1. Bài viết tham khảo số 4
Lép Tôn-xtôi đã từng nói rằng: "Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu". Tình yêu con người, yêu cuộc sống chính là hạt mầm khỏe khoắn nuôi dưỡng nhân cách, tài năng con người, cũng là cảm hứng sáng tác cho muôn văn nhân,nghệ sĩ. Cùng chung mạch nguồn về tình yêu gia đình, nếu nữ sĩ Xuân Quỳnh khiến người đọc nhớ về một thời bên người bà kính yêu với tiếng bà mắng yêu, với hình ảnh "Tay bà khum soi trứng" thì Bằng Việt lại khiến ta nhớ mãi người bà đôn hậu, giàu tình yêu với con cháu, dân tộc, và đặc biệt người bà ấy gắn với hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt: "Bếp lửa".
"Bếp lửa" như một đóa hoa đầu mà Bằng Việt thân gửi đến độc giả khi ông đang là sinh viên năm thứ hai du học tại Liên Xô. Xa gia đình, bè bạn, quê hương, tại nơi đất khách quê người, ông bồi hồi nhớ lại kỉ niệm ấu thơ bên bếp lửa cùng người bà đáng kính. Đó là hình ảnh của ngọn lửa cháy leo lét bên vách bế trong làn sương buổi sớm được đôi tay bà "ấp iu", chở che. Hình ảnh "Một bếp lửa ấp iu nồng đượm" gợi ta nghĩ đến hình ảnh ngọn lửa có đôi tay gầy guộc, già nua của bà nhen nhóm, chở che cho ngọn lửa cháy lên, sáng lên và khiến ta hình dung đến sự ôm ấp, che chở, tình cảm yêu thương, đùm bọc mà bà dành cho cháu trong những tháng ngày tuổi thơ.
Và rồi trong kí ức của cháu hiện về kỉ niệm năm bốn tuổi, năm tám tuổi. Kỉ niệm tuổi ấu thơ cứ lần lượt hiện về trong nỗi nhớ của cháu tựa như một thước phim quay chậm, đó là kỉ niệm "Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa". Lời thơ thủ thỉ, tâm tình như câu chuyện trong cuộc sống đời thương, cùng điệp ngữ "tu hú kêu" và câu hỏi tu từ "Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà?" gợi về nhiều những câu chuyện mà bà đã kể cho cháu nghe. Trong những năm tháng cha mẹ đi công tác xa, bà và cháu quấn quýt bên nhau. Cháu ở bên bà, được bà nuôi dưỡng, săn sóc "bà bảo cháu nghe", "bà dạy cháu học", "bà chăm cháu làm". Thời ấu thơ, bà chính là chỗ dựa tinh thần quan trọng cho cháu,...Bên bà, có lẽ cháu sẽ thấy thật ấm áp, bình yên, hạnh phúc biết bao.
Trong tâm trí của cháu luôn khắc sâu kỉ niệm năm giặc phá làng, đốt làng, túp lều tranh của hai bà cháu cũng bị đốt. Trong những tháng năm khắc nghiệt ấy, cháu nhớ như in lời dạy của bà:
"Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên"
Cuộc sống của hai bà cháu vô cùng khó khăn, cơ cực ở vào cảnh màn trời chiếu đất, đó là tháng ngày tăm tối nhất. So với thực tế cuộc sống của hai bà cháu, phương châm về chất đã không được tuân thủ. Bà dặn cháu như vậy là để bố mẹ cháu yên tâm công tác. Từ lời dặn ấy, ta thấy ở bà có những phẩm chất thật cao đẹp: giàu lòng thương con, hi sinh hạnh phúc tuổi già để đổi lấy độc lập dân tộc và đặc biệt là lòng dũng cảm, kiên định của bà trước mọi khó khăn khốc liệt. Tuy bà không trực tiếp tham gia chiến đấu nhưng lại là chỗ dựa vững chắc cho tiền tuyến. Cảm nhận đức hi sinh cao cả của bà, trong lòng ta lại nhớ về bao bà mẹ Việt Nam anh hùng, những người đã rơi bao giọt nước mắt khi phải tiễn chồng con ra tiền tuyến, nhớ đến người mẹ Tà-ôi địu con trên lưng mà vẫn giã gạo nuôi bộ đội trong "Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ" của Nguyễn Khoa Điềm,... Những bà mẹ kính yêu ấy xứng đáng được bác Hồ ngợi ca là người "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang",...Bà chính là người tiêu biểu cho phẩm chất truyền thống của phụ nữ Việt Nam tự bao đời nay...
Người cháu bộc lộ những nghĩ suy về bếp lửa bà nhóm, và cũng là về bà:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
"Bếp lửa bà nhen" là hình ảnh mang nghĩa thực- bếp lửa cháy bằng rơm, bằng củi do bàn tay gầy guộc của bà nhen nhóm. Từ hình ảnh bếp lửa mà nhà thơ có sự liên tưởng sâu sắc đến ngọn lửa ấm áp của tình yêu thương mà bà luôn ấp ủ dành cho cháu, bù đắp cho cháu khi cháu phải xa mẹ cha. "Ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng" là ngọn lửa của niềm tin trong cuộc sống, có sức sống mãnh liệt, bền bỉ mà bà truyền cho cháu. Bà không chỉ là người nhóm bếp lửa mà còn là người giữ lửa, truyền lửa, ngọn lửa của bà thật thiêng liêng, cao cả và vĩ đại.
