1. Bài văn thuyết minh về hội thi hát đối đáp - mẫu số 4
Hội Lim là niềm tự hào của người Kinh Bắc, nổi bật với những làn điệu quan họ trữ tình và ngọt ngào. Những giai điệu dân ca quan họ được thể hiện bởi những liền anh, liền chị duyên dáng và tài hoa, đã trở thành phần hồn và món ăn tinh thần không thể thiếu của vùng đất kinh kì xưa. Quan họ Bắc Ninh, một loại hình dân ca có nguồn gốc từ 49 làng quan họ và các làng lân cận thuộc Bắc Ninh và Bắc Giang, được hát đối đáp giữa nam và nữ vào các dịp lễ hội hoặc khi có bạn bè. Họ hát theo cặp, với một bài hát cùng giai điệu nhưng khác về ca từ và đối giọng, thể hiện tình yêu lứa đôi qua các bài thơ, ca dao, không có nhạc đệm. Hát quan họ có bốn kỹ thuật đặc trưng: Vang, rền, nền, nảy và ba hình thức chính: Hát canh, hát thi lấy giải, hát hội. Quan họ gắn liền với tục kết chạ và các phong tục truyền thống, tuy không còn phổ biến như trước nhưng vẫn được bảo tồn và truyền dạy. Trang phục quan họ bao gồm áo dài năm thân của liền anh và áo mớ ba mớ bảy của liền chị, với sự tinh tế trong từng chi tiết. Quan họ mới hiện nay được biểu diễn trên sân khấu và trong các hoạt động cộng đồng, có sự giao lưu với khán giả và phát triển ra quốc tế, nhưng vẫn giữ được bản sắc dân tộc. Quan họ đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của Nhân loại. Dù trải qua nhiều thay đổi, quan họ vẫn giữ vững giá trị và sẽ tiếp tục phát triển cùng văn hóa dân tộc Việt Nam.
2. Bài thuyết minh về hội thi hát đối đáp - mẫu 5
Quan họ Bắc Ninh là những làn điệu dân ca đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ, chủ yếu tập trung ở khu vực Kinh Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang). Đây là nghệ thuật tổng hòa của âm nhạc, lời ca, trang phục và lễ hội, thể hiện sự kết nối tình cảm sâu sắc giữa những 'liền anh' và 'liền chị' hát quan họ, và là biểu tượng văn hóa của người dân Kinh Bắc.
Quan họ là thể loại dân ca phong phú nhất về giai điệu trong kho tàng dân ca Việt Nam và được truyền miệng qua các thế hệ. Để hát quan họ, cần có các 'bọn' như 'bọn nam' và 'bọn nữ'. Mỗi làng quan họ thường có nhiều 'bọn' với 4, 5, 6 người, được đặt tên theo thứ tự như chị Hai, Ba, Tư, hoặc anh Hai, Ba, Tư. Các thành viên trong 'bọn' không gọi nhau bằng tên thật mà theo tên của 'bọn'.
Hát quan họ là hình thức đối đáp giữa 'bọn nam' và 'bọn nữ', với các bài hát cùng giai điệu nhưng khác về ca từ và đối giọng. Mỗi 'bọn' phân công người hát dẫn và người hát luồn, và giọng của hai người phải hòa quyện thành một âm thanh thống nhất. Dân ca quan họ có 213 giọng và hơn 400 bài ca, với lời chính là thơ và ca dao Việt Nam, và lời phụ gồm các âm thanh như i hi, ư hư, a ha.
Quan họ Bắc Ninh tồn tại trong môi trường văn hóa và tập quán xã hội riêng, như tục 'kết chạ' giữa các làng. Các 'bọn' quan họ kết bạn với 'bọn' của làng khác theo nguyên tắc quan họ nam kết bạn với quan họ nữ. Với các làng đã 'kết chạ', trai gái trong các 'bọn' không được cưới nhau.
Một đặc điểm của quan họ Bắc Ninh là tục 'ngủ bọn', nơi các thành viên từ 9 đến 17 tuổi tập luyện và giao tiếp để chuẩn bị cho các buổi hát. Yêu cầu của tục này là các 'liền anh' và 'liền chị' phải luyện giọng sao cho thật hợp nhau.
Ẩm thực quan họ gồm trầu têm cánh phượng hoặc cánh quế, chè Thái Nguyên, và cơm quan họ dùng mâm gỗ tròn sơn đỏ, gọi là 'mâm son', thể hiện tình cảm thắm thiết của chủ nhà. Các món ăn phải có đĩa thịt gà, giò lụa, thịt lợn nạc và tránh thức ăn nhiều mỡ để bảo vệ giọng hát.
Trang phục quan họ phân biệt giữa 'liền anh' và 'liền chị', với 'liền chị' mặc nón ba tầm, khăn vấn, khăn mỏ quạ, yếm, áo, váy, thắt lưng, và dép. 'Liền anh' mặc khăn xếp, áo cánh, áo dài 5 thân, quần và dép.
UNESCO đã công nhận quan họ Bắc Ninh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của Nhân loại, bao gồm 49 làng quan họ phân bố tại Bắc Giang và Bắc Ninh. Danh sách các làng quan họ được công nhận rất phong phú, với các địa phương như Hữu Nghi, Giá Sơn, Mai Vũ, và nhiều làng khác ở Bắc Ninh.
3. Bài thuyết minh về hội thi hát đối đáp - mẫu 6
Những ai đã đặt chân đến vùng đất Kinh Bắc, cụ thể là Bắc Ninh, sẽ không thể không bị cuốn hút bởi vẻ đẹp của nơi đây, nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hóa dân gian với các công trình nghệ thuật độc đáo. Bắc Ninh không chỉ nổi tiếng với những món ăn đồng quê đặc sắc mà còn với sự duyên dáng của những câu hát quan họ đầy tình cảm.
Dân ca quan họ đã từ lâu trở thành một phần quan trọng trong đời sống văn hóa của người dân Kinh Bắc. Đây là loại hình dân ca đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ, nổi bật với sự phong phú về giai điệu trong kho tàng dân ca Việt Nam. Mỗi bài hát quan họ đều mang một giai điệu riêng biệt. Hiện nay, đã có ít nhất 300 bài quan họ được ghi âm lại, bao gồm các đoạn thơ và bài thơ chủ yếu là thể lục bát, do các nghệ nhân truyền thống để lại cho các nhà sưu tầm.
