1. Con chim chiền chiện
Con chim chiền chiện
Bay cao vút trời
Lòng tràn yêu thương
Hát những giai điệu ngọt ngào.
Cánh đập giữa bầu trời
Cao vút không ngừng
Tiếng hót trong trẻo
Như sương mai lấp lánh
Chim ơi, chim kể
Chuyện gì, chuyện gì?
Lòng vui bồi hồi
Đời thăng hoa đến thế...
Tiếng hót thanh tao
Chim ngân từng chuỗi
Lòng chim ngập tràn
Hát không mệt mỏi.
Chim bay, chim đậu
Lúa ngả bụng đầy
Đồng quê tràn ngập
Những giai điệu chim ca.
Bay cao, biến mất
Chỉ còn tiếng hót
Làm xanh mơ mộng
Trời xanh thêm...
Con chim chiền chiện
Hồn quê xanh mát
Sáng nay lại hót
Tươi vui lòng ta.
Huy Cận thật sự là nhà thơ của tiếng chim, của bầu trời, và của đồng quê yêu dấu. Bài thơ về con chim chiền chiện phản ánh hình ảnh con chim tự do bay lượn và hát giữa không gian rộng lớn, thể hiện cuộc sống ấm no, hạnh phúc, và truyền cảm hứng yêu đời, yêu cuộc sống.
2. Ngậm ngùi
Mặt trời chia nửa bãi; chiều đã xuống...
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá buồn.
Sợi tơ nhện kéo nỗi sầu;
Em ơi, hãy ngủ... anh đây quạt nhẹ.
Lòng anh mở ra với chiếc quạt này;
Trăm con chim mộng về bay quanh giường.
Ngủ đi em, mộng yên bình!
Ru em bằng tiếng thuỳ dương bên bờ...
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ...
- Hồn em đã trải qua bao mùa đau thương?
Tay anh em hãy tựa đầu,
Để anh nghe trái sầu rơi nhẹ...
Bài thơ “Ngậm ngùi” với tiếng ru em lần cuối, thể hiện nỗi buồn khi quạt đưa em vào giấc ngủ vĩnh hằng và cảm giác trái sầu rơi. Huy Cận thể hiện sự tê liệt và bi thương khi mất đi người yêu quý, như lạc vào khoảng không mờ mịt giữa thực và mơ. Đọc bài thơ, ta cảm nhận nỗi đau mất mát, như lạc vào giấc mơ ngày xưa khi em gái còn gối đầu bên vai để ông quạt mỗi trưa.
3. Áo trắng
Áo trắng giản dị, mộng mơ tinh khôi,
Ngày xưa em đến, mắt long lanh như lòng.
Ánh sáng bừng lên. Em bước đến,
Gót ngọc mang hương, bước chân rực rỡ.
Đôi tay em xinh xắn, ngón thon gọn;
Gò má em duyên dáng, nắng tươi sáng.
Em thổi gió xanh vào mái tóc,
Làm phong cảnh phòng anh thêm kỳ vĩ.
Em nói, anh nghe tiếng và lời;
Hơi thở của em là không khí của anh.
Nắng thơ rực rỡ trên tà áo,
Lá nhỏ vui mừng phất phơ ngoài cửa.
Đôi lứa thần tiên trọn vẹn một ngày.
Em trao hạnh phúc đầy tay anh.
Áo trắng dịu dàng như dòng suối,
Toả sáng đôi hồn như cánh mộng bay.
Áo trắng là một bài thơ bảy chữ, bốn khổ với nghệ thuật tập trung như một bài tứ tuyệt: ba vần bốn câu, phá trắc, vần bằng. Ngôn ngữ giản dị, ít tu từ hơn thơ Hàn Mặc Tử, với nhịp thơ trầm lắng, Áo trắng đưa ta trở về với không gian tình cảm êm đềm của những ngày xưa thân ái.
4. Những cánh buồm
Những cánh buồm nâng đỡ cột buồm
Hoa vui sông nước bốn mùa trổ
Hoa nâu chân thật màu quê xưa
Nắng chói trưa lại tím hồng.
Niềm vui của buồm và sông
Tròn căng như ngực gió mây lồng
Sông dài rộng lớn buồm ôm trọn
Nước ngược không ngừng, cánh buồm rong ruổi.
Cột buồm ơi với cánh buồm ơi
Nửa vững chắc, nửa bay xa
Hồn ta hòa gió hai chiều ấy
Vươn một buồm, chếch hướng biển khơi.
Mỗi bài thơ của Huy Cận đều mang phong cách đặc biệt và điểm chung là sự hàm súc, triết lý. Ông là đại diện xuất sắc của phong trào thơ mới với hồn thơ đầy cảm xúc.
