1. Phân tích tác phẩm 'Lưu biệt khi xuất dương' - Bài số 4
“Thi dĩ ngôn chí” - thơ là phương tiện để bày tỏ chí hướng và tâm tư. Vị thế của loại thơ này phụ thuộc vào tầm vóc của chí khí, và chí khí không phải là sự bột phát nhất thời hay những lý tưởng vay mượn. Chí cần được chứng minh bằng hành động cụ thể.
Dù có những sự nghiệp không thành công, nhưng sự dang dở đó vẫn phản ánh một chí lớn đã dấn thân, không phải chí suông. Chính điều đó làm thơ trở nên sâu sắc và có giá trị. Nếu thiếu chí lớn, thơ sẽ chỉ còn là lời lẽ khoa trương, sự phô trương rẻ tiền. Vì vậy, thơ phải gắn liền với một cốt cách và cuộc đời vĩ đại.
Những bài thơ thể hiện chí lớn thường gắn với các bậc hào kiệt, trượng phu. Thơ của họ là một phần không thể tách rời của cuộc đời họ. Trước khi họ ghi dấu mình trong thơ, họ đã để lại dấu ấn trong thiên nhiên và lịch sử. Họ được ví như những cánh đại bàng vẫy vùng giữa không gian rộng lớn.
Tư thế của họ là tư thế vũ trụ, như trong các câu thơ nổi tiếng: “Hoành sóc giang san cáp kỉ thu” (Cấp ngang ngọn giáo bảo vệ giang sơn đã mấy thu - Phạm Ngũ Lão) hay “Kỉ độ long tuyền đới nguyệt ma” (Bao phen mang gươm báu mài dưới trăng - Đặng Dung). Họ chứa đựng hào khí của toàn dân tộc.
Trong dòng chảy của thơ, “Xuất dương lưu biệt” của Phan Bội Châu thể hiện hùng tâm tráng chí của một trong những người con ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam. Quan niệm làm trai trong bài thơ này không phải là ý tưởng của riêng Phan Bội Châu mà là quan niệm chung của các nhà Nho thời trước, từng vang lên mạnh mẽ trong thơ văn Nguyễn Công Trứ.
Điều quan trọng là Phan Bội Châu không chỉ nêu ra lý thuyết mà đã sống và thực hiện quan niệm đó trước khi viết thơ. Vì thế, bài thơ không chỉ chứa đựng một lý tưởng sống mà còn là chân dung của một con người xuất sắc. Hai câu đề:
“Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.”
Chữ “lạ” không đủ diễn đạt toàn bộ tinh thần của chữ “kì”, bởi nó muốn nói đến việc làm điều phi thường, nổi bật. Chữ “đời” trong bản dịch không thể hiện hết không gian vũ trụ rộng lớn mà Phan Bội Châu nhắm đến. Thực ra, Phan Bội Châu không dùng những chữ đó mà chỉ đến câu thứ hai mới xuất hiện yếu tố không gian vũ trụ.
Nam tử phải chủ động thay đổi cả càn khôn. Chí khí vĩ đại, có khả năng thay đổi vũ trụ mới xứng đáng với cuộc đời nam nhi. Quan niệm của Phan Bội Châu là quan niệm về con người vũ trụ trong văn chương Nho giáo. Hai câu thực phát triển hình ảnh nam tử trong một chiều kích khác: thời gian:
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở há không ai?”
Ông tự nhận sứ mạng của mình là một nhân vật quan trọng của thế kỉ. Không phải để chiếm chỗ trong thời gian mà là để làm nên việc lớn lao, làm thay đổi bộ mặt của thế kỉ. “Tớ” trong thơ không chỉ là “tôi” mà còn là sự tự ý thức mạnh mẽ về cá nhân mình trên cõi thế.
Hình ảnh của tác giả trong thời gian và không gian vĩ đại là một vẻ đẹp cá nhân nguy nga. Bài thơ kết thúc bằng hành động kiệt xuất của một cuộc đời vĩ đại:
“Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.”
Hai câu thơ gợi ra sự chuẩn bị, lựa chọn của một con đại bàng. Phan Bội Châu không chỉ tạo ra hình ảnh ước lệ mà còn thể hiện hành động cụ thể của phong trào Đông du. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh hùng vĩ của đại bàng vươn ra biển lớn, đối mặt với sóng gió, thể hiện khát vọng cứu quốc và làm sống lại giang sơn đã chết.
Khát vọng sống cao cả của Phan Bội Châu giúp ta hiểu rõ hơn về cốt cách vĩ đại của con người kiệt xuất này.
2. Phân tích tác phẩm 'Lưu biệt khi xuất dương' - Bài số 5
Trong lịch sử giải phóng dân tộc Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân vật vĩ đại (theo Tôn Quang Phiệt), là linh hồn của các phong trào đấu tranh giải phóng Tổ quốc suốt 25 năm đầu thế kỷ XX.
Danh tiếng của ông gắn liền với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục hội... và hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số bài văn tế và vài ba vở tuồng tràn đầy tinh thần yêu nước. “Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng” (Tố Hữu).
Vào năm 1900, Phan Bội Châu đạt giải nguyên trong kỳ thi Hương trường Nghệ. Năm 1904, ông sáng lập Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Đến năm 1905, ông khởi xướng phong trào Đông Du. Trước khi lên đường sang Trung Hoa và Nhật Bản, ông đã để lại cho đồng chí bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” (Xuất dương lưu biệt), viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật.