Sự độc đáo của Quan họ Bắc Ninh nằm ở sự hòa quyện tuyệt vời giữa giai điệu, lời ca, và trang phục truyền thống, cùng với cách ứng xử văn hóa của các liền anh, liền chị. Trang phục quan họ không chỉ thể hiện vẻ đẹp thẩm mỹ mà còn phản ánh chiều sâu văn hóa của cộng đồng Quan họ - Bắc Ninh.
Quan họ chứa đựng nhiều phong tục, tập quán và tín ngưỡng đặc sắc, vì thế nó trở thành một “đặc sản văn hóa” gây ấn tượng mạnh. Dân ca quan họ, mặc dù không ồn ào, vẫn là một nét đẹp văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, không chỉ giữ vững giá trị tinh thần ở Bắc Ninh mà còn nổi tiếng quốc tế.
So với các hình thức văn hóa nghệ thuật dân gian khác như hát xoan, hát chèo, hát ca trù, hát ví dặm, tuồng, cải lương, hát quan họ có thời gian tồn tại lâu dài nhất (hàng ngàn năm). Điều này chứng tỏ hát quan họ không chỉ không bị đồng hóa mà còn phát triển nhờ bản sắc và sức sống riêng của nó trong lòng người dân Kinh Bắc.
Hiện tại, Bắc Ninh có 44 làng duy trì truyền thống quan họ với hàng ngàn bài hát cổ mang nét đẹp thiêng liêng, cổ xưa, và đặc trưng Việt Nam. Kho băng ghi âm quan họ cổ của các nghệ nhân vẫn được lưu giữ tại Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh. Các bài hát quan họ được giới thiệu chỉ là một phần trong kho tàng dân ca quan họ đã được khám phá. Dân ca quan họ ngày nay đã phát triển toàn diện về âm nhạc, lời ca và hình thức trình diễn, với các làn điệu ngày càng phong phú và có phong cách riêng.
Văn hóa quan họ được xây dựng bởi cộng đồng và luôn được sàng lọc qua dòng chảy lịch sử. Để khôi phục và bảo tồn những tinh hoa và bản sắc độc đáo của văn hóa quan họ, cần phải duy trì kho tàng bài bản quan họ, kỹ thuật hát quan họ cổ và lối chơi quan họ.
Quan họ truyền thống không sử dụng nhạc đệm và chủ yếu là hát đôi giữa liền anh và liền chị trong các dịp lễ hội. Đôi liền anh và liền chị đối đáp nhau gọi là hát hội, hát canh; còn cả bọn liền anh và liền chị hát cùng nhau gọi là hát chúc, hát mừng, hát thờ. “Chơi quan họ” truyền thống không có khán giả; người trình diễn cũng là người thưởng thức, cảm nhận “cái tình” của bạn hát.
Dù xã hội ngày càng hiện đại, khi về miền quan họ, bạn vẫn cảm nhận được sự ấm áp và tình cảm của người quan họ ở mỗi làng quê, gốc đa, mái đình, bến nước, và dòng sông. Câu quan họ vẫn được truyền từ đời này qua đời khác, với sức sống bền bỉ và ấn tượng sâu sắc với du khách.
Khi đến Bắc Ninh, ngoài việc hòa mình vào không khí văn hóa quan họ, bạn còn được thưởng thức miếng trầu têm cánh phượng, giống như trong câu chuyện cổ của cô Tấm. Bên cạnh cơi trầu, văn hóa quan họ xứ Kinh Bắc trở nên đậm đà bản sắc và thấm đượm tình người. Và khi chia tay Bắc Ninh, bạn sẽ vẫn nhớ mãi vị trầu nồng nàn và giai điệu ngọt ngào của bài hát “Người ơi, người ở đừng về”.
4. Bài thuyết minh về hội thi hát đối đáp - mẫu 7
Mỗi năm, khi xuân về và thu đến, người dân từ 49 làng Quan họ gốc thuộc vùng Kinh Bắc (gồm cả Bắc Ninh và Bắc Giang hiện nay) đều quay trở về quê hương để tham dự các hội đình, hội chùa, những lễ hội đặc sắc đã gắn liền với truyền thống Quan họ từ bao đời.
Dù có nhiều quan điểm khác nhau về thời điểm ra đời của Quan họ, với một số cho rằng bắt nguồn từ thế kỷ 11 và một số khác cho rằng từ thế kỷ 17, nhưng các nghiên cứu khảo sát đều xác nhận giá trị to lớn của di sản “Văn hóa Quan họ”, đặc biệt là dân ca Quan họ, loại hình nghệ thuật trung tâm của văn hóa xứ Kinh Bắc ngàn năm văn hiến.
Dân ca Quan họ là hình thức hát giao duyên đặc trưng. Những liền anh trong trang phục truyền thống khăn xếp, áo the và những liền chị duyên dáng với áo mớ ba, mớ bảy, đội nón thúng quai thao cùng nhau đối đáp những câu ca mộc mạc, đằm thắm. Cách hát truyền thống không cần nhạc đệm nhưng vẫn đầy âm nhạc, thể hiện sự tinh tế của văn hóa Quan họ.
Theo quan điểm của người Quan họ, nghệ nhân là những người có kỹ năng hát “vang, rền, nền, nẩy” điêu luyện, am hiểu nhiều bài và “giọng” Quan họ. Họ là những bậc thầy dân gian trong việc sáng tạo, bảo tồn và truyền lại di sản quý báu cho các thế hệ sau, xứng đáng được vinh danh.
Ngày nay, với sự phát triển toàn cầu hóa và quốc tế hóa, cùng với sự đa dạng của các loại hình văn hóa và nghệ thuật, Quan họ cổ đang đối mặt với nguy cơ bị mai một, thậm chí biến mất nếu không có biện pháp bảo vệ lâu dài cho thế hệ trẻ.