5. Đêm đầu hè
Đêm đầu hè gió nhẹ lướt qua
Trời dãn ra, như mơ giấc ngủ dần
Đất thoảng mùi hương của năm cũ
Chân bước như sóng triều nâng đỡ.
Đêm thở ra ngàn lá mới non
Không gian tràn ngập sắc tươi mát
Vào hè mà còn chút hương xuân
Ta hỏi bờ đê hoa gạo đỏ rực.
Đi trong đêm hè, đêm hè đẹp
Trời như gương sen tỏa hương bốn bề
Những vì sao vàng lấp lánh như nhị
Hồn ta bay bổng giữa không gian đêm.
Bao năm tháng đã trôi qua
Những ký ức vẫn mãi chưa quên
Mỗi bước chân là một trải nghiệm mới
Đất trời vẫn mãi say mê trong lòng.
Sáng tác của Huy Cận trước Cách mạng tháng 8 mang nét u sầu, buồn bã, trong khi sau Cách mạng tháng 8 lại chuyển sang vẻ tươi vui. Các tác phẩm của ông luôn gắn bó với thực tại cuộc sống và thời đại.
6. Ngôi nhà giữa ánh nắng
Ánh nắng tháng mười rực rỡ, ngôi nhà ẩn hiện dưới nắng
Đầy đặn như quả chín mùa thu
Khói bốc nhẹ hòa cùng trời xanh
Gió khẽ reo qua từng chiếc lá khô
Con trẻ như hạt lựu lấp lánh
Chạy đùa khắp sân, từ đầu đến cuối
Nắng lấp lánh theo từng bước nhỏ
Lá cây in bóng nắng trên từng gân
Ngôi nhà đã ở bao năm tháng
Giống như áo quấn chặt trên cơ thể
Nhìn nhà mà tưởng như thân mình đứng
Vững chãi hơn dáng vẻ của ngôi nhà
Ngày tràn đầy ánh sáng, ngôi nhà giữa nắng
Nắng phủ vàng rực như vôi mới
Con chơi tàu vũ trụ bay vút lên
Bố đứng bên, ngôi nhà như trung tâm vũ trụ
Thế giới nghệ thuật trong thơ Huy Cận là một không gian rộng lớn, chứa đựng những cảm xúc sâu lắng và mênh mông. Với cảm hứng từ vũ trụ và thiên nhiên, thơ của ông là hình ảnh của nỗi buồn bao la, là sự cảm nhận về thân phận nhỏ bé trước sự bao la của đất trời.
7. Biển ơi, chúng ta trở lại
Biển ơi, ta trở về bên sóng
Suốt nửa đời, sóng vẫn dạt dào
Hòn Dấu, đèn chớp mấy lần sáng
Sóng ngầm không gợn, bền bỉ xô
Sóng dạt dào niềm vui và nỗi lo
Sóng như vẫy áo đất màu hồng nâu
Ta nghe tiếng sóng từ thuở bé
Vui buồn hòa quyện, nỗi niềm đau
Năm mươi lăm tuổi, chân lại đứng
Sóng vỗ nhịp cho những câu thơ
Sóng vang lên nhạc tổ khúc cũ
Những niềm vui và nỗi buồn xưa
Đối với Huy Cận, biển là hình ảnh của sự bí ẩn, rộng lớn, và vô tận, luôn kích thích sự tưởng tượng của nhà thơ về sự sống và vũ trụ. Cảm giác từ biển chính là cảm giác về sự vô hạn của vũ trụ và cuộc sống, về sự vĩ đại của con người trong không gian rộng lớn đó.
8. Đoàn thuyền đánh cá
Mặt trời lặn xuống biển như viên lửa,
Sóng đã cài then, đêm buông rèm.
Đoàn thuyền ra khơi, tiếp tục hành trình,
Câu hát căng buồm cùng gió bốn phương.
Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi,
Đêm ngày dệt biển muôn luồng ánh sáng,
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lướt gió, buồm trăng sáng,
Giữa mây cao và biển mênh mông,
Ra khơi dò tìm bụng biển xa,
Dàn thế trận lưới vây bủa giăng.
Cá nhụ, cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy ánh trăng vàng,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Ta hát gọi cá vào lưới,
Gõ thuyền, nhịp trăng cao đã về.
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi ta từ thuở ấy đến giờ.
Sao mờ, kéo lưới kịp sáng sớm,
Ta kéo tay chùm cá nặng đầy.
Vảy bạc đuôi vàng rạng sáng,
Lưới xếp, buồm lên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm cùng gió,
Đoàn thuyền chạy đua với mặt trời.
Mặt trời lên, biển lấp lánh màu mới,
Mắt cá sáng rực muôn dặm ánh.