Đây là bản hùng ca thể hiện tư thế và quyết tâm của Phan Bội Châu trong buổi đầu ra đi cứu nước. Hai câu đề là tuyên ngôn về chí hướng và lý tưởng sống cao cả:
“Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càng khôn tự chuyển di.”
Tự hào là đấng nam nhi, phải sống một cách phi thường (yếu hi kì). Điều này nghĩa là không thể sống tầm thường, không thể để trời đất tự chuyển dời một cách vô nghĩa. Câu thơ thể hiện tư thế tự tin về đức độ và tài năng, mong muốn tạo dựng sự nghiệp vĩ đại, như ông đã viết trong một bài thơ khác:
“Dang tay ôm chặt bổ kình tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.”
Khi liên hệ câu thơ với sự nghiệp cách mạng sôi nổi của Phan Bội Châu, ta cảm nhận được khí phách anh hùng của nhà thơ vĩ đại. Đấng nam nhi muốn làm nên điều phi thường trong đời, đã nung nấu và tâm niệm theo một câu thơ của Viên Mai:
“Mỗi phạn bất vong nguy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương.”
(Dù mỗi phận có thể tan thành cỏ rác,
Nhưng lập thân thì chỉ có văn chương là thấp nhất.)
Đấng nam nhi muốn làm điều lạ có một bầu máu nóng sục sôi: “Tôi được trời phú cho bầu máu nóng, lúc nhỏ đọc sách của cha tôi, thấy những chỗ người xưa chịu chết vì lý tưởng, nước mắt lại tràn xuống ướt đẫm giấy...” (Ngục trung thư). Thực sự, ý thơ mở rộng, tác giả khẳng định vai trò của mình trong xã hội và lịch sử:
“Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cách vô thủy.”
“Ngã” là ta, “tu hữu ngã” có nghĩa là phải có ta trong cuộc đời một trăm năm (bách niên trung). Câu thơ thể hiện niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ trong hoàn cảnh nước mất nhà tan. Thiên tải hậu là nghìn năm sau, lịch sử của đất nước không thể không có tên tuổi của ta. Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy phủ định để làm nổi bật khẳng định.
Đây là ý thơ sâu sắc về vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng này kế thừa tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng.” (Trần Quốc Tuấn).
“Nhân vinh tự cổ thủy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.”
(Nhân vinh từ xưa nay chưa có người nào,
Lưu lại tâm huyết sáng tựa ngọc sáng.)
So sánh giữa cái hữu hạn của đời người và cái vô hạn của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu tạo nên giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, thể hiện quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì vậy, trên con đường cách mạng giải phóng dân tộc, ông vẫn kiên cường, lạc quan:
“Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!”
Tác giả bàn về sống và chết, về công danh, một ý tưởng mới mẻ trong bối cảnh lịch sử dân tộc dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Khi non sông đã chết, dân ta sống trong nhục nhã, thì việc học hành, thi cử đều vô nghĩa. Sách vở của thánh hiền có ích gì trong việc cứu nước nhà.
“Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học của hoài.”
Phan Bội Châu đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Ông kêu gọi mọi người đoạn tuyệt với học vấn hão huyền, không đắm chìm trong hư danh, mà phải dấn thân theo lý tưởng cao cả. Trong bài “Bài ca chúc tết thanh niên” viết vào Tết năm 1927, ông kêu gọi thanh niên:
“Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi,
Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần,
Đừng ham chơi, dừng ham mặc, ham ăn,
Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa,
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ...”
Sống như vậy là sống đẹp. Sống như thế mới mong làm nên điều lạ ở đời, tự khẳng định được: Trong khoảng trăm năm cần có ta. Phần kết thể hiện một tinh thần thơ bay bổng, lãng mạn:
“Nguyệt trục trường phong Đông hải khử,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.”
Thơ văn Phan Bội Châu là tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, khơi gợi lòng căm thù giặc. Thơ văn của ông trở thành những tác phẩm yêu nước vì chứa đựng cảm xúc sâu sắc, nhiệt huyết dâng trào, với nhiều hình tượng đẹp nói về tinh thần yêu nước và lý tưởng anh hùng. Hai câu kết là ví dụ hùng hồn: “Trường phong” (ngọn gió dài) và “Thiên trùng bạch lãng” (ngàn lớp sóng bạc), là những hình tượng vĩ đại. Chí khí của chiến sĩ cách mạng được diễn tả qua các cụm từ “nguyệt trục” (mong đuổi theo) và “nhất tề phi” (cùng bay lên).
Không gian mênh mông mà nhà chí sĩ mong vượt qua là Đông Hải. Âm điệu bổng trầm của câu thơ góp phần thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Phan Bội Châu trong cuộc hành trình cứu nước. Sự nghiệp cách mạng của ông đã để lại ấn tượng sâu sắc cho hậu thế về những gì Tiên sinh đã nói ở hai câu kết.
Bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” là tác phẩm tuyệt vời, thể hiện tự hào của nhà chí sĩ yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Giọng thơ đĩnh đạc, hào hùng, tráng lệ nhất ở hai câu kết. Bài thơ sâu sắc thể hiện cảm hứng yêu nước và lý tưởng anh hùng của Phan Bội Châu.
3. Phân tích tác phẩm 'Lưu biệt khi xuất dương' - số 6
Phan Bội Châu là người tiên phong trong việc sử dụng văn chương để cổ vũ và tuyên truyền cách mạng trong lịch sử Việt Nam. Ông cũng là người khởi xướng loại văn học trữ tình chính trị, với bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' là một ví dụ tiêu biểu.