Vì vậy, những lề lối sinh hoạt ca hát Quan họ cổ, với kỹ thuật “vang, rền, nền, nẩy” đã làm nên giá trị đặc sắc của dân ca Quan họ, đang được lưu giữ trong trí óc và trái tim của các cụ “Liền anh, Liền chị” từ 70 đến 90 tuổi, rất cần được truyền dạy và tiếp nối.
5. Bài thuyết minh về hội thi hát đối đáp - mẫu 8
Vào ngày 30 tháng 9 năm 2009, trong kỳ họp lần thứ tư của Uỷ ban liên chính phủ Công ước UNESCO về Bảo vệ văn hóa phi vật thể, Dân ca Quan họ của Việt Nam đã được công nhận là di sản phi vật thể thế giới. Đây là niềm tự hào không chỉ của người dân vùng Kinh Bắc mà còn của toàn thể đồng bào cả nước, đánh dấu di sản đại diện nhân loại thứ ba của Việt Nam sau nhã nhạc cung đình Huế và cồng chiêng Tây Nguyên được Liên Hợp Quốc công nhận.
Dân ca Quan họ là một loại hình dân ca phong phú với nhiều giai điệu. Mặc dù vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc và thời điểm hình thành của Dân ca Quan họ, chúng tôi nghiêng về ý kiến của một nhà nghiên cứu văn học dân gian nổi tiếng cho rằng Dân ca Quan họ có nguồn gốc từ châu Cổ Pháp (Đình Bảng), quê hương của vua Lý Công Uẩn. Mỗi khi vua về thăm quê, người trong họ Lý thường hát những câu dân ca để chào mừng nhà vua, và từ đó những câu hát này được gọi là Quan họ.
Trong văn học nghệ thuật dân gian Việt Nam, Dân ca Quan họ là một thể loại đặc sắc cả về âm nhạc lẫn văn chương. Hát Quan họ là một lối hát đòi hỏi luyện tập công phu và mang tính tập thể với các quy định chặt chẽ. Các bài hát Quan họ thường được thể hiện ở nhịp độ chậm, có nhiều tiếng đệm và lời phụ.
Người hát Quan họ cần phải thành thạo kỹ thuật hát vang, nền, nảy, ngắt, rớt… Vì vậy, dù không cần nhạc đệm hay micrô, hát Quan họ vẫn vang xa, dễ nghe trong các lễ hội đông người. Hiện nay, dù còn những nghệ nhân trình diễn Quan họ cổ nguyên bản, Quan họ cũng đang phát triển theo hướng hiện đại. Trên thực tế, Quan họ hiện đại được biết đến nhiều hơn so với Quan họ cổ.
Tại vùng Kinh Bắc, từ già đến trẻ đều có thể hát được một vài làn điệu Quan họ. Người chơi Quan họ sành điệu không chỉ hát hay mà còn phải thuộc nhiều bài và lời cổ. Quan họ không chỉ xuất hiện trong các lễ hội mà còn trong lao động, đám cưới, đám giỗ… Mỗi dịp lễ hội mùa Xuân, các làn điệu Quan họ trữ tình vang lên trong không gian văn hóa làm say đắm lòng người.
Lời ca và làn điệu Quan họ gắn liền với sự phát triển của đời sống xã hội, nâng cao và tôn vinh mối quan hệ cộng đồng và giao lưu văn hóa. Sinh hoạt Quan họ thường gắn với hội hè, ca hát và giao lưu, phản ánh đời sống tình cảm và tinh thần của người lao động hướng tới cái đẹp. Dân ca Quan họ được chia thành hai loại:
Quan họ truyền thống, tồn tại tại 49 làng ở Bắc Ninh và Bắc Giang, với hàng ngàn bài hát cổ mộc mạc, dân dã, mang nét đẹp thiêng liêng và cổ xưa của Việt Nam. Kho băng ghi âm Quan họ cổ vẫn được lưu trữ tại Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh. Quan họ truyền thống thường được biểu diễn đôi hoặc tập thể trong các dịp hội Xuân ở các làng quê, không có khán giả, người trình diễn đồng thời là người thưởng thức.
Quan họ mới, hay còn gọi là hát Quan họ, là hình thức biểu diễn trên sân khấu hoặc trong các hoạt động cộng đồng như Tết, lễ hội, du lịch… Sau năm 1954, các làn điệu Quan họ đã được khai thác, viết lời mới và trình diễn trên sân khấu, phát thanh, truyền hình. Quan họ mới có thể được biểu diễn bất cứ ngày nào trong năm, luôn có khán giả, và người hát không chỉ trao đổi tình cảm với nhau mà còn với khán giả. Phạm vi của Quan họ mới không chỉ ở làng xã mà còn lan rộng cả trong và ngoài nước.
Hát Quan họ đặc trưng với sự đối đáp giữa liền anh và liền chị trong không gian văn hóa Quan họ. Hình thức hát Quan họ rất phong phú, thể hiện mối quan hệ cộng đồng và tương giao giữa các xã, lấy chữ “Lễ” làm trọng tâm và chữ “Nghĩa” làm động lực trong mọi mối quan hệ.
Người chơi Quan họ thể hiện sự lịch lãm, duyên dáng qua cách ăn mặc, lời nói và hành động. Nam thường mặc áo dài vải the, khăn xếp, che ô đen; nữ mặc áo mớ ba mớ bảy, đội nón quai thao để âm thanh khi hát trở nên ấm hơn. Khi hát, người Quan họ thường mời nhau và khách những miếng trầu têm cánh phượng, mang giá trị nhân văn sâu sắc.
Việc bảo tồn văn hóa Quan họ đã được quan tâm bằng các hoạt động thiết thực, như tổ chức Hội Lim từ ngày 13 đến 15 tháng Giêng (âm lịch), nhằm tôn vinh loại hình dân ca này. Các liền anh, liền chị và du khách lại tụ hội để thưởng ngoạn và thưởng thức văn hóa Quan họ.
Gần đây, việc tuyên truyền, quảng bá giá trị Dân ca Quan họ được chú trọng, cùng với việc tôn vinh các nghệ nhân và nâng cao chất lượng các sinh hoạt văn hóa Quan họ. Việc tổ chức lễ hội, liên hoan, hội diễn hát Quan họ, cùng với nghiên cứu và phát hành ấn phẩm về Dân ca Quan họ là các biện pháp để bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa thế giới này.
