1. Bài văn phân tích nhân vật anh hùng thời Trần qua bài thơ 'Tỏ lòng' của Phạm Ngũ Lão - mẫu 4
Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng nổi bật dưới triều đại nhà Trần, đóng góp nhiều công lao trong hai cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên. Ông từng giữ chức Điện súy và được phong tước quan nội hầu, đứng sau Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, vị tướng vĩ đại nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Dù là người có tài võ thuật, Phạm Ngũ Lão vẫn đam mê thơ ca và được khen ngợi là người văn võ toàn tài. Ông sáng tác nhiều bài thơ, nhưng chỉ còn lại hai bài 'Tỏ lòng' và 'Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương'. Trong văn học trung đại, thơ phải truyền tải một nội dung giáo dục lớn lao, và 'Tỏ lòng' của Phạm Ngũ Lão là một tác phẩm tiêu biểu thể hiện quy phạm này, với lời giáo huấn về chí nam nhi đầy hào khí thời Trần.
Hiện tại chưa có tài liệu chính xác về hoàn cảnh ra đời của 'Tỏ lòng' (Thuật hoài), nhưng theo một số phỏng đoán, bài thơ được viết vào năm 1284, trước cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên lần thứ hai. Lúc đó, Phạm Ngũ Lão đang trấn giữ biên giới cùng các tướng lĩnh khác để chuẩn bị cho chiến sự. Hai câu thơ đầu của bài thơ đã mô tả một cách ấn tượng vẻ đẹp của con người và quân đội thời Trần.
“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.”
Để khắc họa hình ảnh con người thời Trần, tác giả đã dựng lên một bối cảnh không gian và thời gian đặc biệt, tạo nền cho vẻ đẹp của con người dưới triều Trần, một triều đại đầy bão tố. Phạm Ngũ Lão sử dụng từ “giang sơn” để chỉ sông núi, mở ra một không gian bao la và rộng lớn của cả quốc gia. Bối cảnh thời gian được thể hiện qua từ “kháp kỷ thu”, gợi lên một khoảng thời gian dài và bền vững. Trên nền không gian và thời gian rộng lớn, hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo trấn giữ non sông trở nên nổi bật, thể hiện sự hiên ngang và hùng tráng. Hình ảnh này gợi lên phẩm chất kiên cường, bền bỉ và anh dũng, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ đất nước như những vị thần.
Hình ảnh này nhắc nhớ về lịch sử khi quân Mông-Nguyên mượn đường nước ta để tấn công Chiêm Thành, thực tế là nhằm thôn tính Đại Việt. Để đối phó, quân đội nhà Trần đã cử Phạm Ngũ Lão và các tướng lĩnh ra trấn giữ biên giới để phòng ngừa sự tấn công bất ngờ. Hình ảnh vị tướng cầm ngang ngọn giáo canh giữ đất nước hoàn toàn phù hợp với bối cảnh lịch sử và tạo nên cảm hứng hào khí trong 'Thuật hoài' của Phạm Ngũ Lão. Câu thơ dịch “Múa giáo non sông trải mấy thu” của Bùi Văn Nguyên có thể chưa diễn tả hết cái hùng khí của tác giả, vì từ “múa giáo” thiên về vẻ đẹp, nhưng thiếu đi chí hùng mà tác giả muốn thể hiện. Trong bản gốc, từ “hoành sóc” mới thật sự diễn tả khí thế hùng tráng của vị tướng và biểu đạt tinh thần của thế hệ người thời Trần trước các cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên.
Hình ảnh con người thời Trần được thể hiện qua từ “tam quân” - ba quân, đặc trưng của tổ chức quân đội thời xưa, bao gồm tiền quân, trung quân và hậu quân. Tác giả muốn nhấn mạnh sức mạnh và sự đồng lòng của toàn quân trong công cuộc kháng chiến. Phép so sánh “Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu” gợi ra hai cách hiểu: một là ba quân mạnh như hổ, có thể nuốt trôi con trâu lớn; hai là sức mạnh của ba quân như hổ báo, thậm chí át cả sao Ngưu trên trời. Cách hiểu thứ hai vừa mang giá trị hiện thực, vừa có chút lãng mạn, tạo cảm hứng sử thi anh hùng ca. Sức mạnh của quân đội thời Trần được tóm gọn bằng cụm từ “hào khí Đông A”, do hai chữ này ghép lại thành chữ Trần.
Sau hai câu khai đề và thừa đề về hào khí dân tộc, hai câu chuyển và câu hợp giải thích và làm rõ ý của bài thơ. Câu chuyển chuyển từ khách thể sang chủ thể là tác giả, bày tỏ tâm tư và nguyện vọng về chí làm trai và món nợ công danh với đất nước. Câu hợp kết lại và thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của Phạm Ngũ Lão. “Nam nhi vị liễu công danh trái” chỉ lý tưởng và chí lớn về công danh, thể hiện quan niệm của tác giả về món nợ công danh của nam nhi. Món nợ công danh xuất phát từ quan niệm “nhập thế tích cực” của Nho giáo, khác với quan niệm “xuất thế” của Phật giáo, lánh đời. Nho giáo yêu cầu người nam nhi phải đứng vững giữa cuộc đời, cống hiến cho đất nước. Phạm Ngũ Lão chịu ảnh hưởng sâu sắc từ quan niệm này.
Quan niệm ấy hình thành mục đích sống của nam nhi thời đại này là lập công danh và sự nghiệp. Trong văn học Việt Nam, nhiều nhà thơ đã đề cập đến, như Nguyễn Công Trứ với “Chí làm trai nam bắc đông tây/Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể”. Trong bối cảnh đất nước bị xâm lược, nam nhi có cơ hội trả món nợ công danh, giúp nước, giúp dân. Người nam nhi phải từ bỏ cuộc sống tầm thường, hy sinh cho sự nghiệp cứu nước. Món nợ công danh trong nhận thức của Phạm Ngũ Lão mang tinh thần tích cực và dân tộc sâu sắc, luôn trăn trở trong lòng tác giả.
Câu thơ cuối thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao thượng của Phạm Ngũ Lão. Sự khiêm tốn của ông khi so sánh với Gia Cát Lượng, một quân sư lỗi lạc, cho thấy ông cảm thấy mình còn nhỏ bé, dù đã lập nhiều công danh. Ông nhận thức rằng món nợ công danh còn nợ nhiều hơn, cần phải nỗ lực hơn để xứng với phận nam nhi và Tổ quốc. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão là nỗi thẹn của một nhà nho có nhân cách lớn và một người dân yêu nước khi đối diện với mối nguy xâm lược.
'Thuật hoài' khắc họa vẻ đẹp của người anh hùng vệ quốc và ca ngợi hào khí Đông A, đồng thời thể hiện sự lẫm liệt, lý tưởng và nhân cách lớn lao của người thời Trần. Bài thơ có tính hàm súc, cô đọng và mang tính sử thi với hình tượng thơ vĩ đại, nâng tầm vóc anh hùng ngang với vũ trụ.
2. Phân tích bài thơ 'Tỏ lòng' của Phạm Ngũ Lão về người anh hùng thời Trần - mẫu 5
Phạm Ngũ Lão nổi tiếng với tài năng văn võ toàn diện. Bài thơ “Tỏ lòng” của ông không chỉ phản ánh hào khí Đông A mà còn thể hiện sức mạnh vĩ đại của con người và quân đội thời Trần. Bức chân dung người anh hùng hiện lên rõ nét qua câu thơ mở đầu, với hình ảnh một người cầm ngọn giáo, giữ vững bờ cõi:
“Hoành sóc giang sơn, kháp kỉ thu”
Chỉ qua một câu thơ, tác giả đã phác họa hình ảnh người anh hùng cầm ngang cây giáo như một biểu tượng vĩ đại. “Cây giáo” mang trong mình kích cỡ vũ trụ và tầm vóc của không gian và thời gian. Không gian là sự mở rộng của sông núi (giang sơn), còn thời gian là sự vĩnh cửu (kháp kỉ thu). Người anh hùng được thể hiện qua khí thế của thời đại trong câu thơ thứ hai:
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
Hình ảnh “ba quân” không chỉ đại diện cho quân đội nhà Trần mà còn là biểu tượng sức mạnh dân tộc. Sự so sánh với loài hổ nhấn mạnh sức mạnh vững bậc của quân đội, đồng thời khí thế của quân đội mạnh mẽ đến mức làm lu mờ ánh sáng của sao Ngưu. Phạm Ngũ Lão còn thể hiện sự mạnh mẽ của quân đội qua hình ảnh “khí thôn ngưu”, mang đến hai cách hiểu: khí thế mạnh mẽ đến mức nuốt trôi trâu hoặc làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời.