Bài thơ kết hợp cảm hứng lãng mạn và vũ trụ, phản ánh niềm vui và sự hào hứng trong giai đoạn xây dựng mới ở miền Bắc, đồng thời mang âm hưởng vũ trụ đặc trưng trong thơ Huy Cận. Sự kết hợp này tạo nên những hình ảnh rộng lớn, tráng lệ như tranh sơn mài trong bài thơ.
9. Tràng giang
Sóng gợn tràng giang buồn lặng lẽ,
Con thuyền xuôi mái, nước trôi song song.
Thuyền về, nước lại, sầu dâng trăm hướng;
Củi một cành khô lạc giữa dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió hiu hắt,
Tiếng làng xa vẳng về chợ chiều.
Nắng xuống, trời cao, sâu thăm thẳm;
Sông dài, trời rộng, bến cô quạnh.
Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu nối, chẳng có niềm thân thiết,
Lặng lẽ bờ xanh nối bãi vàng.
Mây cao lớp lớp đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều hắt.
Lòng quê dâng dâng cùng con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Bài thơ thể hiện nỗi buồn, trăn trở về thân phận nhỏ bé, lạc lõng của con người giữa đất trời rộng lớn. Không gian rộng lớn của trời và sông làm nổi bật sự cô đơn và bâng khuâng của con người.
10. Các vị La Hán chùa Tây Phương
Các vị La Hán tại chùa Tây Phương
Tôi đến thăm, lòng cảm thấy vấn vương.
Đây có phải là nơi đất Phật,
Mà sao mọi người đều có vẻ đau thương?
Đây có vị xương cốt rách nát,
Chân tay như bị thiêu đốt,
Ánh mắt trầm ngâm, đau đớn,
Từ đó đến giờ vẫn ngồi yên.
Có vị mắt trừng, mày nhíu lại,
Trán như sóng vỗ của biển luân hồi,
Môi nhăn nhó, tâm hồn cằn cỗi,
Gân tay vặn vẹo, máu sôi sục.
Có vị chân tay co quắp lại,
Hình dạng tròn như thai nhi,
Nhưng đôi tai dài như cánh sen,
Suốt đời nghe đủ nỗi buồn.
Các vị ngồi đây trong yên lặng,
Mà cảm nhận bão tố khắp nơi,
Như từ vực thẳm của nhân loại,
Bóng tối nổi lên trong trận gió đen.
Mỗi người một vẻ, nét mặt đầy
Đau thương cuồn cuộn dưới bầu trời,
Cuộc họp lạ lùng đầy vật vã,
Tượng không khóc nhưng cũng toát mồ hôi.
Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh lại,
Quay về tám hướng hỏi trời sâu,
Một câu hỏi lớn không lời đáp,
Đến nay mặt vẫn nhăn nhó.
Có thực trên con đường tu hành,
Trần gian tìm cách thoát khỏi khổ đau,
Những quằn quại, những cơn run rẩy,
Các vị có cảm nhận lòng nhân loại?
Nào đâu, bác thợ xưa đâu rồi?
Sống lại cho tôi một câu hỏi:
Bác đã tạc bao nhiêu hình khổ hạnh,
Thật sự có phải Phật kể cho nhau?
Hay đó là những linh hồn trong gió bão,
Những tâm sự, những đời người,
Cha ông đã để lại bằng xương máu,
Đã khổ sở, không yên cả khi đứng ngồi.
Cha ông năm tháng nặng trĩu vai,
Các bạn thời Nguyễn Du,
Đã nung nấu tâm can, vò võ trán,
Đau đời có cứu được đời không?
Rách lòng cha ông trong thời đại,
Cuộc sống giậm chân mãi một chỗ,
Bao nhiêu hy vọng thúc bên sườn,
Héo tàn như mầm non thiếu ánh sáng.
Hoàng hôn thế kỷ phủ bầu trời,
Sờ soạng cha ông tìm lối thoát,
Có phải vậy mà trên mặt tượng,
Nửa như khói ám, nửa như sương mờ.
Các vị La Hán chùa Tây Phương!
Hôm nay xã hội đã tiến về phía trước,
Tôi nhìn mặt tượng dường như tươi sáng,
Xua tan bóng hoàng hôn, tản khói sương.
Cha ông yêu mến thời xưa cũ,
Trần trụi đau thương bỗng hóa gần,
Những bước mất mát trong thớ gỗ,
Về đây, tươi sáng đường xuân.
Bài thơ không phải chỉ về Phật giáo mà là sự phản ánh và suy ngẫm về quá khứ lịch sử của dân tộc. Là tiếng thở dài về xã hội xưa đầy khổ đau và bế tắc, đồng thời cũng là tiếng reo vui trước đất nước tươi đẹp trong thời đại mới.