6. Bài viết thuyết minh về hội thi hát đối đáp - mẫu 9
Quan họ Bắc Ninh là một hiện tượng văn hóa dân gian sống động, gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần và tâm linh của người dân Kinh Bắc hàng ngày. Đây là một loại hình dân ca đặc trưng của vùng Kinh Bắc với lịch sử lâu đời. Quan họ có nguồn gốc từ hoạt động giao duyên, hát đối đáp nam nữ từ thời xa xưa, phổ biến ở nhiều dân tộc anh em với người Việt. Dù hiện diện trong cuộc sống hàng ngày, Quan họ thực sự tỏa sáng trong các lễ hội của cộng đồng.
Di sản văn hóa Quan họ tồn tại và lan rộng trên một vùng rộng lớn, nhưng chủ yếu tập trung tại 49 làng gốc ở Bắc Ninh, gồm 44 làng. Các làng Quan họ ở Bắc Ninh phân bố ở huyện Tiên Du (11 làng), huyện Yên Phong (17 làng), huyện Từ Sơn (2 làng), và thành phố Bắc Ninh (14 làng). Không gian văn hóa Quan họ trải dài khoảng 250km2, tập trung xung quanh thành phố Bắc Ninh.
Những làng Quan họ chủ yếu nằm bên các con sông như sông Cầu, sông Ngũ Huyện Khê, và sông Tiêu Tương. Các con sông này uốn lượn quanh chân đồi và chảy giữa các cánh đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống nông nghiệp và thời gian rảnh rỗi cho người dân Bắc Ninh.
Các làng Quan họ ở Bắc Ninh thường gắn bó với các làng nghề hoặc gần các làng nghề khác. Sự phát triển của các làng nghề và chợ quê đã tạo điều kiện cho việc giao lưu buôn bán và văn hóa, trong đó có văn hóa Quan họ. Do đó, văn hóa Quan họ có thể coi là sản phẩm của một vùng kinh tế phát triển.
Điểm đặc biệt của Dân ca Quan họ là mặc dù lời ca rất giàu chất thơ và nhạc, nhưng không sử dụng nhạc cụ đệm. Hát Quan họ chủ yếu là để trao đổi tâm tình, không cần phần đệm hay nhạc cụ. Các từ đệm và láy nâng cao tính nhạc của câu hát. Ca từ Quan họ thường là thơ lục bát biến thể, song thất lục bát, vè, hoặc ca dao, với ca dao luôn giữ vai trò chủ đạo.
Quan họ là sản phẩm sáng tạo của người dân bản địa, phản ánh cuộc sống, tinh thần và tình cảm của họ. Thể loại này không chỉ là nghệ thuật dân gian mà còn kết hợp giữa nghệ thuật dân gian và nghệ thuật bác học, thể hiện qua kỹ thuật hát và cách ứng xử tinh tế của người Quan họ.
Ngày 30/9/2009, tại kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, Quan họ đã được công nhận là “Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại”, sau các di sản như Âm nhạc cung đình Việt Nam, Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên và cùng đợt với Ca trù. Việc UNESCO công nhận Quan họ càng khẳng định giá trị văn hóa quan trọng của di sản này.
7. Bài viết thuyết minh về hội thi hát đối đáp - mẫu 10
Dân ca Quan họ là một di sản văn hóa phi vật thể độc đáo. Theo các chuyên gia nghiên cứu văn hóa, Quan họ có nguồn gốc từ thế kỷ 17, bắt đầu từ phong tục kết chạ giữa các làng. Về mặt nghệ thuật, Quan họ được coi là đỉnh cao của thi ca dân gian. Bắc Ninh hiện còn 44 làng Quan họ gốc, trong đó gần 30 làng vẫn duy trì truyền thống Quan họ. Đây là một thể loại dân ca đặc sắc, nổi bật với lối hát giao duyên nổi tiếng của vùng đồng bằng Bắc Bộ, tập trung chủ yếu ở Bắc Ninh – Kinh Bắc.
Tên gọi “Quan họ” đã có từ rất lâu, và có nhiều giả thuyết về nguồn gốc của nó. Một số cho rằng “Quan họ” có thể là nhạc của “họ nhà quan”, vì nó không xuất phát từ tầng lớp lao động mà từ tầng lớp trung lưu nông thôn. Có truyền thuyết khác lại kể về một quan chức cưỡi ngựa qua làng Diềm Xá, nghe cô gái hát và đặt tên làn điệu là Quan họ.
Trong một buổi hát Quan họ, thường thấy sự đối đáp giữa bọn nam và bọn nữ, với liền anh đứng đầu bên nam và liền chị đứng đầu bên nữ. Các câu hát có thể được chuẩn bị trước, nhưng khi đối đáp thường dựa vào khả năng ứng biến. Từ mồng 4 Tết âm lịch đến gần ba tháng sau, các hội làng Quan họ và các làng xung quanh liên tục diễn ra. Mùa xuân và mùa thu là thời điểm hội hè và hát Quan họ rộn ràng, náo nhiệt khắp nơi.
Trang phục của các liền anh và liền chị trong khi hát Quan họ rất đặc trưng: nam mặc áo lụa, áo the, quần sớ, khăn xếp; nữ mặc mớ bảy mớ ba, áo tứ thân, yếm xẻ, thắt lưng hoa, và đeo khuyên vàng. Khi hát ngoài trời, nam thường dùng ô, nữ dùng nón thúng quai thao để thêm phần lịch sự.
Quan họ rất phong phú về các làn điệu như la rằng, đường bạn kim loan, cây gạo, giã bạn, hừ la, la hới, tình tang, cái ả, lên núi, xuồng song, cái hồ, gió mát trăng thanh, tứ quý... Một cuộc hát Quan họ bao gồm ba chặng: mở đầu với giọng lề lối, chuyển sang giọng sổng, rồi giọng vặt, và kết thúc với giọng giã bạn.
Giọng lề lối là phần mở đầu, có nhịp điệu chậm, nhiều luyến láy và tiếng đệm. Giọng sổng là phần chuyển tiếp từ giọng lề lối, có tính chất khoan thai và ảnh hưởng đến các giọng tiếp theo. Giọng vặt là phần chính của buổi hát, với âm nhạc gọn gàng và tiết tấu linh hoạt. Giọng giã bạn là phần trước khi chia tay, thường có chủ đề tiễn biệt với giai điệu buồn nhưng đầy tình cảm.