Bài thơ này được viết vào ngày Tết năm 1905, khi Phan Bội Châu tổ chức bữa cơm chia tay bạn bè và đồng chí trước khi lên đường sang Nhật Bản. 'Lưu biệt khi xuất dương' thể hiện những ý tưởng lớn lao và trách nhiệm của tác giả, cùng với quyết tâm mãnh liệt trong việc vượt biển ra nước ngoài để 'mưu sự phục quốc'.
Ý chí làm trai đã được nhấn mạnh trong văn học từ xa xưa, đặc biệt là trong thời kỳ phong kiến và sự phát triển của Nho giáo. Nam nhi phải có danh vọng và sự nghiệp để được coi trọng. Ví dụ, trong bài thơ 'Tỏ lòng', Phạm Ngũ Lão viết:
'Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu'
Nguyễn Công Trứ cũng từng viết:
'Chí làm trai nam, bắc, tây, đông
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể'
Để trở thành một nam nhi đáng kính, cần phải phấn đấu, lập công trạng và có khả năng 'vẫy vùng' khắp bốn phương để chứng minh tài năng. Phan Bội Châu kế thừa tư tưởng này và đưa ra một tuyên ngôn mạnh mẽ:
'Sinh vi nam tử yếu hi kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di'
(Làm trai phải có điều lạ trong đời
Há để trời đất tự chuyển dời)
Ông nhấn mạnh rằng làm trai cần phải 'lạ', tức là phải sống khác biệt và tạo ra những điều phi thường, có khả năng thay đổi hoàn cảnh. Nhân vật trữ tình phải có bản lĩnh để không chỉ chấp nhận hoàn cảnh mà còn thay đổi nó.
Phan Bội Châu không chỉ chấp nhận số phận mà còn muốn xoay chuyển hoàn cảnh bằng tài năng của mình. Ý chí làm trai của ông là sự hiên ngang đối diện với trời đất, với tinh thần trách nhiệm cao cả:
'Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy'
(Trong trăm năm cần có ta
Sau này muôn thuở, chẳng lẽ không ai?)
Trong cuộc đời hữu hạn, Phan Bội Châu muốn cống hiến sức mình cho quốc gia và lưu danh sử sách. Ông khẳng định vai trò của mình trong lịch sử và đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, bởi sách vở và học thức không còn ý nghĩa khi đất nước bị xâm lược.
Ông kêu gọi thanh niên và những người yêu nước góp sức vào công cuộc cứu nước, nhấn mạnh rằng việc tìm con đường cứu nước là ưu tiên hàng đầu. Hai câu kết của bài thơ thể hiện tinh thần quyết tâm cao độ của Phan Bội Châu:
'Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi'
(Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.)
Ông khát khao vượt qua biển Đông, thể hiện sự quyết tâm hành động và tầm nhìn rộng lớn của mình. Bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' với giọng điệu hào hùng đã khắc họa tinh thần và khát vọng của một nhà cách mạng đầu thế kỷ XX, đồng thời truyền cảm hứng mạnh mẽ cho thế hệ thanh niên yêu nước.
4. Phân tích tác phẩm 'Lưu biệt khi xuất dương' số 7
Phan Bội Châu (1867 – 1940), tên thật là Phan Văn San, còn gọi là Sào Nam, quê ở làng Đan Nhiệm, hiện nay thuộc xã Nam Hoà, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Sinh ra trong hoàn cảnh đất nước lâm nguy, ông chứng kiến sự thất bại của phong trào Cần Vương chống Pháp và sự suy tàn của chế độ phong kiến. Tình hình này đặt ra cho những chí sĩ yêu nước một câu hỏi lớn: Phải cứu nước bằng cách nào? Trong bối cảnh u ám của thời kỳ đó, những tia sáng hy vọng lóe lên từ các sách Tân thư, truyền bá tư tưởng cách mạng dân chủ của phương Tây, khác xa với các sách thánh hiền xưa. Những gợi ý từ các tài liệu mới này mở ra những viễn cảnh đầy hứa hẹn cho tương lai. Do đó, các nhà Nho tiên tiến như Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh đã dũng cảm tiên phong, đối mặt với nguy hiểm và gian khổ.
Phan Bội Châu là một trong những chí sĩ yêu nước đầu tiên mở ra con đường đấu tranh giải phóng dân tộc theo xu hướng dân chủ tư sản. Mặc dù sự nghiệp của ông không hoàn thành, nhưng ông mãi mãi là hình mẫu sáng chói về lòng yêu nước và ý chí đấu tranh kiên cường.
Ông không xem văn chương là mục tiêu chính trong đời mình, nhưng trong quá trình hoạt động cách mạng, Phan Bội Châu đã sử dụng vũ khí tinh thần này để tuyên truyền và khích lệ tinh thần yêu nước của dân tộc. Năng khiếu văn chương và niềm đam mê mạnh mẽ của ông đã giúp ông trở thành một nhà văn, nhà thơ lớn với những tác phẩm nổi bật như: Việt Nam vong quốc sử (1905), Hải ngoại huyết thư (1906), Ngục trung thư (1914), Trùng Quang tâm sử (1913-1917), Phan Bội Châu niên biểu (1929)…
Năm 1904, ông cùng các đồng chí thành lập Duy Tân hội và năm 1905, hội phát động phong trào Đông Du, đưa thanh niên ưu tú sang Nhật Bản học tập nhằm chuẩn bị lực lượng cho cách mạng và tìm kiếm sự hỗ trợ từ các thế lực bên ngoài. Trước khi lên đường, Phan Bội Châu đã viết bài thơ Xuất dương lưu biệt để từ giã bạn bè và đồng chí. Phiên âm chữ Hán:
'Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di.