Hình ảnh người anh hùng không chỉ dừng lại ở đó mà còn được thể hiện qua ý chí cao cả:
“Nam nhi vị liễu công danh trái Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
Nhân cách của dũng tướng thể hiện qua nỗi “thẹn” khi chưa đạt được tài năng như Vũ Hầu đời Hán để cứu nước. Nỗi thẹn đó xuất phát từ khát vọng lớn lao của người anh hùng, cho thấy công danh của ông còn khiêm tốn. Tuy nhiên, nỗi thẹn này sẽ là động lực để chúng ta tiếp tục phấn đấu trong cuộc sống.
Bài thơ “Tỏ lòng” không chỉ miêu tả hình ảnh người anh hùng thời Trần một cách tráng lệ mà còn thể hiện bằng bút pháp nghệ thuật độc đáo. Dù là bài thơ ngắn gọn, nhưng với hình ảnh biểu tượng và ngôn từ tráng lệ, bài thơ vẫn thể hiện được vẻ đẹp của con người và quân đội nhà Trần.
“Tỏ lòng” là bài thơ Đường luật ngắn gọn nhưng sâu sắc, thể hiện vẻ đẹp của con người và quân đội nhà Trần.
3. Phân tích bài thơ 'Tỏ lòng' của Phạm Ngũ Lão về hình ảnh người anh hùng thời Trần - mẫu 6
“Thơ như đôi cánh nâng tôi bay
Thơ là vũ khí trong trận đánh”
(Raxun- Gamzatốp)
Quả thật vậy, trong hành trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã có không ít những tác phẩm văn học từng đem lại biết bao sức mạnh và niềm tin cho nhiều thế hệ. Và một trong số những tác phẩm đó chính là bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão. Khúc tráng ca lẫm liệt ấy luôn khơi dậy trong mỗi tâm hồn Việt Nam niềm tin và tinh thần quyết thắng trước mọi thế lực xâm lăng. Sức mạnh lay động ấy đã ngời toả ngay từ vẻ đẹp người anh hùng thời Trần- kết tinh hùng tâm tráng chí của dân tộc Việt Nam.
Tác giả của “Tỏ lòng” - Phạm Ngũ Lão là người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mông Nguyên, từng làm đến chức Điện Súy và được ca ngợi là văn võ toàn tài. Phạm Ngũ Lão chỉ để lại hai bài thơ (“Thuật hoài” và “Vãn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương”), nhưng tên tuổi của ông vẫn đứng cùng ngang hàng với những tác gia danh tiếng nhất của văn học đời Trần. Và ra đời trong bối cảnh cả dân tộc Đại Việt đang sục sôi khí thế “Sát Thát”, bài thơ “ Thuật hoài” chính là bức chân dung tự họa về vẻ đẹp của con người trong thời đại hào khí Đông A.
Trước hết, bài thơ “Thuật hoài” đã gợi ra hình ảnh người anh hùng thời Trần với vẻ đẹp đầy hùng tâm, tráng chí. Tác giả đã khắc hoạ hình ảnh kỳ vĩ của người anh hùng cứu nước trên nền hào hùng của thời đại. Người anh hùng ấy thật mạnh mẽ, bền gan vững chí trong hành trình chiến đấu bảo vệ đất nước:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
(Múa giáo non sông trải mấy thu)”
Con người hiện lên qua câu thơ đầu mang một tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao mạnh mẽ. Câu thơ dựng lên hình ảnh con người cầm ngang ngọn giáo để trấn giữ đất nước. Cây trường giáo ấy dường như được đo bằng chiều ngang của non sông. Nghĩa là chủ nhân cầm cây giáo ấy phải mang kích cỡ, tầm vóc vũ trụ. So với bản phiên âm, phần dịch thơ vẫn chưa diễn tả được hết sức mạnh, vẻ đẹp của tráng sĩ. Trong bản phiên âm, vẻ đẹp hiên ngang, lẫm liệt được thể hiện ở ngay tư thế“Hoành sóc”- cầm ngang ngọn giáo. Còn ở bản dịch thơ mới chỉ dịch là “Múa giáo”, là hành động gợi sự phô diễn, khoa trương... chưa thể hiện được hết sự kì vĩ, vững chắc. Sự kì vĩ ấy càng hiện rõ trong mối quan hệ với không gian và thời gian: không gian mở ra theo chiều rộng sông núi, thời gian được đo đếm bằng mùa, năm (kháp kỷ thu) chứ đâu phải chỉ trong chốc lát. Hơn nữa, sự kì vĩ, hào hùng của hình tượng người anh hùng càng được nâng lên qua khí thế hào hùng của thời đại:
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)”
Hình ảnh “ba quân” là để nói về quân đội nhà Trần nhưng đồng thời còn là hình tượng biểu trưng cho sức mạnh dân tộc. Ở đây nghệ thuật so sánh đã vừa cụ thể hoá sức mạnh vật chất ba quân (mạnh như hổ báo) vừa hướng tới khái quát hoá sức mạnh tinh thần của đội quân mang hào khí Đông A (khí thế át sao trời). Ở câu thơ này, phần dịch thơ với cụm từ “nuốt trôi trâu” cũng chưa diễn tả được hết sức mạnh của quân đội như “khí thôn ngưu” trong bản phiên âm.
Hình ảnh ba quân với khí thế dũng mãnh này chính là cái nền tôn thêm chất hùng tráng của hình tượng người tráng sĩ “hoành sóc”. Và tự bản thân hình ảnh “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” đã khẳng định sự tất thắng của dân tộc trước kẻ thù xâm lăng. Như vậy, hai câu thơ đầu đã thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, mối quan hệ hữu cơ giữa người anh hùng và thời đại anh hùng, giữa một công dân anh hùng và một dân tộc anh hùng.
Không chỉ đẹp ở sự kì vĩ, lẫm liệt, hào hùng, hình tượng người anh hùng còn đẹp bởi cái chí, cái tâm cao cả. Đó là con người ôm ấp hoài bão, lí tưởng thật cao đẹp. Với Phạm Ngũ Lão, lí tưởng sống mà ông hướng tới là đánh giặc lập công để đền ơn vua, báo nợ nước. Lý tưởng cao đẹp ấy được thể hiện qua món nợ công danh và nỗi thẹn với vĩ nhân:
“Công danh nam tử còn vướng nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”
Hai câu thơ đã thể hiện hùng tâm, tráng chí của người anh hùng thời Trần. Đó là lí tưởng sống của bao trang nam nhi thời phong kiến.
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
(Nguyễn Công Trứ)
Hay ý chí hiên ngang của bậc lão anh hùng trong “Cảm hoài”:
“Quốc thù chưa trả già sao vội
Dưới nguyệt mài gươm đã bấy chầy”
(Đặng Dung)
Câu thơ của Phạm Ngũ Lão đã nói lên khát vọng lập nên công danh sánh ngang với bậc tiền nhân lỗi lạc. Và ý thơ cũng ẩn chứa một lời thề trọn đời cống hiến, xả thân cho vương triều nhà Trần, cho non sông đất nước Đại Việt. Hùng tâm tráng chí của người anh hùng được thể hiện ở ngay nỗi “thẹn”- thẹn chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu đời Hán để trừ giặc cứu nước. Đây là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão được đem hết tài trí để cống hiến cho đất nước. Sau này trong văn chương, chúng ta cũng bắt gặp những cái “thẹn” rất cao đẹp như trong thơ Nguyễn Khuyến:
“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”
(Thu vịnh)
Với Nguyễn Khuyến đó là cái “thẹn” của một nhà nho – nghệ sĩ. Còn trong “Thuật hoài” là nỗi thẹn của bậc anh hùng – nghệ sĩ. Và vẻ đẹp của người anh hùng “Sát Thát” ấy được Phạm Ngũ Lão khắc họa bằng bút pháp rất đặc sắc: ngôn ngữ tráng lệ, kĩ vĩ, gợi ra dáng vóc của những người anh hùng thần thoại, những người dũng sĩ trong sử thi.... Đặc biệt, là bài thơ tỏ chí, tỏ lòng nhưng không hề khô khan bởi nghệ thuật dựng hình ảnh biểu tượng, hàm súc, giàu ý nghĩa.
Chính bởi bút pháp nghệ thuật đặc sắc như vậy, tác giả đã sáng tạo nên hình tượng người anh hùng thật giàu ý nghĩa. Bài thơ là bức chân dung tự hoạ của người dũng tướng thời Trần đầy hào hùng, trên cái nền đất nước tràn đầy sức mạnh quật cường. Hơn nữa, hình tượng thơ là kết tinh của tinh thần yêu nước và phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam. Bởi vậy cùng với “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn), “Tụng giá hoàn kinh sư” (Trần Quang Khải), bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão sáng ngời hào khí Đông A.
