1. Mùa Xuân
Những bước chân vui vẻ
Dẫn trẻ đến những trò chơi
Mùa xuân đã đến
Ánh sáng mùa xuân rạng ngời.
Những đám mây bông trắng
Trôi lững lờ giữa bầu trời xanh
Gió thổi nhẹ nhàng
Bay cao tựa bầu trời
Vườn rộng lớn
Cỏ non xanh mướt
Hoa đào rực rỡ
Vườn xuân ấm áp
Chim ca líu lo.
2. Ông và Cháu
Để trở thành ông
Không phải điều đơn giản
Phải biết yêu thương trẻ
Để trẻ cảm nhận được tình yêu;
Phải biết chiều chuộng
Đúng mức độ;
Phải biết dạy dỗ
Mà không cần roi vọt;
Phải biết các trò chơi
Để trẻ vui thích;
Cần nhiều câu chuyện cổ tích
Để kể cho trẻ;
Biết gấp giấy
Biến thành người giấy,
Thuyền giấy,
Tên lửa giấy,
Ngựa giấy,
Chim cò giấy...
Biết làm bò giấy
Để cháu cưỡi;
Biết vài bài hát mới
Để dạy trẻ hát
Và biểu diễn;
Phải biết xử lý mọi việc
Để thông minh,
Được yêu mến,
Và không sai lầm.
Tính cách trẻ em
Thường tò mò
Hỏi những câu bất ngờ
Với nhiều điều lạ lẫm
Ai? Tại sao?
Làm thế nào?
Nhiều lúc bối rối...
Ông phải suy nghĩ
Để đáp lại thật thông minh.
Cháu và ông
Hai thế hệ
Già và trẻ,
Hòa hợp với nhau
Trong niềm vui
Rất hạnh phúc!
3. ...Và ông trẻ tuổi
Đúng là lạ đời khi có nhiều ông già
Vẫn vui tươi như tuổi thơ
Đầu tóc nhuộm đen để trẻ lại
Râu ria cạo sạch để trông như trai trẻ
Vẫn còn sức khỏe như thời trẻ
Làm việc không ra gì, mà vẫn kiên nhẫn
Thấy gái thì mắt sáng lên như thấy mỡ
Với năm thê bảy thiếp cũng không đủ lòng.
4. Mười thương
Thương đầu tiên là tóc lệch ngôi,
Thứ hai là quần trắng, áo mùi, khăn san.
Thứ ba là trang điểm sáng sớm,
Thứ tư là hàm răng trắng ngọc.
Thứ năm là lược Huế cài đầu,
Thứ sáu là ô lục có màu xanh trời.
Thứ bảy là nhiều bạc nhiều tiền,
Thứ tám là khi có chút nữ quyền.
Thứ chín là cô vẫn ở nhà,
Thứ mười... thôi, chỉ mình ta thương mình...
Nguồn: Tú Mỡ, Giòng nước ngược - Tập I, Trung Bắc Tân Văn, 1934
5. Thề Đi
Vì tiền bạc mà xảy ra kiện tụng
Thần công lý chẳng biết đường nào mà mò.
Vay mượn, giấy tờ mập mờ,
Kẻ thì chưa giả, người đã thưa giả rồi.
Quả thật là rắc rối, phiền phức,
Quan tòa không rõ ai thật, ai giả.
Các ngài đành bó tay,
Muốn tìm manh mối phải nhờ đến thần quyền.
Cho bên bị và bên nguyên
Ra đền Hàng Trống mà tuyên thề.
Ai thật, Thánh sẽ cho về...
Ai gian, Thánh sẽ trừng trị ngay.
Đền Hàng Trống? Các ngài ơi,
Các ngài hãy để tôi cười cho đã.
Đền Hàng Trống gần đây
Bị trộm vào moi hòm tiền.
Thánh Bà nếu quả linh thiêng,
Đã khiến cho kẻ trộm phải sợ hãi!...
Huống chi là việc thề thốt,
Các trò lừa dối con người thế gian!
Từ xưa, bao kẻ dối trá,
Vẫn sống ung dung, bình an như thường.
Thần thánh ơi, quả là chuyện hoang đường!
Thề trê chui ống, trò mường nào tin?
Nguồn: Báo Ngày nay, số 89, ngày 12-12-1937
6. Tương Tư
Vì ai mà nỗi nhớ dâng trào
Như tơ tình lỡ lạc, lòng vấn vương
Sáu khắc trong mộng hình bóng đẹp
Năm canh đêm dài nhớ người xưa
Ruột tằm nát bươm vì tơ rối
Giấc mộng dài năm canh không dứt
Muốn gửi lời, không biết nhờ ai
Đôi mắt mòn mỏi chờ sông Tương.