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cảnh vô thùy.
Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!
Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.'
Dịch thơ:
'Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?
Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài!
Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.'
Bằng giọng thơ đầy nhiệt huyết, 'Lưu biệt khi xuất dương' khắc họa vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của Phan Bội Châu với tư tưởng mới mẻ, nhiệt huyết sôi sục và khát vọng cháy bỏng trong hành trình tìm đường cứu nước. Bài thơ mở đầu bằng việc khẳng định chí làm trai:
'Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.'
Câu thơ chữ Hán: Sinh vi nam tử yếu hi kì, diễn tả ý nghĩa của việc phải làm điều lớn lao, khác thường. Đây cũng là lý tưởng nhân sinh của các nhà Nho phong kiến.
Trước Phan Bội Châu, nhiều người đã đề cập đến chí làm trai trong thơ ca. Phạm Ngũ Lão đời Trần từng băn khoăn về danh vọng của nam tử, còn Nguyễn Công Trứ trong bài thơ khẳng định: Đã mang tiếng ở trong trời đất,/ Phải có danh gì với núi sông… và nhấn mạnh rằng chí làm trai phải để lại dấu ấn trong mọi miền.
Chí làm trai của Phan Bội Châu thể hiện sự táo bạo và cảm hứng lãng mạn nhiệt thành, khẳng định rằng kẻ làm trai phải thực hiện những việc phi thường, không chỉ đứng nhìn thời cuộc mà phải tham gia vào việc thay đổi nó. Điều này tiếp nối khát vọng trong bài Chơi xuân của ông và thể hiện sự dũng cảm đối mặt với vũ trụ.
Chí làm trai của ông đã vươn lên trên mộng công danh xưa để đạt tới lý tưởng xã hội rộng lớn hơn. Phan Bội Châu không chấp nhận số phận mà muốn chủ động thay đổi càn khôn.
Ông không khuất phục trước hoàn cảnh, thể hiện tư thế hiên ngang và thách thức với vũ trụ. Câu thơ thứ ba khẳng định sự hiện diện của nhân vật là cần thiết và không ngẫu nhiên, và câu thơ thứ tư đặt sự hiện diện của mình trong mối liên hệ với lịch sử.
Phan Bội Châu xác định rằng sự cống hiến của mình là cần thiết, và sự khẳng định đó thể hiện khát vọng đóng góp cho đời và ghi dấu ấn trong lịch sử. Trong bối cảnh đau khổ của đất nước, bài thơ như một hồi chuông thức tỉnh, động viên mọi người đứng lên chống giặc ngoại xâm.
Bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' kết thúc bằng hình ảnh vũ trụ hùng vĩ, con người bay lên với khát vọng lớn lao. Cuộc ra đi bí mật của Phan Bội Châu, dù chỉ có vài người biết, vẫn mang đầy niềm tin và quyết tâm. Bài thơ thể hiện hình ảnh người anh hùng trong tư thế vĩ đại, sống ngang tầm vũ trụ, và luôn khắc khoải trước sự tồn vong của quốc gia. Đây là bài thơ từ biệt và cũng là lời kêu gọi mạnh mẽ, tương xứng với tầm vóc của một con người được cả dân tộc ngưỡng mộ.
5. Phân tích bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' số 8
Vào những năm đầu thế kỉ XX, khi đất nước Việt Nam đang lâm vào cảnh mất chủ quyền và phong trào Cần Vương không thành công, tư tưởng dân chủ tư sản đã mang đến một luồng gió mới cho các thanh niên yêu nước. Họ tìm thấy những lý tưởng mới và ra đi với niềm tin mãnh liệt vào tương lai của dân tộc. Phan Bội Châu là một trong những nhà cách mạng có cuộc ra đi đầy hào hùng như vậy. Trước khi lên đường sang Nhật Bản, ông đã viết bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” như một lời từ biệt. Đây là một tác phẩm nổi bật trong di sản văn học của Phan Bội Châu.
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”
Hai câu thơ đầu mở ra quan niệm mới về chí làm trai và vị thế của con người trong xã hội. Làm nam nhi phải sống phi thường, dám mưu đồ và thay đổi “càn khôn”, không thể sống thụ động, tầm thường. Con người cần khẳng định bản thân chứ không phải đầu hàng số phận. Điều này giống như Nguyễn Công Trứ từng tuyên bố: “Làm trai đứng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. Phan Bội Châu đã thể hiện một tư tưởng cao đẹp và tiến bộ qua những câu thơ này:
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở, há không ai?”