Với vẻ đẹp rực sáng ấy, hình tượng người anh hùng đời Trần chính là ngọn đuốc soi sáng cho chúng ta trong cuộc sống hiện nay . Trước hết, vẻ đẹp kì vĩ, lẫm liệt của người tráng sĩ luôn khơi dậy trong mỗi chúng ta ý thức rèn luyện, tu dưỡng về mặt thể chất. Hơn thế, ý chí được thể hiện qua nỗi “thẹn” của người anh hùng chính là kim chỉ nam định hướng lí tưởng sống cho mỗi người. Vậy nỗi ‘thẹn” của Phạm Ngũ Lão có thể hiểu như thế nào? Trước hết, đó có thể là vì lòng yêu nước vô cùng sâu sắc, ý thức trách nhiệm với giang sơn quá lớn lao khiến cho tác giả không hài lòng với công trạng của mình. Cũng có thể đó là vì lòng khiêm tốn rất chân thành mà thấy công trạng của mình không đáng kể. Hoặc vì lý tưởng sống của chàng thanh niên yêu nước này quá hào hùng với khát vọng vươn tới những đỉnh cao chiến công khiến ông không bằng lòng với thành tích của mình.
Thế nhưng, dù vì lý do gì đi nữa thì sự hổ thẹn của Phạm Ngũ Lão vẫn là sự hổ thẹn cao quý, hữu ích. Bởi nó là nguồn động lực để con người không ngừng vươn tới những đỉnh cao chiến công chứ không ngủ quên trong vinh quang hiện tại. Trong cuộc sống hiện nay, mỗi người cần sống có lý tưởng, hoài bão có mục đích cao đẹp, bởi : “Những khát vọng tốt đẹp chính là cơn gió đẩy con thuyền cuộc đời mặc dù nó vẫn thường gây nên những cơn giông tố” (Safontaine) và “Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường, không có lý tưởng thì không có phương hướng kiên định mà không có phương hướng thì không có cuộc sống” (Leptônxtôi). Chính vì vậy, mỗi người hãy hướng tới lý tưởng sống cao đẹp ngày nay là cống hiến cuộc đời cho sự nghiệp “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Hãy luôn rèn luyện, phấn đấu làm việc tận tụy và cống hiến hết mình.
Là thế hệ mùa xuân của đất nước, tuổi trẻ chúng ta càng phải xác định được lý tưởng sống của mình: “Sống là cho chết cũng là cho” (Tố Hữu). Tuổi trẻ cần cảnh giác với tâm lý, hoặc là tự thoả mãn với chút công trạng của mình hoặc đòi hỏi đất nước phải “trả công” cho mình. Hãy xác định đóng góp công sức để xây dựng đất nước là nghĩa vụ thiêng liêng và đừng hỏi tổ quốc đã làm gì cho ta mà hãy hỏi ta đã làm gì cho tổ Quốc” . Đặc biệt giờ đây khi đất nước đang còn nhiều khó khăn, đang phải “neo mình đầu sóng cả”, mỗi người hãy nhận thức được đúng đắn vai trò của mình. Mũi khoan Hải Dương 981 xoáy vào thềm lục địa “Đất nước” nhói đau từ biển lên rừng, buốt tim 90 triệu người dân Việt. Và bởi nước “Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy sẽ không bao giờ thay đổi”. (Hồ Chí Minh). Chính vì vậy, toàn thể dân tộc Việt Nam, nhất là tuổi trẻ trên dưới một lòng, nguyện đem tất cả tính mạng, của cải để giữ vững nền tự do, độc lập đó” (Hồ Chí Minh).
Bên cạnh đó, cũng cần phải phê phán những con người có lối sống vị kỷ, không có lý tưởng, mục đích sống. Bởi như vậy là họ đang tự huỷ hoại chính bản thân, cuộc sống của họ “đang rỉ đi, đang mòn ra, đang nổi váng”.
Như vậy mỗi người chúng ta hãy luôn sống có lý tưởng, khát vọng, nhân cách cao đẹp. Và hình tượng người anh hùng thời Trần với vẻ đẹp kỳ vĩ, lẫm liệt, với lý tưởng sống cống hiến sẽ luôn cháy sáng trong mỗi tâm hồn Việt Nam. Đó cũng là hành trang quý giá nâng bước cho mỗi chúng ta trên con đường xây dựng và bảo vệ tổ Quốc. Tiếp bước truyền thống của cha ông, giờ đây khi “Tổ quốc đang bão giông từ biển”, nêu cao tư tưởng nhân nghĩa chúng ta nguyện giữ vẹn nguyên hình hài tổ quốc bằng tinh thần hòa hiếu nhất. Song , vì sự toàn vẹn lãnh thổ, chúng ta cũng sẵn sàng chấp nhận những mất mát, những hy sinh một khi không còn con đường nào khác. Và khắc ghi lời dặn của cha ông, chúng ta nguyện đưa con tàu tổ quốc vượt qua mọi phong ba bão tố:
“Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất
Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi”.
(Nguyễn Việt Chiến)
4. Phân tích về nhân vật anh hùng thời Trần trong bài thơ 'Tỏ lòng' của Phạm Ngũ Lão - mẫu 7
Phạm Ngũ Lão là một trong những danh tướng nổi bật của triều đại nhà Trần. Dù xuất thân từ tầng lớp bình dân, ông đã nhanh chóng vươn lên trở thành vị tướng hàng đầu dưới sự dẫn dắt của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Trong cuộc chiến chống quân Mông - Nguyên, Phạm Ngũ Lão và các chiến tướng khác đã tạo nên những chiến công vang dội, góp phần xây dựng hào khí Đông A của thời đại.
Ông không có nhiều tác phẩm nhưng bài thơ 'Thuật hoài' nổi tiếng của ông thể hiện khát vọng mạnh mẽ của tuổi trẻ thời phong kiến: làm trai phải hoàn thành nghĩa vụ công danh, tức là phải thực hiện lý tưởng trung quân, ái quốc đến cùng.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
Dịch thơ tiếng Việt:
Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
Bài thơ được sáng tác trong một thời kỳ đặc biệt của lịch sử nước ta. Triều đại nhà Trần (1226 - 1400) đã lừng lẫy với nhiều chiến công oanh liệt, đánh bại quân xâm lược Mông - Nguyên, bảo vệ vững bờ cõi và gìn giữ truyền thống kiên cường của dân tộc. Phạm Ngũ Lão, sinh ra và lớn lên trong thời kỳ này, đã hấp thụ sâu sắc tinh thần yêu nước và lý tưởng của đạo Nho là trung quân, ái quốc. Ông rất ý thức về trách nhiệm công dân với vận mệnh đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.
Bài thơ 'Thuật hoài' (Tỏ lòng) được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, với niêm luật chặt chẽ, ý nghĩa sâu sắc, hình tượng hùng vĩ và âm điệu hào hùng. Hai câu thơ đầu mô tả vẻ đẹp mạnh mẽ và oai hùng của các chiến binh, thể hiện hào khí Đông A của quân đội nhà Trần.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu (dịch nghĩa: cầm ngang ngọn giáo giữ gìn non sông đã mấy thu); dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên bản chữ Hán, câu thơ dịch chưa hoàn toàn thể hiện hết vẻ oai phong của người lính bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là tư thế tấn công dũng mãnh, còn giang sơn kháp kỉ thu là hình ảnh rộng lớn và lâu dài của đất nước. Đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho tinh thần kiên cường của dân tộc Việt, không chịu khuất phục. Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu (dịch nghĩa: khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời); dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu, thể hiện sức mạnh chiến đấu không gì ngăn cản nổi của quân ta. Tam quân tì hổ là một ẩn dụ nêu bật sức mạnh vô địch của quân đội. Khí thôn Ngưu là cách nói thậm xưng, tạo nên hình tượng thơ kì vĩ. Hai câu thơ tứ tuyệt tuy ngắn gọn nhưng đã khắc họa rõ nét hình ảnh người lính quả cảm thời Trần.
Phạm Ngũ Lão, một thành viên của đạo quân anh hùng, từ một chiến binh đã trở thành danh tướng khi còn rất trẻ. Ông luôn khao khát công danh và cống hiến hết mình cho đất nước. Ông tôn thờ lý tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai phải có danh với núi sông (Chí làm trai - Nguyễn Công Trứ). Vì vậy, khi chưa hoàn thành nợ công danh, ông cảm thấy hổ thẹn:
'Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).