Cuộc đời bà dẫu đầy truân chuyên, vất vả, nhiều nắng mưa nhưng bà vẫn "giữ thói quen dậy sớm"- một người đảm đang, tần tảo, chịu thương, chịu khó. Với cháu, việc nhóm bếp lửa của bà có ý nghĩa vô cùng quan trọng:
"Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ"
Mỗi khi bà nhóm lên bếp lửa là nhóm lên tất cả: nhóm lên tình yêu thương mà bà đã dành cho cháu, nhóm lên niềm vui trong lòng cháu mỗi khi mùa về, nhóm lên tình đoàn kết với hàng xóm, láng giềng và đặc biệt, bà nhóm dậy tất cả những kỉ niệm ấu thơ của cháu. Vậy là từ bếp lửa mà bà nhen, cháu đã khôn lớn cả về thể chất và tâm hồn, để cháu được bay cao bay xa,...Từ bếp lửa thiêng liêng ấy, cháu đã hiểu hơn về sự đảm đang vất vả của bà. Bà chính là người nuôi dưỡng tâm hồn chắp cánh ước mơ cho cháu.
Để rồi khi xa bà, với cuộc sống hiện đại, đầy đủ, cháu vẫn không nguôi nhớ về bà, có một điều không bao giờ đổi thay, luôn khắc ghi trong tâm trí cháu:
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Lời thơ của Bằng Việt thủ thỉ, nhẹ nhàng, tâm tình cứ như một câu chuyện vậy. Người bà hiện lên trong tâm trí của nhà thơ và ông dành cho bà tình yêu, sự trân trọng. Bài thơ cũng là lời nhắc với mỗi chúng ta: hãy luôn trân trọng những người thân quanh ta, vì họ là cuộc sống của ta.
2. Bài tham khảo số 5
Nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, những năm tháng xa quê ở nước ngoài đã truyền cảm hứng mạnh mẽ để ông viết bài thơ 'Bếp Lửa', phản ánh sâu sắc tình cảm bà cháu. Hình ảnh người bà trong bài thơ không chỉ là hình mẫu của sự hy sinh, yêu thương mà còn là biểu tượng của niềm tin vững bậc, khơi dậy trong lòng người đọc niềm xúc động về tình cảm gia đình thiêng liêng và cao cả.
Những câu thơ mở đầu diễn tả hình ảnh bếp lửa trong sương sớm, ấm áp và gần gũi, gắn liền với sự chăm sóc tỉ mỉ của bà, người âm thầm nhen nhóm ngọn lửa để sưởi ấm trái tim của đứa cháu yêu thương. Bà hiện lên như một người mẹ hiền, chăm sóc và bảo ban cháu, để xoa dịu nỗi nhớ và sự thiếu thốn khi xa bố mẹ. Những kỷ niệm về bà giúp cháu vơi bớt nỗi cô đơn và cảm nhận được tình yêu thương bù đắp từ bà.
Bà cũng là hình ảnh điển hình của người phụ nữ Việt Nam, mạnh mẽ và hi sinh. Khi dặn dò cháu về việc không kể lể khó khăn cho bố, bà đã gánh vác tất cả nỗi đau, để làm hậu phương vững chắc cho chiến tuyến. Bà thể hiện vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, sẵn sàng đặt tình chung lên trên, biểu hiện cao nhất của lòng yêu nước và cách mạng. Bằng Việt đã truyền tải sức mạnh của lòng yêu nước và sự dũng cảm qua hình tượng người bà.
Càng về cuối, hình ảnh người bà càng hiện lên rõ nét, nổi bật với những phẩm chất tuyệt vời. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa, và là ngọn lửa bất diệt. Bà không chỉ thắp sáng bếp lửa thực tại mà còn giữ lửa yêu thương, sưởi ấm cháu trong những lúc khó khăn, nối kết tình làng nghĩa xóm. Trái tim bà chính là ngọn lửa của niềm tin và tình cảm, là hành trang quý giá cho cháu trên con đường đời. Dù có đi xa, cháu vẫn không quên nhắc nhở “sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”.
Nhờ tài năng và tâm huyết, Bằng Việt đã khắc họa hình ảnh người bà đẹp đẽ và thiêng liêng như ánh sáng của ngọn lửa bất diệt. Hình ảnh người bà nhắc nhở chúng ta về tình bà cháu thiêng liêng và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam sẵn sàng hy sinh vì lợi ích cộng đồng.
3. Tài liệu tham khảo số 6
Bài thơ 'Bếp lửa' của Bằng Việt là một hành trình hồi tưởng về tuổi thơ tươi đẹp gắn liền với hình ảnh người bà yêu dấu. Dù chỉ là một bài thơ bảy khổ, nhưng nó đã khắc họa sâu sắc phẩm chất cao quý của bà, như một biểu tượng của những người mẹ Việt Nam vĩ đại, luôn hy sinh vì con cháu. Tất cả những vẻ đẹp ấy được thể hiện một cách chân thực và đầy đủ qua từng câu thơ đượm tình yêu thương.
Hình ảnh bà trong ký ức của cháu hiện lên gần gũi, thiêng liêng với tình yêu vô bờ bến và sự che chở, bao bọc. Qua từng câu thơ, tác giả đã thể hiện lòng biết ơn và tự hào sâu sắc về sự hi sinh của bà.
Ba câu thơ đầu mở ra hình ảnh bếp lửa như nguồn sống gắn bó với bà: 'Một bếp lửa chờn vờn sương sớm/ Một bếp lửa ấp iu nồng đượm/ Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.' Bếp lửa với ánh sáng ấm áp vào sáng sớm gợi nên cảm giác thân thương. Hai chữ 'ấp iu' không chỉ mô tả công việc nhóm lửa khéo léo của bà mà còn bộc lộ tấm lòng bao dung, nhân hậu của bà. Từ hình ảnh bếp lửa, tình cảm chân thành của tác giả hiện lên: 'Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.' Câu thơ này chứa đựng bao tình cảm sâu nặng, với nắng mưa tượng trưng cho những khó khăn mà bà đã trải qua. Hình ảnh bà hiện lên nhẹ nhàng, sâu lắng, và các phẩm chất đẹp đẽ của bà được thể hiện rõ ràng ở các khổ thơ tiếp theo.