Quan niệm mới này tạo nên ý thức cá nhân với trách nhiệm lớn lao trước thời thế. Nhà thơ khẳng định sứ mệnh thiêng liêng của mình, không sống một cuộc đời bình lặng mà phải cống hiến, để lại dấu ấn với hậu thế. Những hình ảnh vĩ đại như “càn khôn”, “trăm năm”, “muôn thuở” làm nổi bật khát vọng sống và cống hiến của tác giả. Phan Bội Châu cũng bộc lộ thái độ kiên quyết trước tình hình thời cuộc:
“Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài”
Với lòng yêu nước mãnh liệt và sự tinh tường, Phan Bội Châu nhận thức rõ tình trạng đất nước. Lẽ vinh – nhục được ông đặt ra như một nỗi đau xót trước cảnh nước mất, nhà tan. Ông cảm nhận được thực tế rằng “hiền thánh” không thể giúp được gì trong hoàn cảnh hiện tại, điều này thể hiện sự sáng suốt của ông về những hạn chế của học vấn Nho giáo. Phan Bội Châu đã dấy lên những khát vọng mạnh mẽ:
“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”
Hai câu cuối mô tả tư thế hiên ngang và lãng mạn của người ra đi tìm đường cứu nước. Những hình ảnh lớn lao như “bể Đông”, “cánh gió”, “muôn trùng sóng bạc” tạo nên một bức tranh hoành tráng. Dù cuộc ra đi thực tế có vẻ lặng lẽ, bài thơ vẫn thể hiện một tư thế mạnh mẽ và tự tin. Đây là một hình ảnh đẹp trong văn học, kết hợp giữa chất sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Bài thơ được đánh giá cao với sức lôi cuốn mạnh mẽ không chỉ nhờ tư tưởng mới mẻ mà còn vì nghệ thuật đặc sắc. Với thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, Phan Bội Châu đã thể hiện thành công khát vọng và ý thức trách nhiệm của mình. Giọng thơ linh hoạt, sôi nổi và mạnh mẽ tạo nên một tác phẩm đáng trân trọng.
Như vậy, bài thơ đã xây dựng hình tượng người chí sĩ cách mạng với vẻ đẹp hào hùng lãng mạn. Phan Bội Châu, với tình yêu nước sâu nặng, không chỉ trở thành nhà cách mạng vĩ đại mà còn là một văn sĩ đáng kính của dân tộc.
6. Phân tích bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' số 9
Phan Bội Châu được biết đến như một chí sĩ yêu nước, lãnh đạo nhiều phong trào cách mạng. Dù gặp nhiều khó khăn và cuối cùng không đạt được thành công, ông vẫn là hình mẫu sáng ngời cho các thế hệ sau. Không chỉ là chí sĩ, Phan Bội Châu còn là một nghệ sĩ với những tác phẩm nổi bật.
Vào năm 1905, Hội Duy Tân đã triển khai phong trào Đông Du, đưa thanh niên ưu tú sang Nhật Bản để chuẩn bị lực lượng cho cách mạng và nhận sự hỗ trợ từ các thế lực bên ngoài. Trước khi lên đường, Phan Bội Châu đã viết bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” để bày tỏ quan điểm và cảm xúc của mình với các đồng chí.
Trong bài thơ này, Phan Bội Châu đã dùng ngôn ngữ đầy sức mạnh và cảm xúc. Hình ảnh của chí sĩ cách mạng hiện lên với vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng. Những tư tưởng mới mẻ và táo bạo của ông được thể hiện rõ nét trong bài thơ. Mở đầu bài thơ, ông khẳng định chí làm trai ở trên đời:
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”
Nguyễn Công Trứ đã từng nói rằng, làm trai ở trời đất phải để lại danh tiếng với núi sông. Phan Bội Châu tiếp tục quan điểm này theo cách mới mẻ hơn: làm trai phải tạo ra điều khác biệt trên đời.
Điều khác biệt ở đây có thể là việc đứng lên chống lại kẻ thù, không để số phận cuộc đời bị động theo trời đất. Đây là một lời nhắn nhủ thế hệ trẻ cần phải táo bạo và quyết liệt hơn. Chí làm trai của Phan Bội Châu không chỉ gắn với lý tưởng xưa mà còn hướng tới một mục tiêu xã hội cao cả và rộng lớn.
Cảm hứng của ông có thể bắt nguồn từ lý tưởng trí quân, trạch dân của các nhà Nho xưa, nhưng với tinh thần cách mạng, tư tưởng của ông trở nên tiến bộ hơn. Phan Bội Châu không chấp nhận việc để mọi thứ tự nhiên xoay vần.
Ông muốn làm thay đổi cả trời đất, không để chúng tự vận hành. Điều này có nghĩa là Phan Bội Châu không chấp nhận khuất phục số phận. Trong hai câu thực, ông thể hiện rõ trách nhiệm của mình trước lịch sử và vận mệnh đất nước:
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai”
Câu thơ này không chỉ khẳng định sự hiện diện của tác giả mà còn thể hiện tâm niệm rằng sự có mặt của ông không phải ngẫu nhiên. Ông cảm thấy mình cần phải làm những điều có ích để tương lai có người nối tiếp con đường của mình. Chí làm trai không chỉ là lý tưởng trong lòng mà phải đặt vào thực tế lịch sử:
“Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài”
Chí làm trai có thể khác nhau ở mỗi thời kỳ. Trong thời bình, chí làm trai là thi đỗ, làm quan, nhưng trong thời chiến, việc học hành không còn có giá trị nếu đất nước đang lâm nguy. Đối với Phan Bội Châu, lúc này việc quan trọng là đánh đuổi kẻ thù. Hai câu cuối thể hiện khát vọng của nhà thơ về việc vươn ra biển lớn:
“Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”
Hình ảnh trong hai câu thơ mang tầm vũ trụ, khiến ý chí của tác giả trở nên vĩ đại hơn. Tất cả hòa quyện vào nhau để tạo nên một bức tranh hoành tráng.
Bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” đã chạm đến trái tim người đọc, khích lệ tinh thần những người chiến sĩ thời đó. Đây xứng đáng là kiệt tác mà không chỉ thế hệ trước, mà cả thế hệ hiện tại và tương lai đều có thể rút ra bài học quý giá.
7. Phân tích bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' số 10
Phan Bội Châu (1867-1940) là một nhà cách mạng vĩ đại và nhà yêu nước kiệt xuất của dân tộc, với một khát khao mãnh liệt trong việc tìm kiếm con đường cứu nước mới. Mặc dù tài năng văn chương của ông rất xuất sắc, ông không coi văn học là con đường sự nghiệp chính của mình. Thay vào đó, ông sử dụng nó như một công cụ để kêu gọi cách mạng và thúc giục các thanh niên yêu nước đứng lên cứu nước và cứu dân. Tinh thần yêu nước ấy thể hiện rõ trong tác phẩm “Lưu biệt khi xuất dương” (1905), sáng tác trước khi ông lên đường sang Nhật.
Bài thơ được viết bằng chữ Hán theo thể thất ngôn bát cú Đường luật. Dù mang hình thức cổ điển, bài thơ lại thể hiện cảm hứng và khí phách rất hiện đại, phản ánh tinh thần của một nhà nho tiến bộ. Nó không chỉ là một lí tưởng sống cao đẹp mà còn là một bài học về đạo làm người, một bài ca hùng tráng về chí nam nhi với vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng.
Phan Bội Châu không bắt đầu bài thơ bằng những lời từ biệt đầy xúc động, mà thay vào đó là những câu thơ thể hiện lí tưởng hoài bão của một người muốn làm chủ vũ trụ và xoay chuyển đất trời:
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”
(Sinh vi Nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển đi)
Hai câu thơ thể hiện một lí tưởng cao cả, khẳng định rằng con người phải chủ động trong việc làm chủ lịch sử và không để hoàn cảnh quyết định cuộc đời mình. 'Làm trai' ở đây là một lời khẳng định về chí khí và trách nhiệm của thanh niên, phải tạo ra những thành tựu lớn để lại dấu ấn lâu dài, không sống tầm thường hay ích kỉ. Phan Bội Châu mở ra một quan niệm mới về chí làm trai, khác với truyền thống Nho giáo.
Hai câu thơ tiếp theo nhấn mạnh trách nhiệm của tác giả đối với dân tộc và lịch sử:
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?”
Câu thơ thể hiện trách nhiệm của tác giả trong việc phục vụ cách mạng và những lí tưởng cao đẹp, với niềm tin vào sự kế thừa của thế hệ sau để xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn.
Câu thơ “Sau này muôn thuở há không ai?” không chỉ đặt ra cho ông mà còn cho những thanh niên yêu nước, thể hiện niềm tin vào khả năng của thế hệ tiếp theo trong việc tạo dựng một tương lai tươi đẹp. Đồng thời, giọng thơ khẳng định vai trò của cá nhân ông và thúc giục những chí sĩ yêu nước tiếp tục cuộc hành trình.
Hai câu thơ tiếp theo diễn tả nỗi đau đớn khi đất nước mất tự do và sự vô nghĩa của việc học hành khi đất nước đang lâm nguy:
“Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.”
Câu thơ phản ánh nỗi đau và sự thất vọng của tác giả khi đất nước mất tự do và chủ quyền. Tác giả không chê bai việc học hành mà chỉ nhấn mạnh rằng khi quốc gia đang trong tình cảnh khốn cùng, việc học hành trở nên vô nghĩa.
Cuối bài thơ, Phan Bội Châu thể hiện khát vọng mãnh liệt và quyết tâm ra đi cứu nước:
“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.”
Câu thơ vẽ nên hình ảnh hùng vĩ của cuộc ra đi, với quyết tâm vượt biển lớn và vượt qua mọi thử thách. Những hình ảnh sóng gió được khắc họa bằng giọng thơ hào hùng, thể hiện sự mạnh mẽ và nhiệt huyết sục sôi.
Bài thơ không chỉ là lời chia tay mà còn là một tiếng gọi mạnh mẽ, kêu gọi các thế hệ thanh niên yêu nước đứng lên hành động vì tương lai của đất nước. Nhân vật trữ tình trong bài thơ hiện lên như một hình mẫu đẹp của nhà nho tiến bộ với lí tưởng cứu nước, khát vọng sống và chiến đấu vì dân tộc. Những hình ảnh vũ trụ bao la càng làm rõ vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu.
8. Phân tích tác phẩm 'Lưu biệt khi xuất dương' số 1
Phan Bội Châu (1867-1940), xuất thân từ Làng Đan Nhiễm, xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, ngay từ thuở nhỏ đã bộc lộ sự tài ba vượt trội cùng lòng yêu nước sâu sắc và ý thức rõ ràng về nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Ông là một nhân vật tiêu biểu với quan niệm tích cực về việc nhập thế, luôn canh cánh trong lòng về nghiệp công danh và trách nhiệm của người nam nhi.
Ông tham gia nhiều phong trào chống Pháp và, sau nhiều thất bại, nhận thấy sự yếu kém trong tổ chức của các phong trào yêu nước thời đó, từ đó đề xuất con đường cứu nước qua tư sản. Ông ấp ủ kế hoạch gửi các thanh niên ưu tú sang Nhật Bản, Trung Quốc học tập để trở về giúp nước, gọi là phong trào Đông Du với tổ chức Duy Tân hội.
