân và hiện thực. “Trở về với nhân dân” không chỉ là niềm vui mà còn là sự trở về với cội nguồn của sự sống, với những gì thân thiết của lòng mình.
Tác giả tiếp tục sử dụng bút pháp tả thực khi từ những khái niệm trừu tượng quay về với con người gần gũi, yêu mến. Những nhân vật như anh bộ đội, “mế” và các hình ảnh chân thực khác, tạo nên một bài thơ đầy kỷ niệm xúc động. Tính nghệ thuật còn nằm trong triết lý của các câu thơ:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương
Tác giả đã tạo ra những câu thơ đáng suy ngẫm, thể hiện quy luật tình cảm trong tâm hồn con người. Những hình ảnh mờ xa trong sương và mây gợi cảm giác hấp dẫn, phản ánh sự chuyển hóa từ đất lạ thành quê hương. Tình yêu làm cho vùng đất trở thành một phần của tâm hồn, thể hiện sự gắn bó sinh tử với sự vật. Đây là những câu thơ sâu sắc nhất của Chế Lan Viên.
Cuộc kháng chiến tại Tây Bắc dù đầy gian khổ, nhưng đã đạt được thắng lợi vang dội, và tác giả gửi gắm tình cảm đặc biệt cho vùng đất này. Bài thơ mang vẻ đẹp tinh tế và sâu sắc, làm say đắm lòng người. Khi nhắc đến Chế Lan Viên, người ta nghĩ ngay đến tác phẩm “Tiếng hát con tàu”, với những phương diện nghệ thuật tuyệt vời, thể hiện tình yêu quê hương và quân dân keo sơn. Lời thơ của Chế Lan Viên được ví như “một người phụ nữ đẹp ưa trang sức”, phản ánh thành công của phong cách sáng tác của ông.
10. Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong 'Tiếng hát con tàu' - Mẫu 3
Chế Lan Viên, một nhà thơ vĩ đại, đã chinh phục ba đỉnh cao trong thơ ca Việt Nam thế kỷ XX: Thơ mới lãng mạn, thơ ca kháng chiến và thơ Đổi mới sau 1986. Ông được biết đến với phong cách đặc sắc và nổi bật.
Phong cách nghệ thuật của Chế Lan Viên thể hiện qua hai đặc điểm chính: tính trí tuệ và khả năng sáng tạo hình ảnh. Ông là nhà thơ ưa triết lý, thường có những phát hiện sâu sắc và mới mẻ về đối tượng. Thơ của ông rực rỡ vẻ đẹp trí tuệ, đi từ trí tuệ đến trái tim, bởi ông tin rằng 'thơ không chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh'. Tuy nhiên, trí tuệ của ông không khô khan, trừu tượng mà luôn gắn liền với cảm xúc, là trí tuệ của trái tim. Nhiều câu thơ trong 'Tiếng hát con tàu' chứa đựng hàm lượng trí tuệ cao, được kết tinh như những triết lý và quy luật. Ví dụ điển hình:
- Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
- Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!
- Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.
Tính triết lý và trí tuệ của thơ Chế Lan Viên gắn liền với khả năng sáng tạo hình ảnh. Ông cảm nhận và suy nghĩ về mọi vấn đề qua hình ảnh, tạo nên một thế giới thơ phong phú. Nhiều người nhận xét thơ của ông mang vẻ đẹp của một người phụ nữ đẹp, ưa trang sức và biết cách trang điểm.
'Thơ không chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh'
Bài thơ chứa đựng những hình ảnh tả thực, chân thực:
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con.
Cũng có những hình ảnh đẹp đẽ và lãng mạn:
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc.
Có những khổ thơ với hình ảnh liên tiếp:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
Và nhiều hình ảnh biểu tượng, triết lý như Con tàu, Tây Bắc, vầng trăng, suối lớn mùa xuân... Tính trí tuệ và khả năng sáng tạo hình ảnh trong thơ Chế Lan Viên tạo nên vẻ đẹp riêng biệt. Nhờ hình ảnh mà trí tuệ không khô khan, nhờ trí tuệ mà hình ảnh trở nên lấp lánh, đa nghĩa và ám ảnh.