Khi nghe hát Quan họ, người ta thường cảm nhận được sự mượt mà và đằm thắm của âm nhạc. Lời ca diễn tả tình yêu một cách ý nhị và thơ mộng, với nhiều kỹ thuật như hát ngắt, lảy hạt, rung giọng và ngân nga. Quan họ nam và nữ thường hát đối đáp, mời nhau trầu và tổ chức lễ kết nghĩa tại các đình hoặc nhà riêng.
Trong truyền thống Quan họ, các nhóm thường xếp thành cặp như Anh Cả – Chị Cả, Anh Hai – Chị Hai, và hát về tình yêu và sự gắn bó. Quan họ hiện nay đã thay đổi, với sự xuất hiện của “Quan họ mới” với nhiều hình thức biểu diễn hơn, như hát đơn, đôi, tốp, và có cả múa phụ họa. Quan họ mới có khán thính giả và được trình diễn rộng rãi, khác với Quan họ truyền thống chỉ diễn ra trong các làng.
Quan họ truyền thống và Quan họ mới khác nhau về mục đích và hình thức. Quan họ truyền thống chủ yếu bảo tồn văn hóa, còn Quan họ mới tập trung vào tuyên truyền và quảng bá. Việc giới thiệu Quan họ ra thế giới là cần thiết để bảo tồn và phát huy giá trị của nó, và cũng để làm niềm tự hào cho nghệ thuật dân tộc. Ngày nay, Quan họ không chỉ tồn tại trong các làng mà còn được phát sóng trên các phương tiện truyền thông và trở thành phần của nền văn hóa Việt Nam và quốc tế.
8. Bài viết thuyết minh về hội thi hát đối đáp - mẫu 11
Đi khắp bốn phương trời
Chẳng nơi nào thanh lịch bằng người nơi đây
Chỉ hai câu thơ đơn giản đã bao hàm những lời lẽ đẹp đẽ về con người của vùng Quan họ. Không biết đó có phải là sự nhận xét tinh tế của người từ tỉnh khác về con người Bắc Ninh – Kinh Bắc, hay là sự tự hào của chính người dân Quan họ về quê hương yêu quý của mình.
“Trong sáu tỉnh người chưa rõ
Chỉ có Bắc Ninh trong năm thành
Yêu nhau trở lại tình xuân
Nghề chơi Quan họ mới hiểu tường tận”
(Dưới thời, ít người biết)
Trong các thể loại dân ca nổi bật, dân ca Quan họ Bắc Ninh được coi là một trong những loại hình dân ca đặc sắc và được yêu mến nhất. Điều này không chỉ được thể hiện qua những làn điệu ngọt ngào, sâu lắng và những ca từ giản dị nhưng tinh túy, mà còn nhờ vào nghề chơi Quan họ độc đáo, quyến rũ. Ngày xưa, người Quan họ không gọi là hát Quan họ mà gọi là chơi Quan họ, một thú chơi dân dã và tao nhã, nhưng lại có sức hút mạnh mẽ đối với người tham gia và người thưởng thức. Trong các canh hát, người Quan họ như say sưa, càng về khuya, canh hát càng trở nên trầm bổng, sâu lắng và nồng nàn.
Từ khi còn bé, những lời ru của bà, mẹ đã thấm đẫm chất Quan họ vào tâm hồn tôi, và mỗi ngày lớn lên, chất dân ca ấy lại càng thấm vào từng mạch máu và hơi thở của tôi. Càng nghiên cứu sâu vào các làn điệu và câu ca Quan họ cổ, tôi càng hình dung rõ ràng không gian Quan họ xưa, vừa bao la, mênh mông lại vừa gần gũi, bình dị. Trong sự mộc mạc, giản dị của dân ca Quan họ, ẩn chứa những nét thanh cao, kiêu sa đáng ngưỡng mộ. Có những câu ca giản dị nhưng đầy tình người:
“Dưới trời mấy người biết chơi
Chơi cho đất lở, trời mới biết
Chơi cho sông cạn lại đầy
Cho thuyền cập bến, cho mây gặp rồng
Chơi cho loan phượng sum vầy
Chơi cho nghĩa tình đôi ta”.
(Dưới trời, ít người biết chơi)
Có những câu ca sâu sắc, chứa đựng tâm tư đầy nỗi niềm mà khó có thể diễn tả hết:
“Sầu riêng em âm thầm lặng lẽ
Vui này để bù đắp nỗi đau xưa
Ai làm tâm héo dạ sầu
Em ngồi, em nghĩ càng thêm cay đắng.
Người về như chốn loan phòng
Em về thắp đèn chong canh dài”.
(Trống Rồng)
Những nỗi niềm gửi gắm, những hờn ghen, trách móc trong câu ca được bày tỏ một cách tế nhị và sâu sắc:
“Anh tư đã có nơi để em đợi mong
Chữ chung tình đã hẹn từ xưa”.
(Lòng vẫn đợi chờ)
Hoặc:
“Yêu hoa hãy giữ mãi màu sắc
Xin đừng chê xấu, chê xa
Chê em vụng dại, cửa nhà hiu quạnh
Trong làng cũng có nơi hơn
Trái duyên không thuận phải sang quê người”.
(Người ngoan)
Tất cả các làn điệu, các câu ca đều xoay quanh chủ đề tình yêu, nhưng làm sao để diễn tả cho đủ, cho hết; đó là một đề tài vô tận mà người Quan họ đã khai thác và sáng tạo ra loại hình dân ca quý giá này.
Lối chơi tao nhã, phóng khoáng nhưng khiêm nhường của người Quan họ càng làm nổi bật cốt cách của họ. Người Quan họ có những nét sinh hoạt văn hóa đặc trưng mà không nơi nào có được. Trong cuộc sống bận rộn hàng ngày, họ đã tạo ra một không gian đặc biệt, một thú chơi lôi cuốn mọi tầng lớp trong xã hội xưa đều muốn tham gia một cách tự nguyện và hết sức say mê.