Vũ Hầu, tức Khổng Minh, một quân sư tài ba thời Tam Quốc, đã lập được nhiều công trạng nhờ mưu trí của mình. Phạm Ngũ Lão so sánh bản thân với Vũ Hầu để nhấn mạnh lòng tự trọng và khát vọng vươn lên. Là một tùy tướng của Hưng Đạo Đại Vương, ông luôn bên cạnh chủ tướng, chấp nhận mọi nguy hiểm để bảo vệ đất nước. Ông cảm thấy nợ công danh chưa hoàn trả khi quân thù còn tồn tại, điều này thể hiện lòng tự tôn và trách nhiệm cao cả của ông. Suy nghĩ và cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực và tiến bộ, ông mong muốn sống xứng đáng với thời đại anh hùng. Hai câu thơ cuối chuyển từ cảm xúc hào sảng sang trữ tình sâu lắng, thể hiện tâm trạng của chính mình với âm hưởng thâm trầm và da diết.
Phạm Ngũ Lão, dù là một võ tướng tài ba, nhưng cũng mang trong mình trái tim nhạy cảm của một thi nhân. Bài thơ 'Thuật hoài' thể hiện hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ thời phong kiến. Bài thơ không chỉ vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn mà còn có tác dụng giáo dục sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại.
5. Bài viết phân tích về hình tượng anh hùng thời Trần qua bài thơ 'Tỏ lòng' của Phạm Ngũ Lão - mẫu 8
Làm nên thời đại Đông A oanh liệt, ghi danh sử sách bởi những chiến công hào hùng – đó chính là Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, là Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng.. Lịch sử đã lùi xa bao thế kỉ nhưng đến tận ngày hôm nay, chúng ta vẫn có thể cảm nhận nguyên vẹn khí phách anh hùng của những con người thời đại nhà Trần qua các sáng tác Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão), Cảm hoài (Đặng Dung).
Trong lịch sử phong kiến, có lễ chưa khi nào Việt Nam phải đương đầu với đội quân xâm lược hung hãn như quân Nguyên — Mông. Nhưng cũng chính thời đại đó đã sản sinh ra một thế hệ những người anh hùng: từ các cụ bô lão với quyết tâm “Đánh” trong Hội nghị Diên Hồng, đến ấu nhi như Trần Quốc Toản, tay bóp nát quả cam bởi chưa được bày tỏ ý chí, hành động của mình; từ chủ tướng Trần Quốc Tuấn ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù đến các binh sĩ khắc lên mình hai chữ “sát thát” để tự nhắc mình ý chí diệc giặc thù .. Khí thế thời đại vang đội vào tâm thức Phạm Ngũ Lão, Đặng Dung, hợp lưu với dòng máu anh hùng trong họ và đan dệt thành những bài thơ huyết chiến đây khí phách. Thuật hoài và Cảm hoài là hai bài thơ đẹp và trước hết đẹp bởi đã khắc tạc trong đó hình tượng tuyệt vời của con người thời đại nhà Trần. Chưa khi nào trong thơ ca Việt Nam lại xuất hiện con người kì vĩ, lớn lao, phi thường đến thế:
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
(Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu)
Bài thơ mở đầu và ngay tức khắc gây ấn tượng sâu đậm trong người đọc bởi tư thế hoành sóc hiên ngang, lẫm liệt, vững chãi, chủ động. Chủ thể của hành động đó tuy không xuất hiện trực tiếp nhưng còn là ai khác nêú không phải là tráng sĩ nhà Trần? Và ắt đó phải là con người có tầm vóc lớn lao, có vóc dáng hùng dũng, phi thường, át cả vũ trụ bao la. Ngay sau đó, hình tượng thơ đã nhân lên thành cả đội quân hào hùng với khí thế dũng mãnh, sẵn sàng lăn xả vào bọn giặc dữ một khi chúng ồ ạt tràn tới. Hiển nhiên, khi viết lời thơ này, cảm hứng lãng mạn trong tướng quân họ Phạm có phần đậm nét, nhưng nếu không có một hiện thực oai hùng, không có những chiến tướng, bình sĩ dũng mãnh thì hình tượng thơ khó có thể cất cánh bay bổng như thế. Trong cảm nhận của tác giả Thuật hoài, người anh hùng thời Trần không chỉ đẹp ở tầm vóc vũ trụ, phi thường mà còn đẹp bởi những khát vọng lớn lao, cao cả:
Nam nhi vị liễu công danh trái,
(Thân nam nhi mà chưa trả xong nợ công danh,)
Như nhiều trang nam tử thời phong kiến, người anh hùng trong thơ Phạm Ngũ Lão ý thức rất sâu sắc “phận làm trai” của mình. Đấng tu mi nam tử đó luôn mang trong mình suy nghĩ Làm trai đứng ở trong trời đất Phải có danh gì với núi sông (Nguyễn Công Trứ). Thực ra, khi viết bài “tỏ lòng” này, Phạm Ngũ Lão đã trở thành vị tướng giỏi của nhà Trần, lập được rất nhiều công trạng cho triều đại nhưng rõ ràng ông chưa thỏa lòng với những gì mình đã làm được. Lời thơ mang đến chúng ta cảm nhận sâu sắc về khát vọng được cống hiến hết mình cho giang sơn, cho triều đại trong người anh hùng thời Trần. Và khát vọng ấy chính là nguồn cơn đưa đến nỗi “thẹn” sáng ngời nhân cách:
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
(Thì luống thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.)
Tự sánh mình với đức Khổng Minh để rồi tự hổ, tự “thẹn”, tự thừa nhận mình còn kém cỏi, đó là cách người anh hùng trong bài thơ thể hiện khát vọng được hoàn thiện bản thân để phụng sự triều đại. Lí tưởng ấy đã trở thành kim chỉ nam cho rất nhiều tráng sĩ đời Trần. Nó đốt lên trong lòng người ngọn lửa của khát vọng vươn tới cái cao cả, lớn lao. Thuật hoài là nỗi lòng của một chiến tướng thời Thịnh Trần. Nỗi lòng ấy chúng ta còn gặp lại trong Cảm hoài — một sáng tác của lão tướng Đặng Dung lúc triều đại nhà Trần đã đi vào suy vong. Cảm hoài là bài thơ thể hiện cảm xúc bi tráng của vị lão anh hùng trong.tình thế vận nước nguy nan. Đó là nỗi băn khoăn không. biết phải làm sao khi công danh chưa trọn mà tuổi đã về già:
Thế sự du du nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
(Việc đời dằng dặc mà ta đã già, biết làm thế nào?
Trời đất mênh mông đắm trong cuộc rượu hát ca.)
Không khó để nhận thấy rằng người anh hùng trong bài thơ của Đặng Dung “sinh bất phùng thời”, Bởi không gặp thời nên mới bối rối khi tuổi cao mà chưa vẹn được công danh với nước, với đời. Nhưng điều đáng quý là không phải bởi thế mà vị lão tướng cảm thấy tuyệt vọng. Trái tim đầy nhiệt huyết của ông vẫn đập những nhịp hùng tâm tráng trí, vẫn nuôi khát vọng cao đẹp:
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
(Giúp chúa, những muốn xoay trục đất lại,
Rửa vũ khí không có lối kéo tuột sông Ngân xuống.)
Trên con đường cứu nước, tuy chưa nhìn ra lối đi, tuổi lại đã cao nhưng rõ ràng người anh hùng chưa lúc nào nguôi quên trong mình ý muốn giúp chúa khôi phục đất nước, đuối toàn bộ quân thù ra khỏi bờ cõi để kết thúc chiến tranh, không còn phải dùng đến vũ khí. Khát vọng ấy chỉ có ở bậc anh hùng bất chấp mọi hoàn cảnh vẫn thủy chung trọn vẹn với lí tưởng cao cả:
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma.
(Thù nước chưa trả được mà mái tóc đã bạc sớm,
Bao phen mang gươm mài dưới bóng trăng.)
Hình ảnh người anh hùng tóc đã bạc, bao lần mang gươm mài dưới bóng trăng trăm đời vẫn con tưởng thấy sinh khí lẫm liệt (Phan Huy Chú).Vị lão tướng ấy mài gươm nhưng cũng chính là mài sắc ý chí, khát vọng muôn đời của con người thời đại Đông A.
Thuật hoài và Cảm hoài là hai nỗi lòng của hai cảnh ngộ nhưng cả hai sáng tác đều in dấu ấn đậm nét trong văn học trung đại Việt Nam hình tượng lông lộng của người anh hùng thời đại Đông A. Và những bức tượng đài đó đã khơi thắp trong chúng ta lòng yêu mến, cảm phục, niềm tự hào về thế hệ cha ông – những người mang gươm đi mở cõi say mê, yêng hùng. Cũng chính họ – những đấng anh hùng thời Trần – đã truyền thắp trong thế hệ hôm nay ngọn lửa của lòng yêu quê hương đất nước và ý chí quyết tâm bảo vệ giang sơn, Tổ quốc.