Bà là người phụ nữ tảo tần, chịu thương, chịu khó. Dù đất nước trải qua đói kém, bà vẫn bền bỉ nuôi cháu khôn lớn. Những năm tháng đói kém được thể hiện rõ qua ngôn từ đặc sắc và hình ảnh đầy ám ảnh như 'Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy.' Mặc dù khổ thơ không nhắc đến bà, nhưng vẻ đẹp hi sinh thầm lặng của bà vẫn hiện lên rõ ràng, như một cây cổ thụ che chở cho gia đình vượt qua giông tố cuộc đời. Dáng bà nhỏ bé nhưng ý chí và sự hi sinh của bà thì vô cùng lớn lao.
Bà không chỉ tảo tần lo lắng cho gia đình mà còn nuôi dưỡng và bảo ban cháu khôn lớn. Bà vừa là bà, vừa là cha mẹ, bao bọc và che chở cho cháu. Trong tám năm cha mẹ bận công tác, bà đã thay cha mẹ chăm sóc cháu bằng tình yêu thương và sự dạy dỗ: 'Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe/ Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.' Bà nuôi dưỡng tâm hồn cháu qua những câu chuyện truyền thống và dạy dỗ cháu từng chút một để trưởng thành. Từ những từ ngữ 'bà bảo', 'bà dạy', 'bà chăm' thể hiện sâu sắc tình yêu thương và sự tận tâm của bà.
Hơn nữa, bà là trụ cột vững chắc, là hậu phương để con cháu yên tâm công tác. Dù chiến tranh tàn phá, bà vẫn vững lòng, dặn dò cháu: 'Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh/ Bố ở chiến khu bố còn việc bố/ Mà có viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên.' Câu thơ giản dị nhưng đầy sức lay động, bà không chỉ là chỗ dựa cho cháu mà còn là hậu phương vững chắc cho con cái ngoài chiến trường. Hình ảnh bà gợi nhớ đến người bà trong bài thơ 'Đò Lèn' của Nguyễn Duy, với lòng kiên cường và tình yêu thương bất diệt giúp bà vượt qua mọi khó khăn.
Cuối cùng, bà khơi dậy những ước mơ và hi vọng, trao truyền sức mạnh cho thế hệ sau: 'Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen/ Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn/ Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.' Lòng bà luôn ủ sẵn niềm tin bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa của kỷ niệm và tình yêu thương sẽ dẫn đường cho cháu trong suốt cuộc đời. Hình ảnh 'ngọn lửa' cùng với các từ ngữ chỉ thời gian như 'rồi sớm rồi chiều' và các động từ như 'nhen', 'ủ sẵn', 'chứa' khẳng định ý chí và bản lĩnh của bà, cũng như của người phụ nữ Việt Nam thời chiến. Tác giả sử dụng điệp từ để thể hiện tình yêu thương, niềm vui, và sự san sẻ, giúp cháu biết yêu thương, gắn bó với quê hương.
Với việc kết hợp linh hoạt các phương thức biểu đạt, tác giả đã thể hiện hình ảnh bà vừa cao cả, đẹp đẽ, vừa thân thương, bình dị. Bà là hình mẫu của người phụ nữ Việt Nam đảm đang, tần tảo, và giàu đức hi sinh, đồng thời nhắc nhở chúng ta biết yêu thương và kính trọng ông bà và gia đình.
4. Tài liệu tham khảo số 7
Từ lâu, những phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ đã khơi nguồn cảm xúc dồi dào, bất tận cho biết bao những người nghệ sĩ để sáng tác lên những bài văn hay, những bài thơ tuyệt mĩ về người bà, người mẹ. Và Bằng Việt, với bài thơ "Bếp lửa" cũng đã góp một tiếng thơ tuyệt mĩ ấy về hình ảnh người bà – một người phụ nữ nhân hậu, bao dung, giàu tình yêu thương con, thương cháu tha thiết.
Bài thơ ra đời năm 1963, khi đó Bằng Việt đang là sinh viên ngành luật bên Liên Xô, vì thế thi phẩm là dòng hoài niệm về những kỉ niệm thời thơ ấu được sống trong sự chăm sóc, yêu thương của bà và bên bếp lửa thân yêu. Qua đó, người cháu thể hiện lòng kính yêu, sự trân trọng, biết ơn đối với bà, cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.
Trước hết là hình ảnh "bếp lửa" - nơi khơi nguồn cảm xúc nỗi nhớ, hồi tưởng về người bà kính yêu. Ở phương xa, người cháu luôn hướng về quê nhà, nơi có gia đình, có người thân yêu, có bà và có cả những kỉ niệm khi còn nhỏ. Và dòng cảm xúc hồi tưởng ấy được bắt đầu từ hình ảnh “bếp lửa” yêu thương:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm” giàu tính chất tả thực, gợi lên hình ảnh một bếp lửa ẩn hiện bập bùng cháy trong làn sương khói của buổi sớm mai. Những đốm than hồng đỏ rực nồng đượm sự ấp ủ, được nhóm lên bởi bàn tay dịu dàng, cần mẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người bà. Đồng thời, cái bếp lửa ấy cũng chờn vờn trong tâm trí , trong nỗi nhớ ám ảnh của nhà thơ, ấp ui, trân trọng và giữ gìn. Từ đó đánh thức dòng hồi tưởng nhớ thương của người cháu về người bà – người nhóm lửa trong mỗi buổi sớm mai:
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi tả sự cần cù, chịu khó, vất vả, giàu đức hi sinh của người bà. "Thương” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương, sự sẻ chia và bao hàm cả sự kính trọng, niềm biết ơn sâu sắc, cùng nỗi nhớ khôn nguôi của người cháu dành cho bà của mình.