Sau những giờ lao động mệt nhọc, họ lại tụ tập bên nhau để ca hát, sáng tác và biến tấu những câu ca mới. Họ cùng nhau hát canh Quan họ suốt đêm, từ đêm đến sáng; để tận hưởng niềm vui dân dã, niềm vui xóm làng, niềm vui bạn bè. Và khi chia tay, họ luôn luyến tiếc, không nỡ dứt ra để kết thúc.
Ngoài những lúc thư giãn và tham gia hoạt động văn hóa Quan họ, họ còn gần gũi, động viên và giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống khó khăn hàng ngày. Điều quan trọng là họ tuân thủ nghiêm ngặt những quy tắc của lối chơi Quan họ đã được thiết lập. Người Quan họ luôn chú trọng đến trang phục, giao tiếp và tất cả các hành vi ứng xử của mình. Những gì quê hương Quan họ đã khởi xướng và gìn giữ đến nay xứng đáng với thành quả mà họ đạt được.
Vì lý do đó, vào ngày 30 tháng 9 năm 2009, dân ca Quan họ Bắc Ninh đã được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Sau thời điểm đó, dân ca Quan họ Bắc Ninh đã đạt đến đỉnh cao về nhu cầu của cộng đồng người nghe cũng như những người mong muốn thể hiện những làn điệu dân ca Quan họ. Khắp trong và ngoài tỉnh, phong trào ca hát Quan họ rộn ràng. Nhiều nơi đã thành lập các câu lạc bộ Quan họ và có nhu cầu học hỏi về loại hình dân ca này.
Thật tự hào về nét văn hóa đặc sắc của quê hương và niềm tin trong tôi cũng như người dân nơi đây sẽ không bao giờ phai nhạt: Dân ca Quan họ Bắc Ninh sẽ mãi mãi trường tồn và lan tỏa.
9. Bài viết thuyết minh về hội thi hát đối đáp - mẫu 12
Miền quê Kinh Bắc xưa, hiện nay là Bắc Giang và Bắc Ninh, được chia cắt bởi dòng sông Cầu (sông Như Nguyệt). Bờ Nam thuộc tỉnh Bắc Ninh còn bờ Bắc là Bắc Giang. Cư dân ở hai bên sông nổi tiếng với những làn điệu dân ca Quan họ dịu dàng, mượt mà, những làng Quan họ cổ với phong cách truyền thống và tiêu chuẩn cao.
Khi bạn đến miền Bắc sông Cầu vào tháng Giêng, bạn sẽ không thể quên được hình ảnh những tà áo tứ thân, nón quai thao nhẹ nhàng xuất hiện bên cổng làng, con ngõ nhỏ, hay những ánh mắt lúng liếng trao gửi tình cảm e ấp của những chàng trai, cô gái trong mùa xuân. Những câu hát đầy cảm xúc đã chạm đến trái tim mọi người: “Làng Quan họ quê tôi, tháng Giêng mùa hát hội / Những đêm trăng hát gọi, con sông Cầu làng bao xanh”.
Để hiểu rõ hơn sự tinh tế và sâu lắng của người Quan họ, chúng ta phải đào sâu vào nguồn gốc văn hóa. Người dân đôi bờ sông Cầu luôn quan niệm rằng, để hát Quan họ thật sự “tinh mới tường”, tức là phải hát có sự hiểu biết, thanh cao và hát bằng cả trái tim, giữ gìn bản sắc truyền thống. Chính vì vậy, người Quan họ mới có câu: Xưa kia nam nữ trẻ già / Ai mà ca được ắt là hiển vinh / Ngẫm xem các giọng cho tinh / Ai mà ca được hiển vinh muôn đời.
Ở phía Bắc sông Cầu, những nghệ nhân cao tuổi vẫn say mê với câu hát và tự nguyện truyền dạy vốn văn hóa dân tộc cho thế hệ trẻ. Ví dụ như làng Trung Đồng, xã Vân Trung, làng Đình Cả, xã Quảng Minh hay Tam Tầng, xã Quang Châu (Việt Yên) đều có các câu lạc bộ Quan họ với những nghệ nhân trên 70 tuổi. Họ biết hát Quan họ từ khi “Răng non trắng tựa như ngà – Đến nay trơ lợi vẫn ca rõ nhời” và thuộc hàng trăm bài Quan họ cổ, “biết đủ lối, thuộc đủ câu”.
Tuy nhiên, trong cái chung vẫn có sự khác biệt. Quan họ truyền thống không có nhạc đệm, liền anh, liền chị chỉ hát “chay” nhưng vẫn thể hiện được tâm tư, nỗi lòng, sự da diết và khắc khoải của người Quan họ. Ở Bắc sông Cầu, có những làng Quan họ cổ với hoạt động độc đáo đến mức có thể gọi là “độc nhất vô nhị”. Như làng Thổ Hà – nơi duy nhất vẫn giữ được lối hát canh cổ truyền, với cảnh hát đón bạn trên sông Cầu mà không nơi nào khác có được. Nghệ nhân ở làng này thuộc vanh vách hàng trăm bài đối đáp cổ.
Từ bến đò Thổ Hà, du khách có thể cảm nhận được không gian mênh mông của sóng nước. Cảnh vật và con người nơi đây khiến nhiều người liên tưởng đến các làn điệu Quan họ cổ như Gọi đò, Ngồi tựa mạn thuyền, Giã bạn… ra đời từ chính không gian đó. Hay làng Trung Đồng có một số bài Quan họ cổ độc đáo, không chỉ khác về lời mà còn cả nhịp điệu chậm hơn. Nếu Quan họ có bài “Giã bạn” thì ở Trung Đồng có bài “Dặn bạn” hay một số bài Quan họ đặc biệt đã được người xưa đúc kết bằng thơ chỉ có ở đây:
“Vẳng nghe tiếng hát Trung Đồng
Phượng Hoàng cũng muốn sổ lồng mà ra”…
Nhạc sĩ tài hoa Phó Đức Phương từng viết: “Trên quê hương Quan họ, một làn nắng cũng mang điệu dân ca”. Đúng như vậy, chỉ khi hòa mình vào những canh hát Quan họ ở Kinh Bắc, chúng ta mới cảm nhận được sâu sắc dòng chảy văn hóa Quan họ suốt chiều dài lịch sử dân tộc.