Ý tưởng tiến bộ của Phan Bội Châu đã mở ra một con đường mới cho cách mạng Việt Nam vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, mặc dù kết quả không đạt được kỳ vọng. Bên cạnh vai trò cách mạng xuất sắc, ông còn là nhà thơ, nhà văn nổi bật nửa đầu thế kỷ 20, với tác phẩm phong phú, mở đầu cho nền văn học cách mạng Việt Nam, mà sau Tố Hữu đã đạt đến đỉnh cao.
Bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” là tiêu biểu cho phong cách của Phan Bội Châu, không chỉ thể hiện lý tưởng cách mạng của một chí sĩ yêu nước mà còn đánh dấu sự khởi đầu của công cuộc tìm đường cứu nước theo chủ nghĩa tư bản của ông.
Viết năm 1905 trước khi ông và các thanh niên ưu tú lên tàu sang Nhật Bản, tác phẩm động viên tinh thần ra đi và củng cố niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước. Bài thơ phản ánh chí khí của một nhà nho với tinh thần yêu nước sâu sắc, quyết tâm trả món nợ công danh trong thời kỳ Tổ quốc lâm nguy và biến động.
Trong hai câu thơ đầu, tác giả thể hiện quan điểm về chí làm nam nhi trong một thời đại đầy biến động, yêu cầu con người phải thay đổi để tạo dựng con đường riêng cho bản thân và dân tộc, đồng thời giữ vững khí tiết của một nhà nho và một nhà cách mạng sôi nổi.
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”
Phan Bội Châu cho rằng người nam nhi phải tạo ra sự khác biệt cho mình, không chấp nhận cuộc sống tầm thường, mà phải nổi bật với lý tưởng cao đẹp và ước mơ lớn. Người nam nhi phải dám vượt qua mọi thử thách và giới hạn để đạt được thành công, sống một cuộc đời đáng tự hào, không lãng phí vào sự vô nghĩa.
Câu thơ “Há để càn khôn tự chuyển dời” thể hiện ý chí mạnh mẽ, khẳng định sự chủ động trong việc quyết định vận mệnh cuộc đời, không chấp nhận sự an nhàn, mà phải có thái độ kiên cường và hiên ngang.
Ý thơ của Phan Bội Châu không chỉ phản ánh chí khí cá nhân mà còn khuyến khích thanh niên trong thời đại mới đứng lên phụng sự Tổ quốc, nâng cao giá trị bản thân và không chấp nhận cuộc sống tầm thường.
Trong hai câu tiếp theo “Trong khoảng trăm năm cần có tớ/Sau này muôn thuở há không ai”, tác giả đề cập trách nhiệm của người làm trai đối với đất nước, đặc biệt trong thời kỳ lịch sử đầy biến động. “Trăm năm” ngụ ý về một đời người và thời đại lịch sử, khẳng định tầm quan trọng của mỗi cá nhân trong việc phục hưng và bảo vệ đất nước.
Phan Bội Châu khuyến khích thanh niên hãy sống sao cho xứng đáng với kỳ vọng của tạo hóa và danh xưng nam nhi. Câu hỏi “Sau này muôn thuở há không ai?” thể hiện sự kỳ vọng và khích lệ các thế hệ tiếp theo.
Ông dùng lý tưởng và chí khí của mình làm gương sáng, đặt những bước đầu tiên cho cách mạng tiên tiến của dân tộc, khơi dậy tinh thần cách mạng và lòng yêu nước trong thanh niên.
Cuối cùng, hai câu thơ “Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” mô tả hình ảnh người chí sĩ yêu nước lên đường vượt biển để tìm chân trời mới, thể hiện phong thái hiên ngang và tự tin. Những hình ảnh “bể Đông” và “muôn trùng sóng bạc” gợi ra không gian rộng lớn và khát vọng cao cả của người chí sĩ, làm nổi bật tầm vóc và sự kiêu hãnh của nhân vật.
Bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” không chỉ bộc lộ lý tưởng cách mạng mà còn là nguồn động viên, khơi dậy lòng yêu nước và tự tôn dân tộc, đồng thời thức tỉnh khát vọng và lý tưởng cao đẹp của thanh niên Việt Nam trong thời kỳ biến động. Đây là một trong những bài thơ trữ tình cách mạng đầu tiên, mở đường cho nền văn học cách mạng Việt Nam phát triển sau này.
9. Phân tích tác phẩm 'Lưu biệt khi xuất dương' phần 2
Phan Bội Châu là người tiên phong trong việc sử dụng văn chương để cổ vũ cách mạng và tuyên truyền. Ông không chỉ mở đường cho thể loại văn chương trữ tình chính trị mà còn để lại dấu ấn với bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương'. Bài thơ này được viết vào dịp Tết 1905, khi ông tổ chức bữa cơm chia tay bạn bè trước khi lên đường sang Nhật Bản. 'Lưu biệt khi xuất dương' thể hiện tầm nhìn lớn lao và quyết tâm của tác giả trong việc thực hiện lý tưởng cứu nước.
Khái niệm chí làm trai đã có từ lâu trong văn học, đặc biệt được nhấn mạnh trong thời kỳ phong kiến. Nam nhi phải có danh vọng và sự nghiệp để được coi trọng. Phạm Ngũ Lão trong bài thơ 'Tỏ lòng' và Nguyễn Công Trứ trong các tác phẩm của mình đều nhấn mạnh tinh thần này. Phan Bội Châu kế thừa tư tưởng ấy, khẳng định quan điểm về chí làm trai với tinh thần quyết liệt và khí thế:
'Sinh vi nam tử yếu hi kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di'.