Sống trong thời buổi chiến tranh loạn lạc, biết bao gia đình phải li tán, thậm chí là sinh li tử biệt. Và Bằng Việt, một đứa trẻ phải sống dưới làn bom, mũi súng của kẻ thù cũng đã phải chịu cảnh xa cha, xa mẹ từ nhỏ. Bởi cha mẹ Bằng Việt cũng tham gia cách mạng, vì thế tất cả mọi thứ ở quê nhà, Bằng Việt đều sống trong tình yêu thương, bao bọc chở che của người bà kính yêu. Cho nên với Bằng Việt, bà là nơi giữ gìn tổ ấm, là chỗ dựa vững chắc giàu tình yêu thương, niềm tin tưởng, nuôi dạy Bằng Việt khôn lớn, trưởng thành suốt những năm ròng kháng chiến:
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà...
Bên bếp lửa, bà kể chuyện cho cháu nghe, bà bảo ban, dạy dỗ và chăm cháu học. Các động từ: “bà bảo, bà dạy, bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc và thấm thía tình yêu thương bao la, chăm chút của người bà dành cho người cháu. Vì thế , bà trở thành ngọn nguồn ấm áp, vỗ về, nuôi nấng, chở che, giữ gìn tổ ấm gia đình và bà là sự kết hợp thiêng liêng cao quí của tình cha, nghĩa mẹ, công thầy trong những chuyến đi xa bận công tác của bố mẹ. Cho nên, người cháu luôn ghi lòng tạc dạ đức công ơn trời bể ấy của bà: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Chỉ một mình chữ “thương” thôi cũng đã đủ gói ghém tất thảy tình yêu thương, sự kính trọng và niềm biết ơn sâu nặng mà người cháu dành cho bà của mình. Trong những năm đất nước có chiến tranh, những khó khăn, ác liệt, biết bao nhiêu đau thương mất mát vẫn luôn in sâu trong tâm trí của người cháu. Và có một kỉ niệm trong hồi ức mà người cháu chẳng bao giờ quên được dù đã lớn khôn:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!"
Nỗi khổ sở, đau đớn khi giặc giã kéo về làng tàn phá, thiêu hủy nhà cửa, xóm làng, bà vẫn âm thầm chịu đựng, tự gắng gượng đứng lên chống đỡ nhờ sự đùm bọc, giúp đỡ của dân làng. Bà không muốn người con ở chiến khu biết được việc ở nhà mà ảnh hưởng đến công việc trong quân ngũ. Đó phải chẳng là phẩm chất cao quý của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh. Ta đọc ở đây sự hi sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu phương luôn muốn gánh vác cùng con cháu, cùng đất nước để đánh đuổi giặc giã xâm lăng, đem lại bầu trời tự do cho dân tộc. Lời dặn dò của người bà vẫn được cháu "đinh ninh" nhớ mãi trong lòng, được trích nguyên văn được nhắc lại trực tiếp khi người cháu viết thư cho bố càng cho thấy phẩm chất đáng quý biết bao của người bà. Vì thế, đến đây ta mới thấy được hết tất cả công lao to lớn của người mẹ Việt Nam đối với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Có được thắng lợi ấy không chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên mặt trận tiền tuyến mà còn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở hậu phương. Cho nên, đến đây chúng ta thấy tấm lòng của người thật rộng lớn mênh mông không chỉ dành riêng cho con cho cháu mà còn cho tất cả mọi người, cho quê hương, đất nước tươi đẹp này.
Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ được sống cùng bên bà của mình, người cháu tiếp tục suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Từ “bếp lửa” bài thơ đã gợi đến “ngọn lửa” với ý nghĩa trừu tượng và khái quát. Bếp lửa bà nhen lên trong mỗi buổi sớm mai và buổi chiều tà không đơn giản chỉ bằng nguyên liệu của tự nhiên, mà cao hơn đã được tác giả nâng lên thành biểu tượng cho tình yêu thương và niềm tin trong sáng, mãnh liệt. Điệp ngữ “một ngọn lửa” vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng bất diệt của ngọn lửa; lại vừa có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho cháu. Ngọn lửa chính là hình ảnh khúc xạ cho tâm hồn, cho ý chí, nghị lực sống phi thường của người bà. Vì thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người tiếp lửa, truyền lửa cho người cháu thân yêu. Đó là ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho thế hệ nối tiếp.
5. Tài liệu tham khảo số 8
Chỉ là một tiếng gà cục tác giữa trưa hè hay một bếp lửa nhấp nháy trong sương sớm, nhưng lại chứa đựng bao tình cảm. Có phải những điều giản dị nhất lại chính là chìa khóa của tâm hồn, của những cảm xúc chân thành mà không thể đổi được bằng bất cứ giá trị tầm thường nào? Tiếng gà trưa gợi nhớ trong Xuân Quỳnh những ký ức về bà và tình bà cháu cao đẹp, còn Bếp lửa sống động trong lòng Bằng Việt với cả một quá khứ đầy ắp kỷ niệm, khẳng định tình thương của cháu dành cho bà. Cảm xúc của nhân vật trữ tình giúp ta cảm nhận được ánh sáng và sự ấm áp kỳ diệu của bếp lửa, và hình ảnh người bà như trong cổ tích trong bài thơ.
Bếp lửa là tâm sự của người cháu sống xa nhớ về bà, với những kỷ niệm về tình bà cháu, thể hiện lòng kính yêu và sự suy ngẫm sâu sắc về bà. Cảm xúc trong bài thơ rất tự nhiên, từ hồi tưởng đến hiện tại, từ ký ức đến suy ngẫm: hình ảnh bếp lửa gợi về những năm tháng tuổi thơ bên bà, hiện lên hình ảnh người bà với bao vất vả và tình yêu thương dành cho cháu; từ ký ức, người cháu trưởng thành và hiểu được cuộc đời bà với lẽ sống giản dị và cao quý, gửi gắm niềm nhớ thương sâu sắc về bà.