Các làng Quan họ thuộc Bắc sông Cầu có tục kết chạ với các làng Quan họ ở tỉnh Bắc Ninh (Nam sông Cầu): Làng Thổ Hà kết chạ với làng Diềm; làng Trung Đồng kết chạ với Thượng Đồng và Hạ Đồng; làng Nội Ninh kết chạ với làng Hàn, Diềm; làng Mai Vũ kết chạ với Chấp Bút; làng Hữu Nghi kết chạ với Cao Lôi; làng Tiên Lát kết chạ với Bịu Sim… Chính nhờ mối kết chạ này, các nghệ nhân Quan họ từ hai bên có sự gắn bó, giao lưu và sáng tạo trong hoạt động văn hóa. Dân ca đã từ làng bước ra thế giới để trở thành di sản của nhân loại.
Bao đời nay, dân ca Quan họ đã và đang được các liền anh, liền chị đôi bờ gìn giữ và phát triển, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ đến hôm nay.
10. Bài thuyết minh về hội thi hát đối đáp - mẫu 1
Dân tộc Việt Nam sở hữu một kho tàng dân ca phong phú và lâu đời. Trong khi các sắc tộc khác trên lãnh thổ Việt Nam có múa kèm theo hát, người Kinh chủ yếu chỉ hát. Các thể loại dân ca như hát giao duyên, hát đối đáp giữa nam nữ được phổ biến khắp nơi. Từ Bắc vào Nam, có nhiều loại hát cho các hoạt động như hò cấy ngoài đồng, chèo thuyền, đập đá, và những công việc tập thể khác như hát phường vải. Các thể loại hát hội như Quan Họ và Trống Quân rất thịnh hành ở miền Bắc.
Tình yêu không chỉ xuất hiện trong dân ca trữ tình, mà còn trong các bài vịnh ca, anh hùng ca và các thể loại hát chọc ghẹo. Tình yêu nam nữ chiếm một phần quan trọng trong hát giao duyên. Một số nghiên cứu cho rằng dân ca đối đáp đã có từ nhiều thế kỷ, như Hát Quan Họ ở Bắc Ninh đã được nhắc đến từ thời nhà Lý (thế kỷ XI), khi các quan tướng tổ chức để chào mừng vua. Thời nhà Trần, cũng có tài liệu nhắc đến loại hát đối nam nữ và những nghệ nhân nổi tiếng về nghệ thuật âm nhạc.
Các bài hát trữ tình cũng xuất hiện trong nhiều thể loại khác: hò giã gạo miền Trung, hò miền Nam, hát nghi lễ và cả các hoạt cảnh múa hát như điệu Xin Hoa, Đố Chữ trong Hát Xoan, và điệu Tiên Cuội tỏ tình trong Tiên Cuội, v.v.
Từ giữa thế kỷ XX, nhiều nghiên cứu đã công bố các kết quả đáng chú ý về hát giao duyên, như “Quan Họ Bắc Ninh” do Nguyễn Văn Phú, Lưu Hữu Phước, Tú Viêm, Nguyễn Chung Anh biên soạn; “Hát Ví Nghệ Tĩnh” của Nguyễn Chung Anh; “Hát Giặm Nghệ Tĩnh” của Nguyễn Đổng Chi và Ninh Viết Giáo; “Dân ca Người Việt” của Tú Ngọc, v.v.
Có ba loại hát giao duyên hoặc trữ tình: loại gắn với tục lệ kết bạn, loại gắn với công việc làm, và loại gắn với đời sống hàng ngày. Hát giao duyên với tục lệ kết bạn như Hát Ghẹo (Phú Thọ) và Quan Họ (Bắc Ninh) chỉ có ở miền Bắc, thường diễn ra trong dịp hội hè, lễ Tết. Điều đặc biệt là hát chỉ xảy ra trong các nhóm làng có quan hệ kết bạn. Tục lệ này ở Hát Ghẹo còn gọi là “hát nước nghĩa”.
Hát Quan Họ là một loại hình âm nhạc dân gian đặc sắc của Việt Nam, tương đương với tranh dân gian làng Hồ (Hà Bắc), nghệ thuật xòe Thái (Tây Bắc), và khảm trai làng Ngô Xá (Hà Tây). Tương tự như Hát Ghẹo, Quan Họ có nhiều giọng điệu, yêu cầu người hát phải luyện tập công phu để sáng tạo ra giai điệu mới.
Trống Quân là một hình thức hát giao duyên rất phổ biến từ Thanh Hóa trở ra. Theo truyền thuyết, Trống Quân xuất hiện từ thời nhà Trần khi nhân dân chống giặc Nguyên. Binh sĩ chia làm hai bên vừa xướng vừa đối trong khi gõ trống thành nhịp điệu. Ngoài ra, còn nhiều loại hát giao duyên khác như Hát Ghẹo Thanh Hóa, Hát Ghẹo Long Xuyên, Trống Quân Phú Thọ, Trống Quân Đức Bắc, Trống Quân Hữu Bổ, và Hát Đúm Hải Dương.
Dù trải qua nhiều thăng trầm, ngày nay những hội thi hát đối đáp vẫn tồn tại và được gìn giữ. Trong tương lai, văn hóa này chắc chắn sẽ tiếp tục đồng hành cùng con người, tạo nét đẹp văn hóa riêng của xứ Kinh Bắc và toàn dân tộc Việt Nam.
11. Bài thuyết minh về hội thi hát đối đáp - mẫu 2
Việt Nam tự hào là 'đất nước ngàn năm văn hiến' với sự giao thoa của nhiều nền văn hóa. Dưới hàng nghìn năm Bắc thuộc và sự thống trị của thực dân Pháp, nền văn hóa của chúng ta đã tiếp nhận những giá trị mới nhưng vẫn giữ gìn được những tinh hoa dân tộc, tạo nên những loại hình nghệ thuật độc đáo, mang lại giá trị lớn cho văn hóa Việt. Dân ca Quan Họ Bắc Ninh là một trong những hình thức nghệ thuật nổi bật đó, với sức lan tỏa mạnh mẽ, làm lay động lòng người qua những câu hát giao duyên ngọt ngào và đậm đà bản sắc vùng Bắc.