Hơn nửa thiên niên kỉ đã qua, lịch sử đã sang nhiều trang mới nhưng những trang sử cũ có khắc in tượng đài người anh hùng thời Trần sẽ còn sáng muôn đời.
6. Bài văn phân tích về người anh hùng thời Trần trong tác phẩm 'Thuật hoài' của Phạm Ngũ Lão - mẫu 9
'Tỏ lòng' là một thể loại thơ trữ tình phổ biến trong văn học trung đại, thể hiện cảm xúc và tư tưởng lớn lao của tác giả ('Thuật hoài' nghĩa là Tỏ lòng). Mặc dù hoàn cảnh sáng tác của bài thơ này chưa được xác định rõ ràng, nhưng từ nội dung, ta có thể khẳng định nó ra đời trong bối cảnh quân và dân nhà Trần quyết tâm chiến đấu và chiến thắng, khi lực lượng Đại Việt đã lớn mạnh nhưng cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông vẫn chưa hoàn thành thắng lợi.
Bài thơ được viết theo thể tứ tuyệt Đường luật, gồm 4 câu, mỗi câu 7 âm tiết. Hai câu đầu được dịch như sau:
Múa giáo non sông trải mấy thâu
Ba quân hùng khí át sao Ngưu.
Nguyên bản của hai câu này là:
Hoành sóc giang san cáp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu.
Từ “Hoành sóc” được dịch thành “múa giáo” dễ gây hiểu lầm cho người đọc. Thực tế, “Hoành sóc” có nghĩa là cầm ngang ngọn giáo, ý cả câu là “cắp ngang ngọn giáo (bảo vệ) non sông đã mấy mùa thu”. Chỉ với 7 chữ, câu thơ này đã gợi lên hình ảnh người trai thời Trần, tiêu biểu là Phạm Ngũ Lão, với tư thế hùng dũng, luôn sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Dù họ đã kiên cường chiến đấu qua bao mùa thu, nhưng vẫn giữ được khí thế hiên ngang, mạnh mẽ. Hình ảnh người tráng sĩ càng thêm lẫm liệt bởi khí thế của ba quân.
Ba quân là biểu tượng cho cả một thế hệ của Phạm Ngũ Lão, cho cả dân tộc đang sống trong hào khí Đông A. Sức mạnh của ba quân được ví như sức mạnh ghê gớm của hổ báo làm át cả sao Ngưu. (Một cách hiểu khác cũng rất ý nghĩa: sức mạnh của ba quân như hổ báo có thể nuốt trôi cả trâu). Như vậy, câu đầu nói về cá nhân người trai thời Trần; câu thứ hai nói về dân tộc, về cộng đồng. Cá nhân có vẻ đẹp hiên ngang của đất trời, sông núi, vượt qua mọi thử thách của thời gian; cộng đồng, dân tộc có tầm vóc và sức mạnh của vũ trụ. Cá nhân và cộng đồng, dân tộc có mối quan hệ mật thiết, hài hòa. Hình ảnh người tráng sĩ oai hùng tạo nên khí thế ngất trời của ba quân; đồng thời, khí thế của ba quân lại làm cho hình ảnh người tráng sĩ thêm lộng lẫy. Mỗi con người đều tìm thấy bóng dáng mình trong hào khí chung của dân tộc. Đây là một thời đại cao đẹp của những con người cao đẹp!
Bằng chỉ hai câu thơ, Phạm Ngũ Lão đã thành công phác họa tư thế của nhân vật trữ tình – một chàng trai thời Trần và tư thế của dân tộc trong một thời điểm lịch sử với tầm vóc và quyết tâm lớn. Nhân vật trữ tình ở đây mang vẻ đẹp và tầm vóc sử thi. Phạm Ngũ Lão không chỉ phát ngôn nhân danh cá nhân mà còn nhân danh cả dân tộc, cả thời đại.
Hình ảnh người tráng sĩ cắp giáo tung hoành nơi trận mạc, hình ảnh ba quân khí thế ngất trời đã xuất hiện nhiều trong văn học trung đại Việt Nam cũng như Trung Quốc. (Chàng chinh phu trong 'Chinh phụ ngâm' của Đặng Trần Côn cũng từng 'Múa gươm rượu tiễn chưa tàn – Ngang lưng ngọn giáo vào ngàn hang beo'. Nói về tướng sĩ trong bài 'Thập giới cô hồn quốc ngữ văn', Lê Thánh Tông cũng viết: “Miệng thòm thèm giương dạ nuốt trâu – Chí hăm hở dang tay bắt vượn”). Tuy nhiên, nếu những câu thơ vừa dẫn mang tính chất khoa trương, thì trong 'Thuật hoài' của Phạm Ngũ Lão, những hình ảnh kì vĩ này lại rất chân thực và hiện thực, bởi chúng ra đời trong không khí quyết chiến, quyết thắng của quân dân nhà Trần. Tại Hội nghị Bình Than, các bô lão Đại Việt đã đồng lòng thể hiện tinh thần ấy. Mỗi binh sĩ thời đó đều khắc chữ “sát thát” (giết giặc Nguyên) trên tay mình.
Nối tiếp mạch cảm xúc của hai câu đầu, hai câu sau thể hiện khát vọng lập nên chiến công to lớn vì đất nước của vị tướng-thi sĩ:
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.
Người trai thời Trần không chỉ cao đẹp ở tư thế sẵn sàng chiến đấu, mà còn ở quan niệm sống tích cực. Lập công là làm nên sự nghiệp lớn trong bảo vệ và xây dựng đất nước. Có công thì mới được ghi danh. Mỗi người chân chính, đặc biệt là người trai, đều khao khát làm nên sự nghiệp, lưu danh muôn thuở. Đây chính là động lực to lớn giúp con người vượt qua mọi thử thách, lập nên những kỳ tích vang dội, thúc đẩy xã hội tiến bộ. Chính vì vậy, sau Phạm Ngũ Lão 6 thế kỷ, Nguyễn Công Trứ cũng khẳng định:
Làm trai sống ở trên đời
Phải có danh gì với núi sông.
Và từ lâu, ông cha ta vẫn khuyên răn: “Làm trai cho đáng nên trai – Xuống đông, đông tĩnh; lên đoài, đoài tan”. Đây không phải là thói háo danh tầm thường, mà là một quan niệm sống tiến bộ của dân tộc.
Ở đây, cái hay không chỉ ở nội dung thơ Phạm Ngũ Lão mà còn ở chính con người tác giả. Viên tướng làng Phù Ủng này nổi danh với nhiều chiến công, tham gia hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, khi tuổi cao vẫn hăng hái cầm quân đánh tan giặc, được phong chức Điện suý thượng tướng quân (1302) và ban tước Quan nội hầu (1318). Dù vậy, Phạm Ngũ Lão vẫn cảm thấy mình còn 'vương nợ' với đời, còn 'thẹn' khi nghe chuyện Gia Cát Lượng – nhân vật lẫy lừng giúp Lưu Bị thời Tam quốc. Điều này cho thấy khát vọng và nhân cách cao cả của ông. Có lẽ, chính vì ý thức được món nợ chưa trả xong với dân tộc, chính vì biết “thẹn” trước các nhân vật lịch sử mà Phạm Ngũ Lão trở nên vĩ đại – chàng trai thời Trần, người anh hùng với chiến tích vang dội và bài 'Thuật hoài' bất hủ này.
Bài 'Thuật hoài' ra đời đã 7 thế kỷ, nhưng vẫn luôn mới mẻ, hấp dẫn, lay động lòng người. Bởi lẽ, qua bài thơ, độc giả nhìn thấy hình ảnh chân thực và vĩ đại của người trai thời Trần, với vẻ đẹp cao cả và hùng vĩ.
7. Bài văn phân tích vẻ đẹp người anh hùng thời Trần trong thơ 'Tỏ lòng' của Phạm Ngũ Lão - mẫu số 10
Mỗi tác phẩm văn học đều mang đậm dấu ấn sáng tạo của tác giả. Nhưng không vì thế mà tác phẩm thiếu đi dấu ấn thời đại, hay không phản ánh hình ảnh con người của thời kỳ đó. Khi bàn về bài thơ Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão, nhà nghiên cứu Lã Nhâm Thìn nhận xét: Tóm lại, bài “Thuật Hoài” ngắn gọn, khái quát, thể hiện vẻ đẹp của con người và thời đại.