Bếp lửa với bao ấm áp đã trở thành hình ảnh khơi nguồn cho cảm xúc của nhân vật trữ tình - người cháu. Bếp lửa gợi nhớ, lan tỏa và cháy mãi trong ký ức tuổi thơ, tỏa sáng chân dung người bà:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Cụm từ 'một bếp lửa' vang lên như điệp khúc mở đầu bài thơ. Trong cái sương sớm lạnh lẽo, bếp lửa làm cho không gian trở nên ấm áp. 'Chờn vờn sương sớm' không chỉ miêu tả bếp lửa quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam vào sớm mai mà còn gợi lên hình ảnh bếp lửa chập chờn trong ký ức tuổi thơ. Từ 'ấp iu' diễn tả đôi tay kiên nhẫn và tấm lòng rộng mở của bà. Các từ láy 'chờn vờn', 'ấp iu' kết nối và diễn tả chính xác cảm xúc gợi lên từ hình ảnh bếp lửa. Từ đó, cả một quá khứ đầy kỷ niệm đã được đánh thức trong tâm trí và suy ngẫm của người cháu.
Hình ảnh người bà trong ký ức của nhân vật trữ tình hiện lên với bao nỗi vất vả và phẩm chất đáng quý. Nhớ về bà, cháu nhớ về ký ức tuổi thơ bên bà:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Khổ thơ với nhịp ngắn và không đều; càng về cuối đoạn, nhịp thơ càng chậm lại, nhấn mạnh sự khó khăn mà hai bà cháu đã trải qua. Ký ức đưa cậu bé năm nào về quá khứ với cảm giác thật 'Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!'. Cái cay xè nơi sống mũi của hai mươi năm trước lại bất ngờ trở về. Có lẽ quá khứ trong cháu vẫn còn rất sâu đậm và vẹn nguyên, nên nó hiện lên thật sống động.
Tuổi thơ của cháu gắn liền với giai đoạn lịch sử đau thương của dân tộc. Tuổi thơ ấy chịu đựng gian khổ của thời kháng chiến chống Pháp. Trong hoàn cảnh 'mẹ và cha bận công tác không về', cháu sống trong tình yêu thương và sự chăm sóc của bà:
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Trong hoài niệm tuổi thơ, hình ảnh bếp lửa luôn gắn bó với hình ảnh người bà thân thương. Nhớ về bà cũng chính là nhớ về bếp lửa, hai hình ảnh này luôn đồng hành. Nỗi nhớ của người cháu với bà cũng là nỗi nhớ gia đình, quê hương, đất nước.
Từ sự hồi tưởng về ký ức tuổi thơ và bà, người cháu suy ngẫm về cuộc đời bà. Trong ký ức tuổi thơ, bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà tần tảo:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.
Từ hình ảnh bếp lửa bình dị, người cháu nhận ra những điều kỳ lạ và thiêng liêng. Ngọn lửa từ tay bà với tình yêu thương đã nuôi lớn cháu và nhóm dậy tâm tình tuổi nhỏ. Bà không chỉ là người phụ nữ giàu tình yêu thương và hy sinh mà còn là hình mẫu của người phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến. Bà âm thầm hy sinh cho Tổ quốc:
Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên.
Trong những năm chiến tranh, cháu lớn lên trong tình yêu thương và sự hy sinh cao cả của bà:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng..
Hình ảnh bếp lửa được nhà thơ liên tưởng thành ngọn lửa tình yêu với ý nghĩa sâu sắc. Nếu bếp lửa là cuộc sống âm thầm của hai bà cháu, thì ngọn lửa rộng hơn, là sức sống, tình yêu và niềm tin của bà trong cuộc sống của hai bà cháu.
Cuộc đời bà 'lận đận' nhiều năm, bà âm thầm hy sinh cho cháu và mọi người:
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Điệp từ 'nhóm' lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ khẳng định bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn giữ lửa, truyền lửa, thắp lên trong cháu ngọn lửa của tình yêu thương, nghị lực và niềm tin, giúp cháu vững bước trên đường đời. Bà không chỉ lo lắng cho cháu về vật chất mà còn làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, như trong cổ tích. Người bà có trái tim nhân hậu, đã nhóm dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn cháu để cháu trưởng thành. Người bà như vậy cũng xuất hiện trong Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh:
Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.
Với người cháu, ngọn lửa ấy thật kỳ lạ và thiêng liêng:
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa!
Trong toàn bộ bài thơ, hình ảnh bếp lửa xuất hiện mười lần, thể hiện tình cảm dâng trào của người cháu đối với bà. Bếp lửa thiêng liêng và kỳ lạ vì luôn hiện hữu, gắn bó cùng hình ảnh người bà và những năm tháng tuổi thơ. Bà và bếp lửa đã nuôi dưỡng cháu, thắp sáng niềm tin và ước mơ, trở thành điểm tựa tinh thần của cháu. Câu thơ là lời thốt lên từ tận sâu thẳm tâm hồn người cháu, thể hiện lòng tự hào và biết ơn sâu sắc với bà cũng như quê hương, đất nước.
6. Tham khảo bài số 9
Bài thơ 'Bếp lửa' của Bằng Việt viết về tình yêu và đức hi sinh của người bà, là một phần không thể thiếu trong kí ức tuổi thơ của chúng ta. Hình ảnh bà và ngọn lửa bếp là hai biểu tượng cảm xúc sâu sắc của một hồn thơ đẹp, được thể hiện qua đoạn thơ sau: 'Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen ... Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!'
'Bếp lửa' biến thành 'ngọn lửa'. 'Bếp lửa bà nhen' mỗi sớm mỗi chiều, ngọn lửa 'lòng bà luôn ủ sẵn', ngọn lửa của 'niềm tin' về sự ấm no và hạnh phúc:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
Vần thơ ca ngợi những phẩm chất cao cả của người bà, đồng thời là của người phụ nữ Việt Nam. Ngọn lửa của tình thương mà bà 'luôn ủ sẵn' cho con cháu. Ngọn lửa của niềm tin bền bỉ, 'dai dẳng' suốt đời bà, được 'bà nhen' mãi mãi sáng rực.