(Làm trai phải nổi bật,
Chứ không để trời đất tự thay đổi)
Ông cho rằng, làm trai phải sống khác biệt, có bản lĩnh và không bị hoàn cảnh chi phối. Phan Bội Châu không chấp nhận sự đầu hàng mà nỗ lực thay đổi hoàn cảnh bằng khả năng của mình. Ông thể hiện chí làm trai của một người dám thách thức trời đất, khẳng định vai trò của mình trong vũ trụ:
'Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy'
(Trong trăm năm, phải có tên tuổi,
Sau này muôn thuở, không ai quên.)
Ông mong muốn để lại dấu ấn trong lịch sử và có công lao đáng kể với đất nước. Phan Bội Châu đã thể hiện trách nhiệm cao cả và không chỉ lo nghĩ cho bản thân mà còn cho tương lai dân tộc:
'Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si'!
(Nước mất thì sống cũng nhục,
Hiền thánh còn đâu, học cũng vô ích!)
Ông nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc là quan trọng nhất, cho rằng sách vở không có giá trị khi đất nước bị xâm lược. Ông mong phong trào Đông du của mình sẽ thành công và khuyến khích thanh niên góp sức cứu nước. Bài thơ thể hiện tinh thần quyết tâm và khát vọng cứu nước của Phan Bội Châu, với hình ảnh mạnh mẽ và hào hùng:
'Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi'.
(Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Vượt sóng bạc để ra khơi.)
Bài thơ, với giọng điệu hào hùng và đầy tâm huyết, phản ánh khát vọng và quyết tâm của một nhà cách mạng đầu thế kỉ XX, khắc họa hình ảnh một nhân vật trữ tình mới mẻ và đầy khí thế của thời đại.
10. Phân tích tác phẩm 'Lưu biệt khi xuất dương' số 3
Phan Bội Châu (1867-1940), cái tên đã vang danh một thời. Tôn Quang Phiệt từng khẳng định: 'Trong lịch sử giải phóng dân tộc Việt Nam, Phan Bội Châu trước Hồ Chí Minh là một nhân vật vĩ đại.' Ông là linh hồn của các phong trào yêu nước trong khoảng 25 năm đầu thế kỉ XX.
Ông gắn bó với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông du và Việt Nam Quang Phục Hội. Phan Bội Châu để lại dấu ấn qua hàng trăm bài thơ, nhiều cuốn sách, bài văn tế và vài vở tuồng đầy tình yêu nước. “Phan Bội Châu với những câu thơ hùng tráng” (Tố Hữu).
Năm 1900, Phan Bội Châu đỗ giải nguyên trong kỳ thi Hương trường Nghệ An. Năm 1904, ông thành lập Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước, và năm 1905, ông khởi xướng phong trào Đông du. Theo chủ trương của Hội Duy Tân, ông đã sang Nhật Bản để tìm kiếm con đường cứu nước.
Bài thơ “Xuất dương lưu biệt” được viết để tặng các đồng chí trước khi lên đường. Bài thơ này đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của Phan Bội Châu. “Xuất dương lưu biệt” được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là bản nhạc thể hiện sự quyết tâm và những ý tưởng cao cả của chí sĩ trong giai đoạn đầu ra đi cứu nước. Hai câu thơ mở đầu như một tuyên ngôn về chí hướng:
“Sinh vi nam tử yếu hi kì,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”
Ông tự hào là đấng nam nhi nên phải sống khác biệt, không sống tầm thường để trời đất tự thay đổi. Câu thơ thể hiện tư thế và tâm thế của người chí sĩ, tự tin vào khả năng của mình để làm nên sự nghiệp lớn, như đã thể hiện trong một bài thơ khác:
“Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù”.
Câu thơ này phản ánh khí phách anh hùng của Phan Bội Châu. Ông nung nấu tinh thần làm nên điều lạ, với bầu máu nóng sôi sục, như ông đã chia sẻ trong 'Ngục trung thư'. Phan Bội Châu tự khẳng định vai trò của mình trong xã hội và lịch sử:
“Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”
“Ngã” là ta, và “tu hữu ngã” có nghĩa là trong cuộc đời trăm năm, phải có ta. Câu thơ thể hiện niềm tự hào và sự khẳng định vai trò cá nhân trong lịch sử. Phan Bội Châu đã kế thừa tư tưởng của các vĩ nhân, sẵn sàng gánh vác trách nhiệm lịch sử.
“Nhân sinh tự cổ thày vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”
(Văn Thiên Tường)
Phan Bội Châu dùng hình ảnh của thời gian hữu hạn để đối chiếu với lịch sử vô hạn, tạo nên một giọng thơ hào hùng, thể hiện quyết tâm cao độ trong hành trình cứu nước. Ông vẫn giữ vững tinh thần và quyết tâm dù đối mặt với thử thách lớn:
“Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiềm sợ gi đâu!”
(“Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông”)
Bài thơ “Xuất dương lưu biệt” là một kiệt tác thể hiện lòng yêu nước và tinh thần anh hùng của Phan Bội Châu. Với giọng thơ đĩnh đạc và hào hùng, bài thơ không chỉ thể hiện cảm hứng yêu nước mà còn là một minh chứng cho lí tưởng cao đẹp của chí sĩ vĩ đại này.