Nguồn: Tú Mỡ toàn tập - Tập I, NXB Văn học, 1996
7. Ông Cụ Non
Nhớ ngày xưa khi còn nghèo khổ,
Chưa có danh phận gì.
Trí tuệ thì to lớn,
Không hổ thẹn làm đàn ông.
Đã tính toán bao việc lớn,
Lợi ích cho dân và nước.
Ghi danh cùng núi sông,
Để thỏa lòng ước ao.
Giờ đây với lương hưu,
Sống an nhàn, no ấm.
Đã từ bỏ lý tưởng cũ,
Óc não như đã mòn.
Giờ tự mãn như trưởng giả,
Sống theo chủ nghĩa an nhàn,
Đội mũ che tai,
Việc đời không màng đến!
Ngày ngày đi đi lại lại,
Ăn no rồi ngủ say.
Chỉ quan tâm đến chuyện bếp núc,
Không còn để ý đến thế sự.
Giao du với non bộ,
Uốn cây cối cổ thụ.
Ngày dài như ma xó,
Lang thang không mục đích.
Uống rượu, ngâm thơ,
Say sưa như kẻ mộng mơ.
Khác gì đồ cổ xưa,
Thân sống mà hồn mơ màng.
Người ta khi giàu có,
Phải tập trung trí óc.
Anh mới hưởng thụ đời,
Thì sao lại vội vã buông xuôi?
Non bộ nên xếp lại,
Chơi cảnh nhỏ hẹp làm gì.
Đất nước Việt Nam rộng lớn,
Mới thực sự đẹp đẽ.
Thôi không làm thơ nữa,
Rượu cũng bỏ qua.
Những cử chỉ vụng về,
Đợi khi sáu bảy mươi tuổi.
Nguồn: Việt Nam thi nhân tiền chiến, Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng, NXB Xuân Thu, 2000
8. Thương Ông
Ông bị đau chân,
Chân sưng tấy,
Đi phải chống gậy,
Khập khiễng, khập khà,
Bước lên bậc thềm,
Nhấc chân thật khó,
Nhìn thấy ông nhăn nhó,
Việt chơi ngoài sân,
Chạy lại gần,
Âu yếm và nhanh nhẹn:
“Ông vịn vào vai cháu,
Cháu sẽ đỡ ông lên.”
Ông bước lên thềm,
Trong lòng cảm động,
Quẳng gậy, cúi xuống,
Quên hết đau đớn,
Ôm cháu xoa đầu:
“Hoan hô thằng bé!
Bé thế mà khỏe,
Vì nó yêu ông.”
Đôi mắt sáng ngời,
Việt thì thầm:
“Ông đau lắm không?
Khi nào ông đau,
Nhớ câu của bố cháu,
Nhắc đi nhắc lại:
- Không đau! Không đau!
Dù đau đến đâu,
Khỏi ngay lập tức.”
Tuy chân còn nhức,
Ông phải mỉm cười:
“Ừ, ông thử theo lời,
Để xem có hiệu quả không.”
Ông lập tức nói:
“Không đau! Không đau!”
Và ông gật đầu:
“Khỏi rồi! Thật kỳ diệu!”
Việt vui mừng:
“Cháu đã bảo mà!”
Và móc túi ra:
“Biếu ông cái kẹo!”
Nửa đầu bài thơ này đã được trích giảng trong sách giáo khoa cấp I nhiều năm.
Nguồn: Định Hải, Hương cốm, NXB Kim Đồng, 1975
9. Khóc người vợ hiền
Bà Tú ơi! Bà Tú ơi!
Té ra bà đã qua đời, thật sao?
Tôi cứ nghĩ mình mơ quái ác,
Vùng dậy tỉnh giấc chiêm bao
Tỉnh dậy, chẳng thấy đâu,
Chẳng thấy bóng dáng đi lại hôm qua,
Không còn thấy dáng vẻ hiền hòa,
Tuy tuổi đã gần bảy mươi,
Vẫn còn khỏe mạnh, vui vẻ,
Nhanh nhẹn như thuở xuân xanh.
Nhìn sau lưng cứ ngỡ
Một cô gái trẻ trung.
Vậy mà cái chết bất ngờ
Cướp đi bà, thật đau xót!
Kể từ khi chúng ta kết tóc,
Đã gần năm mươi năm,
Thủy chung chồng vợ hòa thuận,
Gia đình hạnh phúc ấm êm.