Hình ảnh người bà với tình thương, đức hi sinh và sự kiên trì đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận, làm sáng bừng ngọn lửa vĩnh cửu truyền cảm. Bảy câu thơ tiếp theo diễn tả những suy nghĩ của cháu về bà và việc nhóm lửa. Câu: 'Cháu thương bà biết mấy nắng mưa', thể hiện sự vất vả, tần tảo của bà.
Vì cảnh nghèo nên bà suốt đời vất vả. Chữ 'lận đận' thể hiện tấm lòng đôn hậu và đức hi sinh của bà. Bà là chỗ dựa và mái ấm tình thương của con cháu. Thức khuya dậy sớm vì hạnh phúc của cháu con đã trở thành 'thói quen' của bà trong nhiều năm:
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.
Nhà thơ cảm động khi nghĩ về bà, về bếp lửa, và việc bà nhóm lửa. Một tổng kết và ngợi ca đời bà, tình bà. Bà là nguồn ấm no và hạnh phúc, là tình thương của tuổi thơ. Bếp lửa bà nhóm suốt đời là ngọn lửa 'kì lạ và thiêng liêng'.
Điệp ngữ: 'nhóm bếp lửa', 'nhóm niềm yêu thương', 'nhóm nồi xôi gạo mới', 'nhóm dậy cả những tâm tình'... bốn lần vang lên trong thơ cảm thán đã khắc sâu hình ảnh bà, đại diện cho phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam, biểu lộ niềm tôn kính và biết ơn vô hạn. Ý tưởng sâu sắc, ngôn từ biểu cảm. Hình ảnh bà và bếp lửa thật vĩ đại:
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa
Những từ như 'ấp iu nồng đượm', 'yêu thương', 'ngọt bùi', 'chung vui' thể hiện sự tinh tế của ngòi bút nghệ thuật, diễn tả tình thương, niềm vui, sự no ấm mà bà mang lại cho con cháu. Bà đã 'nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ', nuôi dưỡng và làm sáng những ước mơ, khát vọng của đàn cháu. Bếp lửa bà nhóm lên ngọn lửa của tình thương ấm áp.
Nhà thơ hân hoan tự hào thốt lên: 'Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!'. Nhiều thơ ca đã viết hay về mẹ hiền, nhưng ít có bài thơ nào về bà đạt tới độ đặc sắc như bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt. Hình ảnh bà được thể hiện qua 'bếp lửa', 'nhóm lửa' và 'ngọn lửa' rất gần gũi với tâm hồn mỗi chúng ta.
Bà yêu cháu bao nhiêu, cháu cũng kính yêu và biết ơn bà bấy nhiêu. Bài thơ Bếp lửa thật sự xúc động, trong sáng, phản ánh nét đẹp trong gia đình Việt Nam, trong đạo lí dân tộc, và trong tâm hồn mỗi chúng ta. Câu thơ: 'Cháu thương bà biết mấy nắng mưa' đã trở thành câu thơ đi vào trí nhớ nhiều người gần xa...
7. Tham khảo bài số 10
Bài thơ 'Bếp lửa' của Bằng Việt mang đến hình ảnh người bà hiền hậu và tốt đẹp, là nguồn cảm hứng sâu sắc. 'Bếp lửa' là hình ảnh trung tâm của bài thơ, là nơi gợi nhớ về bà và những kỉ niệm tuổi thơ. Dù đang ở xa, người cháu vẫn luôn nghĩ về quê hương và hình ảnh bà:
Một bếp lửa nhè nhẹ trong sương sớm
Một bếp lửa ấm áp, nồng nàn
Cháu thương bà, bao nắng mưa.
Hình ảnh bếp lửa 'nhè nhẹ trong sương sớm' gợi lên cảnh bếp lửa mờ ảo trong làn sương của buổi sáng. Bếp lửa hồng rực là nhờ bàn tay bà chăm sóc, với sự dịu dàng và cẩn thận. Hình ảnh bếp lửa ám ảnh trong tâm trí người cháu, thể hiện sự trân trọng và nhớ nhung. Bà dù gặp khó khăn, vẫn lặng lẽ nhóm lửa để nuôi dưỡng cháu. Những kỉ niệm từ thời thơ ấu được nhắc lại qua lời cháu:
Mẹ và cha bận rộn không về
Cháu ở cùng bà, bà dạy bảo
Bà dạy cháu làm, chăm sóc học hành
Nhóm bếp lửa, thương bà vất vả
Tu hú ơi, chẳng về cùng bà...
Bà thay thế mẹ, chăm sóc và dạy dỗ cháu trong lúc cha mẹ vắng nhà. Nỗi nhớ bố mẹ và tình cảm thiếu thốn khi xa nhà được bù đắp bởi sự yêu thương của bà. Bà là nơi ấm áp, chỗ dựa vững chắc cho cháu. Vì thế, hình ảnh bà trở thành nguồn động viên và yêu thương. Bài thơ cũng thể hiện sự hi sinh của bà trong những năm khó khăn:
Năm giặc đốt làng, cháy tàn rụi
Hàng xóm trở về trong cảnh lầm lụi
Giúp bà dựng lại túp lều tranh
Bà vẫn vững lòng, dặn cháu đinh ninh
'Bố ở chiến khu, còn việc của bố,
Cứ viết thư bảo nhà vẫn yên ổn!'