Có thể nói, trong các triều đại phong kiến Việt Nam, nhà Trần là triều đại để lại nhiều dấu ấn lịch sử đáng nhớ nhất. Ba lần quân Nguyên Mông – đế quốc phong kiến lớn nhất thời đó xâm lược nước ta, đều thất bại thảm hại trước sức mạnh của quân đội nhà Trần. Chính thời đại ấy đã hun đúc nên những con người vĩ đại, và chính con người ấy đã làm rạng danh thời đại. Trong lịch sử Việt Nam trước đó, có lẽ chưa từng xuất hiện hình tượng con người vĩ đại trong văn chương như vậy:
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.
(Cầm ngang ngọn giáo giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu.)
Ngay từ câu đầu, Phạm Ngũ Lão đã khắc họa hình ảnh một con người phi thường. Sự phi thường ấy thể hiện qua hành động hoành sóc – cầm ngang ngọn giáo. Con người thời Trần không chấp nhận những hành động tầm thường, mà phải là hoành sóc, đầy oai phong, dũng mãnh, hiên ngang. Hành động này không chỉ thể hiện tinh thần chủ động bảo vệ đất nước mà còn đầy thách thức, ngạo nghễ. Và để phản ánh được hết tầm vóc của con người thời đại, Phạm Ngũ Lão đã lựa chọn không gian giang sơn rộng lớn. Tương xứng với không gian ấy là thời gian kháp kỉ thu – trường tồn qua nhiều năm. Chiếc giáo của con người thời Trần như đo được cả bề rộng và chiều dài vũ trụ. Với câu thơ này, hình tượng con người được khắc họa qua khí phách hiên ngang. Khí phách ấy càng được nhân lên khi Phạm Ngũ Lão nói về đội quân vô địch của mình trong câu thơ thứ hai. Chỉ với phép so sánh (ì hổ) và nghệ thuật ẩn dụ (Khí thôn ngưu), nhà thơ đã lột tả một cách chân thực và hùng tráng khí thế mạnh mẽ của quân đội nhà Trần. Tướng quân họ Phạm có thể đã phóng đại sức mạnh của con người thời đại mình, nhưng điều đó xuất phát từ niềm tin và niềm tự hào. Con người thời đại Đông A không chỉ đẹp về tư thế, khí phách, mà còn đẹp trong tư tưởng và nhân cách:
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
(Thân nam nhi mà chưa trả xong nợ công danh,
Thì luống thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.)
Hai câu thơ này có thể coi là lời tự bạch của Phạm Ngũ Lão. Khi viết những dòng này, ông đã là một tướng quân với công danh hiển hách. Nhưng ông vẫn tự nhận mình chưa trọn nợ công danh. Trong tâm niệm của ông, công danh phải được vẹn tròn hơn nữa. Không hài lòng với những gì mình đã đạt được, ông cảm thấy “thẹn” với Gia Cát Khổng Minh. Việc tự so sánh mình với bậc kỳ tài của Trung Hoa để nhận ra điều chưa hoàn thành thể hiện sự dũng cảm và nhân cách cao đẹp. Cái “thẹn” của Phạm Ngũ Lão làm nên nhân cách, và điều đó cũng giống như Cao Bá Quát cúi mình trước vẻ thanh cao của hoa mai. Những cái cúi đầu ấy không làm giảm đi giá trị hay nhân cách, mà ngược lại, càng tôn vinh vẻ đẹp tinh thần. Ta cũng có thể thấy trong lời thơ này một niềm khát khao mãnh liệt – khát khao lập chiến công cho đất nước. Hoài bão ấy, ý chí ấy, lý tưởng ấy đã góp phần khắc họa vẻ đẹp tuyệt vời của con người thời đại nhà Trần.
Mỗi con người, theo đúng nghĩa, sinh ra và lớn lên trong thời đại của mình đều mong muốn góp phần làm rạng rỡ thời đại đó. Chân dung của một thời đại sẽ được phản ánh qua hình tượng con người. Đọc Thuật Hoài, chúng ta có thể hình dung thời đại nhà Trần là một thời kỳ khổng lồ và hào hùng, vang vọng khí phách dân tộc. Khí phách ấy không chỉ nổi lên từ những tiếng “Đánh!” đồng thanh của các bô lão trong hội nghị Diên Hồng, không chỉ được phất lên từ lá cờ thêu sáu chữ vàng “Phá cường địch báo hoàng ân” của Trần Quốc Toản, mà còn được thể hiện rõ nét trong thơ của Phạm Ngũ Lão. Hình ảnh con người suy tư về ý chí, lý tưởng, hoài bão của mình là sự phản chiếu tuyệt đẹp của chân dung thời đại.
Dù Thuật Hoài đã ra đời hàng ngàn năm, nhưng dấu ấn về con người và thời đại Đông A vẫn rất gần gũi và đẹp đẽ trong tâm trí chúng ta. Dù mỗi ngày chúng ta bận rộn với công việc, thật khó để lật lại những trang sử cũ, nhưng chỉ cần đọc bài thơ hai mươi tám chữ của Phạm Ngũ Lão, ta có thể cảm nhận được quá khứ hào hùng của cha ông.
8. Bài văn phân tích hình tượng người anh hùng thời Trần qua bài thơ 'Thuật hoài' của Phạm Ngũ Lão - mẫu 11
Với hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã trải qua vô số cuộc chiến gian khổ và giành được nhiều chiến thắng oanh liệt. Để đạt được những chiến công ấy, ngoài sự đoàn kết dân tộc, còn có tình yêu nước, trách nhiệm cao cả của con người, đặc biệt là của các đấng nam nhi. Khi nói đến tinh thần trách nhiệm và ý chí của người nam nhi, không thể không nhắc đến tác phẩm 'Thuật hoài' (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ đã khắc họa hình ảnh người nam nhi thời Trần anh dũng với lòng yêu nước nồng nàn và ý thức trách nhiệm, ý chí phi thường. Trước hết, hình ảnh người nam nhi thời Trần hiện lên với tấm lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm:
'Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu'
(Cầm giáo bảo vệ giang sơn suốt mấy thu)
Người anh hùng ấy hiện lên với tư thế hiên ngang và hành động vĩ đại, sánh vai cùng vũ trụ. Trong nguyên tác, đấng nam nhi cầm ngang ngọn giáo chứ không phải 'múa giáo' như bản dịch. 'Giang sơn' vừa thể hiện không gian vũ trụ vừa chỉ rõ đất nước. Giang sơn còn gợi lên hình ảnh của 'thiên, địa, nhân' - trời, đất và con người, trong đó con người đóng vai trò vô cùng quan trọng.
Ngọn giáo mà người anh hùng cầm trên tay là biểu tượng cho sức mạnh và lòng yêu nước của đấng nam nhi thời Trần. Nó được đo bằng chiều rộng của đất mẹ và chiều cao của bầu trời, như để khẳng định chủ quyền dân tộc. Khi cầm ngang ngọn giáo trên tay, người anh hùng đứng trong tư thế hiên ngang, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ giang sơn.
Đó là trách nhiệm, là sứ mệnh cao cả mà người tráng sĩ nguyện thực hiện. Dù thời gian trôi qua, sứ mệnh ấy đã kéo dài suốt mấy thu, họ vẫn kiên định và không hề thay đổi khát vọng bảo vệ đất nước. Chỉ với một câu thơ ngắn gọn, Phạm Ngũ Lão đã tái hiện thành công lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm với đất nước của người nam nhi thời Trần. Không chỉ dừng lại ở đó, hình ảnh người nam nhi thời Trần còn hiện lên tuyệt đẹp với ý chí chiến đấu và sức mạnh phi thường:
'Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu'
(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)
Theo sử sách, quân đội triều Trần được chia làm ba phần: Tiền quân, Trung quân và Hậu quân, mỗi phần đều có nhiệm vụ và trách nhiệm riêng. Tất cả đều sở hữu khí phách hơn người và được huấn luyện vô cùng nghiêm ngặt. Qua nhiều năm khổ luyện, những người nam nhi đội trời đạp đất mang trong mình sức mạnh phi thường, có thể dễ dàng nuốt trôi cả một con trâu lớn. Phạm Ngũ Lão đã sử dụng hình ảnh cường điệu hóa để làm nổi bật sức mạnh của người nam nhi thời Trần.