Tôi có được người vợ hiền thục,
Cảm thấy mình thật may mắn!
Chúng ta cùng chung cảnh nghèo,
Đạo vợ chồng lấy chữ yêu làm nền.
Nhớ khi nằm giường bệnh,
Bà còn thủ thỉ tình yêu thương:
“Nếu tôi chết, ông sẽ khổ,
Vì theo câu cổ ngữ,
Con cái nuôi cha
Cũng không chu đáo bằng bà nuôi ông.”
Bà ơi, yên lòng nhé,
Giấc nghìn thu cho tâm hồn thanh thản,
Bà đi, có dâu con,
Một lòng chăm sóc, phụng dưỡng ông già.
Tôi có khổ, chỉ là thiếu bà,
Nhà cửa vắng lặng,
Khổ khi thức dậy giữa đêm,
Bên giường trống trải, một mình nằm trơ.
Khổ nhớ lại những ngày xưa,
Pha trà, mời nước nhau.
Giờ không thấy bà đâu,
Bên bàn thờ, chén sầu đầy vơi...
Khổ khi ra sân mê mẩn,
Ngắm vườn nhà thấy cảnh thênh thang,
Mà bà đã khuất núi,
Quả cau tươi, lá trầu vàng không còn ai ăn.
Khổ khi thấy cơi còn đó,
Đã khô trầu, khô vỏ, khô cau.
Ba thước đất đã vùi sâu,
Cặp môi cắn chỉ ăn trầu đỏ tươi.
Ngẫm cảnh già, cuộc đời sung sướng,
Tưởng vợ chồng còn hưởng lâu dài,
Không ngờ số phận khắc nghiệt,
Bà đi để lại nỗi sầu cho tôi.
Ôi! Duyên nợ thế thôi là hết,
Năm tháng yêu nhau thiết tha!
Bà về trước, tôi về sau,
Thôi đành tạm biệt, nuốt sầu gượng vui.
Bà đi rồi, tôi phải ở lại,
Công việc đời còn dở dang,
Bao giờ xong nhiệm vụ,
Về nơi cực lạc, lại gặp bà...
10. “Phở” là món ăn được ngợi ca
Trong số các món ăn quý giá,
Phở là một món quà đáng trân trọng.
Chỉ vài đồng, không quá đắt,
Mà có đủ vị: ngọt, bùi, thơm, béo, bổ.
Bánh cuốn, thịt bò, nước dùng với mỡ,
Rau thơm, hành thái nhỏ rắc lên.
Nước mắm, tiêu, dấm, ớt thêm vào,
Khói bay nghi ngút, thơm lừng mũi.
Như chạm đến lòng ruột, phổi gan,
Như đánh thức cái đói trong người.
Dù có món cao lương, hải vị không sánh bằng,
Một bát phở cũng đủ làm hài lòng.
Người giàu sang hay người nghèo khó,
Hỏi ai không thích món này?
Thầy thông, thầy phán ngày qua đêm,
Ăn phở sáng sớm, ngon và chắc dạ.
Thợ làm ăn vất vả cả ngày,
Ăn phở cũng giúp giảm bớt mệt nhọc.
Nhà thơ thức đêm viết lách,
Ăn phở giúp xua tan lo âu.
Diễn viên, ca sĩ, làm việc căng thẳng,
Phở giúp họ thư giãn và vui vẻ.
Chị em gái, từ sáng đến tối,
Phở giúp họ giữ gìn nhan sắc.
Phở như một bài thuốc bổ, tốt gấp mười thuốc bắc,
Quế, sâm, nhung chưa chắc hơn gì.
Phở bổ âm, dương, phế, thận, can, tì,
Bổ cả ngũ tạng, bát mạch.
Những người lao động kiếm tiền vất vả,
Phở là một loại thuốc vô cùng hữu ích.
Các vương tôn quý tộc, dù ăn món cao sang,
Chưa ăn phở, vẫn chưa đủ món.
Đừng coi thường phở, món ăn bình dân,
Dù sao Paris vẫn phải chào đón phở.
Cùng các món ăn từ khắp nơi trên thế giới,
Ngon lại rẻ, thường thấy ở quán ăn.
Sống trên đời, không ăn phở là thiếu sót,
Khi ra đi, chắc chắn sẽ phải dâng phở.
Ai ơi, thử ngay kẻo thèm.
Nguồn: Việt Nam thi nhân tiền chiến, Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng, Xuân Thu tái bản, 2000