Bà dù chịu đựng khổ cực, vẫn không muốn con biết, đó là phẩm chất cao quý của người mẹ Việt Nam trong chiến tranh. Sự hi sinh của bà là động lực lớn lao cho những chiến sĩ. Những dòng thơ cuối tôn vinh sự hy sinh và tình yêu của bà, làm nổi bật hình ảnh bà và bếp lửa. Bà là người nhóm lửa, giữ lửa và làm cho ngọn lửa của tình thương cháy mãi, dù xa quê, hình ảnh bà vẫn mãi trong trí nhớ:
8. Tham khảo bài số 1
Bằng Việt, một trong những nhà thơ nổi bật của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đã thể hiện trong thơ mình những tình cảm sâu lắng và rộng lớn. Đặc biệt, bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963 khi ông đang du học ở nước ngoài, thể hiện nỗi nhớ quê và hình ảnh người bà kính yêu. Dù xa quê hương, hình ảnh bếp lửa và người bà vẫn hiện hữu trong tâm trí tác giả, thể hiện tình cảm da diết và sâu lắng qua từng câu thơ.
Trong văn chương, việc viết về tuổi thơ thường mang nỗi nhớ và tiếc nuối, dễ bị lan man và thiếu điểm nhấn. Tuy nhiên, Bằng Việt đã khéo léo chọn hình ảnh “bếp lửa” – một chi tiết giản dị nhưng sâu sắc – để khắc họa nỗi nhớ quê và tình cảm dành cho bà. Hình ảnh bếp lửa, qua đó, không chỉ gợi nhớ về tuổi thơ mà còn về tình yêu thương của người bà:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm.
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm.
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Hình ảnh bếp lửa hiện lên không chỉ là hình ảnh cụ thể mà còn là biểu tượng của tình cảm và ký ức. Dù sống trong hoàn cảnh đói kém, hình ảnh bà và bếp lửa luôn gắn bó, là nguồn động viên tinh thần lớn lao. Tình cảm của bà không chỉ là vật chất mà còn là sự quan tâm, chăm sóc và tình yêu thương vô bờ bến:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc người gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”
Khói bếp là biểu tượng của nỗi khổ cực và tình yêu thương của bà. Dù khó khăn, bà vẫn giữ vững niềm tin và luôn chăm sóc cháu. Tiếng chim tu hú trong thơ cũng góp phần tạo nên hình ảnh người bà vừa gần gũi, vừa thiêng liêng:
“Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”
Những chi tiết giản dị nhưng chân thành trong thơ đã khắc họa rõ nét tình cảm của bà dành cho cháu. Bà là hình mẫu lý tưởng của sự hy sinh và tình yêu thương vô bờ, là nguồn động viên cho cả gia đình trong những năm tháng gian khổ. Những câu thơ như:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
Đã thể hiện sự vững bầu niềm tin và tình yêu bất diệt của bà. Bếp lửa không chỉ là hình ảnh cụ thể mà còn là biểu tượng của những giá trị thiêng liêng và tình cảm sâu sắc trong cuộc đời. Bài thơ đã thành công trong việc truyền tải tình cảm và hồi tưởng, đưa người đọc trở về với ký ức đẹp đẽ về tuổi thơ và người bà yêu quý.
10. Bài tham khảo số 2
Bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy khắc họa hình ảnh người cháu trở về quê ngoại và nhớ lại hình ảnh bà lam lũ, vất vả:
“Bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”
Hình ảnh bà trong bài thơ gợi nhớ đến tình cảm sâu nặng trong bài “Bếp lửa”. Bằng Việt miêu tả người bà với vẻ đẹp tần tảo và đức hi sinh, làm nổi bật lòng kính yêu sâu sắc của người cháu. Trong ký ức của người cháu trưởng thành, hình ảnh quen thuộc này luôn hiện về:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Hình ảnh bà nhóm lửa với sự cần mẫn và chịu thương chịu khó hiện lên rõ nét, gợi nhớ về những gian khổ bà đã trải qua. Hình ảnh “biết mấy nắng mưa” tượng trưng cho những nỗi vất vả, làm dấy lên sự thương cảm và xót xa của người cháu:
“Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
...Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,”
Khi người cháu lớn lên, hình ảnh bà là hình mẫu lý tưởng về sự hy sinh và tình yêu thương. Bà không chỉ là người chăm sóc cháu mà còn là người thầy, giúp cháu trưởng thành trong hoàn cảnh khó khăn. Điệp từ “bà” cùng các động từ “kể chuyện, dạy, chăm cháu học” cho thấy sự quan tâm và công sức bà đã dành cho cháu. Bà luôn giữ vững lòng tin và khích lệ cháu, dù hoàn cảnh khó khăn:
“Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Bà giấu nỗi khổ đau để làm yên lòng những người nơi tiền tuyến, tạo dựng hậu phương vững chắc. Hình ảnh “một ngọn lửa” trong lòng bà trở thành biểu tượng cho niềm tin và tình yêu bền bỉ:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”
Điệp ngữ “một ngọn lửa” nhấn mạnh thói quen và sự chăm sóc hàng ngày của bà, thể hiện sự kết nối với cộng đồng qua những món ăn giản dị. Hình ảnh bà nhóm lửa không chỉ giữ ấm mà còn truyền lửa tình thương cho cháu. Qua ký ức, bài thơ “Bếp lửa” thể hiện lòng biết ơn sâu sắc và làm nổi bật vẻ đẹp và giá trị của người bà trong cuộc sống của người cháu.
10. Tài liệu tham khảo số 3
Bạn có bao giờ chìm đắm trong ký ức tuổi thơ nhờ vào những hình ảnh quen thuộc? Những hình ảnh ấy đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn bạn? Đối với Bằng Việt, có lẽ hình ảnh người bà bên bếp lửa là một phần không thể thiếu trong ký ức tuổi thơ của ông.