Không chỉ mạnh mẽ về thể chất, họ còn có ý chí chiến đấu kiên cường. Nhờ những yếu tố đó, đội quân nhà Trần trở nên vô cùng mạnh mẽ, giành chiến thắng và 3 lần đánh bại giặc Nguyên Mông. Họ đã viết nên trang sử hào khí Đông A, khẳng định vị thế của thời đại. Bên cạnh đó, còn có thể thấy hoài bão và lý tưởng công danh của người nam nhi thời Trần:
'Nam nhi vị liễu công danh trái'
(Công danh nam tử vẫn còn vương nợ)
Nói như Nguyễn Công Trứ:
'Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông'
Công danh là một quy luật tất yếu trong cuộc đời đấng nam nhi. 'Nợ công danh' là món nợ mà ai cũng phải trả, và người nam nhi thời Trần cũng không ngoại lệ. Nhưng, với những tráng sĩ 'bình Nguyên' thời ấy, khi đất nước đang bị giặc xâm lược, 'nợ công danh' mà họ phải trả mang tầm vóc lớn hơn. Đó là sự cống hiến hết mình để bảo vệ độc lập, chủ quyền và mang lại hạnh phúc cho nhân dân.
Có thể nói, quan niệm của Phạm Ngũ Lão trong bài thơ mang ý nghĩa vô cùng to lớn. Nó cổ vũ người nam nhi từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, để thức tỉnh trách nhiệm với non sông, Tổ quốc. Dù đã cống hiến hết mình, người nam nhi thời Trần vẫn cảm thấy chưa đủ và hổ thẹn:
'Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu'
(Luống thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu)
Gợi nhắc câu chuyện về Gia Cát Lượng, Phạm Ngũ Lão thể hiện sự khiêm nhường của mình khi nói về nỗi hổ thẹn. Là một trong ba danh tướng tài ba nhất thời Trần, ông không hề làm điều thẹn với dân, với nước, với chính mình. Nỗi thẹn ở đây thể hiện niềm khát vọng vươn tới những điều lớn lao hơn, không làm hình ảnh người nam nhi nhỏ bé mà càng khẳng định tầm vóc và ý chí của họ.
Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, đanh thép và hào hùng, 'Thuật hoài' đã khắc họa thành công hình ảnh người nam nhi thời Trần với lý tưởng và hoài bão lớn lao, sức mạnh phi thường và ý chí kiên cường. Trong những năm tháng kháng chiến, họ đã hiên ngang chiến đấu và hy sinh cho Tổ Quốc, viết nên trang sử hào hùng cho dân tộc. Bài thơ không chỉ thể hiện tài năng thi ca mà còn khẳng định vẻ đẹp nhân cách sáng ngời của vị tướng tài ba Phạm Ngũ Lão.
Hình ảnh người nam nhi thời Trần trong 'Thuật hoài' cùng những tác phẩm như 'Hịch tướng sĩ' và 'Bạch Đằng giang phú' đã dựng nên tượng đài bất tử về người anh hùng dân tộc. Dù nhiều năm đã trôi qua, nhân dân Việt Nam vẫn luôn ghi nhớ và tự hào về thời kỳ 'hào khí Đông A'.
9. Phân tích bài thơ 'Tỏ lòng' của Phạm Ngũ Lão về người anh hùng thời Trần - mẫu 1
Trong kho tàng văn học thời Trần, bài thơ 'Tỏ lòng' của Phạm Ngũ Lão nổi bật như một tác phẩm thể hiện rõ nét tinh thần 'Hào khí Đông A' của thời đại. Được viết theo hướng yêu nước, tác phẩm khắc họa thành công hình ảnh người anh hùng với tầm vóc vũ trụ, từ lý tưởng, tư thế đến hành động.
Trước tiên, bài thơ đã tái hiện vẻ hiên ngang và tầm vóc vĩ đại của người anh hùng Phạm Ngũ Lão cùng vẻ đẹp của thời kỳ Đông A:
'Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu'
Dịch thơ:
'Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân hùng mạnh nuốt trôi trâu'
Với ý nghĩa 'cầm ngang ngọn giáo', từ ngữ 'hoành sóc' đã hình dung thành công hình ảnh người anh hùng bảo vệ đất nước với tư thế hiên ngang, mang tầm vóc vũ trụ. Trong bản dịch của tác phẩm 'Chinh phụ ngâm', hình ảnh người chinh phu cũng được miêu tả với hành động 'Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo'. Với hào khí đó, người anh hùng trở thành biểu tượng của thời đại và dân tộc, như 'Ba quân hùng mạnh nuốt trôi trâu'. Câu thơ phản ánh sức mạnh quân đội nhà Trần và khái quát sức mạnh dân tộc, gây ấn tượng với sự so sánh 'Tam quân tì hổ' (Ba quân mạnh mẽ như hổ báo) với khí thế 'nuốt trôi trâu', thể hiện tinh thần quyết chiến quyết thắng của 'Hào khí Đông A'. Bài thơ không chỉ khắc họa vẻ đẹp về tầm vóc, tư thế, hành động mà còn vẽ nên chân dung về ý chí của người anh hùng:
'Công danh nam tử còn vương nợ'
'Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu'
'Công danh' là một khái niệm quen thuộc khi người anh hùng thể hiện ý chí theo tinh thần Nho giáo, với mục tiêu để lại sự nghiệp và danh tiếng. Xuyên suốt thời phong kiến, đây là lý tưởng của các bậc anh hùng. Nguyễn Công Trứ cũng đã từng khẳng định:
'Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông'
Như vậy, ta thấy rằng lý tưởng của tác giả mang ý nghĩa tích cực, thể hiện quyết tâm với sự nghiệp cứu nước. Mặc dù là vị tướng có nhiều công lao trong việc bảo vệ đất nước, Phạm Ngũ Lão vẫn cảm thấy mình còn 'vương nợ' công danh. Ông cảm thấy thẹn khi 'tai nghe chuyện Vũ hầu', đó là sự khiêm nhường, thể hiện sự khao khát vươn tới những điều lớn lao hơn. Nỗi thẹn này không làm giảm tầm vóc của người anh hùng mà giúp chúng ta thấy được nhân cách cao đẹp và ý chí mãnh liệt của họ.
Với bốn câu thơ ngắn gọn và những hình ảnh lớn lao, kì vĩ, bài thơ 'Tỏ lòng' đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh người anh hùng thời Trần với vẻ đẹp của một người anh hùng vệ quốc hiên ngang, có lý tưởng, hoài bão, ý chí nghị lực và sức mạnh phi thường. Trong thời kỳ kháng chiến, họ đã chiến đấu và hy sinh cho Tổ Quốc, viết lên những trang sử vàng cho dân tộc. Bài thơ cũng khẳng định tài năng và phẩm cách của vị tướng tài ba Phạm Ngũ Lão.
Hình ảnh người anh hùng thời Trần trong 'Tỏ lòng' cùng các bài thơ như 'Hịch tướng sĩ' và 'Bạch Đằng giang phú' đã dựng lên những tượng đài bất tử về người anh hùng dân tộc trong lòng chúng ta. Để nhiều năm sau, nhân dân Việt Nam vẫn mãi nghe âm vang của một thời 'hào khí Đông A' hào hùng.
10. Phân tích bài thơ 'Tỏ lòng' của Phạm Ngũ Lão về người anh hùng thời Trần - mẫu 2
“Trai thời loạn” là một thành ngữ dân gian có nguồn gốc từ bao giờ không ai rõ. Có thể từ khi “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” (Nguyễn Khoa Điềm), đó là ý thức về vai trò của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Thời kỳ Trần, một thời kỳ anh hùng, đã tạo ra những nhân vật vĩ đại như danh tướng Phạm Ngũ Lão. Ông vốn là người bình dân, nhưng tài năng và lòng yêu nước của ông đã giúp xây dựng hình ảnh người Việt ưu tú trong lịch sử. Phạm Ngũ Lão là một nhân vật toàn tài, với tài võ để bảo vệ đất nước và tài văn để thể hiện lòng yêu nước qua thơ ca, đặc biệt là trong bài thơ “Thuật hoài”, nơi ông bày tỏ lòng yêu nước sâu sắc. Bài thơ tứ tuyệt Đường luật mà ông chọn để diễn đạt khát vọng và lý tưởng của mình rất phù hợp với tính chất của một tướng quân. Câu khai của bài thơ mở ra hình ảnh người anh hùng với tư thế vững chãi, hào hùng.
Phạm Ngũ Lão sử dụng hình ảnh cầm ngang ngọn giáo để thể hiện tư thế và tầm nhìn của mình. Từ “hoành sóc” trong câu thơ nguyên tác không chỉ đơn thuần là cầm giáo mà còn thể hiện sự mạnh mẽ, kiên định. “Giang sơn” biểu thị đất nước, bao trùm cả không gian và tinh thần vũ trụ, nhấn mạnh trách nhiệm bảo vệ non sông. Ngọn giáo trong tay người tráng sĩ không chỉ là vũ khí mà còn là biểu tượng của trách nhiệm và khát vọng bảo vệ tổ quốc. Phạm Ngũ Lão đã dấn thân giữ các cửa ải phía bắc, đối mặt với kẻ thù và thể hiện lòng yêu nước không thay đổi qua thời gian.