Những ký ức ấy được Bằng Việt tái hiện chân thực qua bài thơ “Bếp lửa”. Hình ảnh người bà trong thơ ông hiện lên sâu sắc như thế nào? Điều đó thể hiện tư tưởng của tác phẩm ra sao? Hãy cảm nhận hơi ấm từ ngọn lửa tình bà qua những câu thơ đầu tiên:
“Một bếp lửa đung đưa trong sương sớm
Một bếp lửa ấm áp tình thương
Cháu yêu bà với bao nắng mưa.”
Những cảm xúc trong trẻo, giản dị xuất phát từ hình ảnh bếp lửa “đung đưa trong sương sớm”, “ấm áp tình thương” gợi sự khéo léo, chăm chút của bà. Hy sinh thầm lặng của bà đã sưởi ấm trái tim cháu nhỏ, làm ấm những năm tháng tuổi thơ. Tuy nhiên, tuổi thơ bên bà không hề bình yên, êm đềm:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy đói kém đói mòn đói mỏi
Bố đi làm, ngựa khô gầy
Chỉ nhớ khói làm mắt cháu cay
Nghĩ lại giờ sống mũi còn cay!”
Những câu thơ chân thực đến đau lòng. Khi lên bốn, cháu đã phải đối mặt với nạn đói năm 1945, nhưng ký ức về mùi khói bếp của bà – mùi khói làm cay mắt cháu – vẫn còn đậm sâu. Mùi khói bếp vẫn để lại dư vị cay cay nơi sống mũi, dù thời gian trôi qua. Bà lặng lẽ, âm thầm tích lũy hơi ấm để nuôi dưỡng cháu, dù gian nan kéo dài đến “tám năm ròng”. Những ký ức về bà ngày càng sâu đậm trong tâm hồn cháu:
“Mẹ và cha bận việc công không về
Cháu ở với bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.”
Trong khói lửa chiến tranh, cháu không sống cùng bố mẹ, nhưng được bà yêu thương, chăm sóc và nuôi dưỡng. Bên bếp lửa hồng, bà kể chuyện đời thường, chuyện cổ tích. Từng việc, từng việc, bà cháu cùng nhau “nhóm bếp lửa” để nấu nướng, sưởi ấm và nuôi dưỡng trí tuệ, tâm hồn.
Bà đóng vai trò của mẹ, cha, thầy, dạy dỗ và yêu thương cháu vô điều kiện. Vì vậy, tình yêu và sự kính trọng bà được Bằng Việt thể hiện qua hình ảnh: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà vất vả”. Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm sóc dành cho cháu.
Hơi ấm bếp lửa còn gợi nhớ những khó khăn, đau thương. Hình ảnh bà già yếu, nhỏ bé trong khói lửa chiến tranh, không một lời kêu ca, khiến chúng ta cảm phục. Đặc biệt, lời dặn dò của bà làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ vị tha, hi sinh cả đời vì con cháu:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn
Hàm xóm bốn bên về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
‘Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư, chớ kể này nọ
Cứ bảo nhà vẫn bình yên!’
Bằng Việt đã truyền tải sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hy sinh qua hình ảnh người bà. Bà gồng gánh mọi lo toan để các con yên tâm công tác với tấm lòng của một người hậu phương luôn hướng ra tiền tuyến, với ý chí và nghị lực kiên cường. Bà đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, sẵn sàng hy sinh tình riêng để đặt tình chung lên trên.
Đó là biểu hiện cao cả của lòng yêu Tổ quốc, yêu kháng chiến và cách mạng. Bằng Việt đã truyền cho người đọc sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hy sinh lớn lao qua hình tượng người bà. Càng về cuối, nỗi xúc động dâng trào càng mạnh mẽ, khiến hình ảnh bà trở nên chân thực và sống động, làm điểm sáng cho bài thơ với những hành động và phẩm chất tuyệt đẹp:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin bền bỉ…
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấm áp tình thương
Nhóm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Bếp lửa không chỉ được nhóm lên bằng củi rơm mà còn từ ngọn lửa sức sống, tình yêu, niềm tin vững bền và bất diệt… Giọng thơ mạnh mẽ, đầy xúc động khẳng định ý chí và bản lĩnh sống của bà, cũng như của người phụ nữ Việt Nam thời chiến. Bà là người nhóm lửa, truyền lửa và luôn giữ ngọn lửa ấm nóng trong gia đình.
Trong tâm trí của Bằng Việt, bếp lửa và bà tuy bình dị, song ẩn chứa nhiều điều cao quý thiêng liêng: “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Mỗi câu, mỗi chữ như hồng lên, nồng ấm tình cảm nhớ thương, ơn nghĩa. Cháu giờ đã lớn, đã đi xa nhưng vẫn nhớ mãi về ngọn lửa làm cay mắt thuở lên bốn, nhớ mãi hình ảnh tảo tần nơi góc bếp của bà:
“Giờ cháu đã đi xa. Có khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này bà đã nhóm bếp chưa?”
Dù đã rời xa thế giới rộng lớn, tuổi thơ lùi xa, cháu vẫn không quên bà và bếp lửa quê hương, nơi nắng mưa có nhau. Bà và quê hương yêu dấu là điểm tựa tinh thần vững chắc cho cháu trên mọi bước đường đời. Hình ảnh bàn tay khéo léo nhóm lửa vẫn luôn tỏa hơi ấm trong tâm hồn cháu.
Bạch Cư Dị từng nói: “Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương”. Bài thơ “Bếp lửa” chính là như vậy. Đọc những vần thơ thấm đẫm cảm xúc của Bằng Việt, dường như trong mỗi người đều sống dậy những tình cảm đẹp, ký ức đẹp. Đó có thể là tình cảm với gia đình, bạn bè, thầy cô.
Bằng Việt cũng mang những cảm xúc đó, nhưng ông chuyển tải qua những vần thơ tha thiết, xao xuyến tâm hồn độc giả. Những cảm xúc trong trẻo để lại ấn tượng sâu sắc, đặc biệt là hình ảnh thân thương của người bà.