Câu khai của bài thơ mở ra tấm lòng son sắt của Phạm Ngũ Lão với quê hương đất nước. Tư thế hiên ngang của nhân vật trữ tình đi kèm với giọng điệu khiêm nhường, ẩn chứa sức mạnh tiềm tàng. Tướng quân Phạm Ngũ Lão cùng ba quân tạo thành một khối sức mạnh vững vàng, đánh bại quân xâm lược một cách mạnh mẽ. Câu thơ “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” sử dụng phép so sánh và phóng đại để tạo ấn tượng mạnh về sự anh dũng của quân đội. Phạm Ngũ Lão và quân đội của ông đã chiến đấu kiên cường, làm nên hào khí Đông A chói lọi.
Phạm Ngũ Lão đã thể hiện lý tưởng sống cao cả qua bài thơ “Thuật hoài”, thể hiện khát vọng và hoài bão mãnh liệt. Theo quan niệm Nho giáo, công danh là mục tiêu lớn của người đàn ông, và Phạm Ngũ Lão đã gắn lý tưởng của mình với sự nghiệp cứu nước. Bài thơ không chỉ là một tuyên ngôn về cách sống anh hùng mà còn là sự khẳng định trách nhiệm và tinh thần yêu nước. Câu thơ hợp của bài thơ thể hiện sự khiêm nhường của tác giả, cùng với khát vọng vươn tới những điều cao cả và lớn lao. “Thuật hoài” là tiếng lòng của một trái tim yêu nước mãnh liệt, bày tỏ trách nhiệm với Tổ quốc và tinh thần anh hùng của người Việt trong thời kỳ Trần.
11. Phân tích nhân vật anh hùng thời Trần qua bài thơ 'Tỏ lòng' của Phạm Ngũ Lão - mẫu 3
Phạm Ngũ Lão, dù xuất thân từ tầng lớp bình dân, lại nổi bật với tài năng văn võ toàn diện. Theo truyền thuyết, khi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn dâng quân chống Nguyên – Mông, ông đã gặp Phạm Ngũ Lão đang ngồi đan sọt giữa đường. Dù quân lính quát dẹp đường, Phạm Ngũ Lão không hay biết, mãi đến khi bị giáo đâm vào đùi chảy máu mới tỉnh ngộ. Ông đang mải nghĩ đến 'nợ công danh', quyết tâm dùng tài năng để giúp nước. Được Hưng Đạo Vương nhận làm tì tướng, Phạm Ngũ Lão đã chứng tỏ bản lĩnh và cống hiến nhiều thành tựu, trở thành một trong những anh hùng vĩ đại thời Trần.
Thơ Thuật Hoài là một dạng thơ tỏ lòng. Loại thơ này, với nhiều tên gọi như thuật hoài, ngôn chí, cảm hoài, thường dùng để thể hiện chí khí và khát vọng của người trai trẻ. Đây là cái 'nợ công danh', nợ sự nghiệp và danh vọng với đất nước và vua chúa, nhằm khẳng định bản thân.
Nhân vật chinh phụ trong Chinh phụ ngâm đã tuyên ngôn: “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa…”, Nguyễn Công Trứ cũng nói đến “Chí anh hùng”, nhấn mạnh “đã sinh ra trên đời, phải có danh với núi sông”… Tuy nhiên, tùy theo từng tác phẩm và thời đại, những tuyên ngôn này có thể chỉ là hình thức, còn thực chất chỉ là khẩu khí. Một số tác phẩm khác, mặc dù có vẻ ngoài giống nhau, nhưng lại chứa đựng tâm tư thực sự, sự day dứt, khát vọng cao cả của một con người hoặc một thế hệ trong thời đại của mình. Vì vậy, hình ảnh và khí phách của nhân vật trữ tình trong các tác phẩm có sự khác biệt rõ rệt, tạo nên cảm xúc khác nhau cho người đọc. Ví dụ, Đặng Dung (cuối triều Trần) thể hiện sự bi tráng: “Thù nước chưa xong đầu vội bạc; Mấy độ mài gươm dưới bóng trăng”. Nguyễn Công Trứ là sự kiêu hãnh nhưng cũng đầy xót xa về thân phận, dù là thân phận anh hùng.
Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão mang một vẻ đẹp và khí phách riêng trong thể loại thơ tỏ lòng. Đó chính là lý do bài thơ vẫn tồn tại và cảm động lòng người qua bao thế kỷ. Thứ nhất, bài thơ không chỉ là khẩu khí của một cá nhân mà là khẩu khí của cả một thời đại – “Hào khí Đông A”. Nhiều người trong thời kỳ Trần đã nói như vậy. Trần Thủ Độ nói: “Nếu bệ hạ muốn hàng thì trước hết phải chém đầu thần đã”. Trần Quang Khải: “Chương Dương cương giáo giặc; Hàm tử bắt quân thù”. Trần Nhân Tông: “Xã tắc hai phen bon ngựa đá; Non sông nghìn thủa vững âu vàng”.
Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão không chỉ là tiếng nói của một người, mà là tiếng nói của thế hệ trẻ trong công cuộc chống ngoại xâm, muốn đóng góp sức mình và để lại dấu ấn trong sự nghiệp đó. Thứ hai, chí khí và khát vọng công danh của Phạm Ngũ Lão trong bài thơ được thể hiện qua sự nghiệp chung, oai hùng. Điều này được chứng minh qua chiến công của chính ông. Đó không phải là thứ “khẩu khí hão” mà là sự hòa hợp giữa thời đại và cá nhân, tạo nên một bài thơ vừa hùng tráng vừa chân thực.
Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh suốt sao ngưu.
Dù hiểu “cầm ngang ngọn giáo giữ nước trong mấy thu; ba quân dũng mãnh như hổ báo, khí thế nuốt cả trâu” hay “nuốt sao Ngưu”, câu thơ đều muốn dựng lên bối cảnh và hiện thực xã hội rộng lớn. Đây là hình ảnh và bức tranh hoành tráng của sự nghiệp đánh giặc thời Trần. Phân tích bức tranh này cho thấy nhiều tầng hình ảnh với cách “dựng tranh” rất nghệ thuật.
Hai câu thơ đầu tạo nền rộng cho hào khí chiến đấu của dân tộc, bao gồm cả chiến sĩ và đoàn quân. Hào khí này được tập trung vào hình ảnh tiêu biểu nhất, thể hiện khí phách anh hùng nhất là “múa giáo”. “Múa giáo non sông trải mấy thu – Ba quân khí mạnh” là sự kết hợp giữa hình ảnh “tráng sĩ múa gươm” và “ba quân” với hào khí chiến đấu. Câu thơ từ cái “điểm” mở rộng ra, hoặc ngược lại, mở rộng rất rộng rồi thu hẹp thành một “điểm”, làm cho hai câu thơ thể hiện một cảm xúc rộng lớn và sâu sắc. Câu thơ tuy tượng trưng nhưng vẫn rất thực tế, phản ánh thực tại của thế hệ trẻ và mỗi cá nhân. Hai câu thơ cuối không còn hình ảnh tráng sĩ mà thể hiện tâm sự và suy nghĩ:
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
Ở đây thể hiện quan niệm của những người có chí khí thời phong kiến: nợ công danh là nợ phải trả. Công danh là sự nghiệp và tiếng thơm. Dù có sự phân biệt nam – nữ, nhưng không phải tiêu cực. Khi một thế hệ quan tâm đến những điều này, nợ công danh có một hình mẫu để học theo: gương Vũ hầu – Gia Cát Lượng.
Với nhà thơ – người anh hùng Phạm Ngũ Lão, công danh và chí làm trai gắn với sự đóng góp và hy sinh cao nhất cho đất nước trong công cuộc bảo vệ tổ quốc. Nỗi niềm canh cánh ấy, cái “thẹn” ấy thúc đẩy con người hướng tới những giá trị cao đẹp, anh hùng. Đây cũng là sự khích lệ và tuyên ngôn cho thế hệ và thời đại. Hai câu thơ có vẻ đẹp của khát vọng lập công, đóng góp và hy sinh cho đất nước.
Bài thơ 4 câu 28 chữ dựng lên hào khí của cả một thời đại, một thế hệ và một con người. Nó thể hiện cảm hứng yêu nước mãnh liệt, dù dung lượng nhỏ nhưng sức ảnh hưởng rất lớn. Đây là bài thơ điển hình về nội dung và hình thức của văn học trung đại.