Dân ca Quan Họ là điệu dân ca tiêu biểu của vùng đồng bằng sông Hồng miền Bắc, có nguồn gốc từ rất lâu ở vùng Kinh Bắc xưa, chủ yếu thuộc hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh, với con sông Cầu chảy qua. Theo các nhà nghiên cứu, Quan Họ có từ thế kỷ XVII, bắt nguồn từ tục kết chạ giữa các làng xóm. Tên gọi 'Quan Họ' được giải thích theo truyền thuyết là một ông quan khi qua Kinh Bắc đã say mê những câu hát ngọt ngào của các liền anh, liền chị và gọi đó là 'họ'. Tuy nhiên, có nhiều cách giải thích khác liên quan đến sinh hoạt văn hóa và chế độ thời bấy giờ.
Dân ca Quan Họ là hình thức hát giao duyên giữa nam và nữ, là cách trao đổi tâm tư, tình cảm giữa liền anh và liền chị. Họ sử dụng những câu hát tinh tế, giọng hát mượt mà để bày tỏ cảm xúc trong lòng mình. Các làn điệu Quan Họ truyền thống thường được hát vào mùa xuân và thu, khi làng trên, thôn dưới rộn ràng, làm xúc động lòng người yêu nghệ thuật. Quan Họ thường diễn ra dưới hình thức đối đáp giữa trai và gái, có thể trong cùng một làng hoặc khác làng, yêu cầu người hát phải sáng tạo lời để đối đáp, tạo nên sự hấp dẫn và không bị nhàm chán. Những câu hát có thể lấy từ thơ ca, ca dao với ý nghĩa sâu lắng. Quan Họ là thể loại nhạc trữ tình với cách hát và luyến láy được chăm chút kỹ lưỡng, âm điệu ngọt ngào như dòng sông Cầu - 'dòng sông Quan Họ'. Có ba hình thức hát Quan Họ phổ biến: hát canh, hát lễ hội và hát thi đấu, mỗi thể loại đều có nét đặc sắc riêng.
Trang phục cũng là một điểm nhấn quan trọng của nghệ thuật Dân ca Quan Họ. Các liền anh mặc áo dài mỏng màu tối, áo trắng bên trong, quần lĩnh trắng rộng rãi, đội khăn xếp, và có thể cầm quạt hoặc dù đen, thể hiện vẻ truyền thống của vùng Kinh Bắc. Các liền chị mặc áo mớ ba mớ bảy nhiều màu sắc như đỏ, vàng, xanh phối cùng thắt lưng hoa đào, khăn mỏ quạ, nón quai thao trắng, tạo vẻ duyên dáng, thướt tha. Những câu hát bay bổng, ngọt ngào kết hợp với trang phục đặc biệt làm tăng thêm vẻ đẹp của người hát giao duyên.
Quan Họ là một di sản văn hóa đặc sắc, vẫn được phát triển và gìn giữ đến ngày nay. Nó lưu giữ những vẻ đẹp truyền thống và được tiếp nối phát triển với những sáng tạo mới. Quan Họ là dòng nhạc dân ca trữ tình phong phú và đa dạng nhất ở Việt Nam, hiện lưu giữ khoảng 300 bài Quan Họ với các giai điệu khác nhau, và nhiều giai điệu chưa được ghi chép chính thức. Các làn điệu Quan Họ truyền thống bao gồm: Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, La hời, Tình tang. Quan Họ có ba chặng: mở đầu với giọng lề lối, giữa là giọng vặt, và cuối là giọng giã bạn. Làn điệu Quan Họ là những tiếng hát ngọt ngào, mềm mại, khiến người thưởng thức phải trầm trồ trước sức hút của loại dân ca truyền thống này.
Vào ngày 30 tháng 9 năm 2009, dân ca Quan Họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, là niềm tự hào và động lực để Quan Họ tiếp tục phát triển và gìn giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Ngày nay, Quan Họ không chỉ bó hẹp trong các làng xã mà đã lan tỏa khắp mọi miền đất nước, trở thành nét văn hóa đặc sắc và niềm tự hào của người dân Việt Nam.
Dân ca Quan Họ Bắc Ninh là tài sản vô giá của dân tộc, cần được bảo tồn, phát huy và truyền lại cho thế hệ sau. Mỗi người con đất Việt cần trân trọng và yêu quý những giá trị truyền thống tốt đẹp, để chúng tồn tại mãi với thời gian, không bị lãng quên trong nhịp sống hiện đại.
12. Bài văn thuyết minh về hội thi hát đối đáp - mẫu 3
Trong dòng chảy văn hóa và nghệ thuật âm nhạc dân gian từ xưa, giữa sự phong phú và đa dạng của các loại hình dân ca như chèo Thái Bình, Nam Định, chèo tàu Hà Tây, hát dặm Nghệ An, Hà Tĩnh, ca trù, ca Huế và dân ca Nam Bộ, có một dòng dân ca nổi bật, độc đáo, như:
“Cây trúc xinh tang tình là cây trúc mọc
Chị Hai xinh, tang tình là chị Hai đứng”…
Đó chính là dân ca Quan Họ vùng Kinh Bắc – Bắc Ninh.
Quan Họ không chỉ đơn thuần là một làn điệu, mà còn chứa đựng 'khí chất' của nhiều dòng dân ca khác: sự trong sáng, vui tươi của chèo; sự thổn thức, đằm thắm của hát dặm; sự sâu lắng của ca trù; sự mạnh mẽ, tươi vui của dân ca Nam Bộ. Nhưng trên hết, Quan Họ mang 'khí chất' riêng của nó, là linh hồn của xứ sở Quan Họ, là 'đặc sản' tinh thần của Kinh Bắc – Bắc Ninh.
Kinh Bắc, gần thủ đô và có diện tích nhỏ nhất cả nước với sáu huyện và thị xã, nhưng khát vọng trí tuệ, khát vọng sống của vùng đất này không hề nhỏ. Sách cổ từng ca ngợi: 'Kinh Bắc nổi tiếng văn nhã'. Đất Kinh Bắc là nơi hội tụ của nhiều nghề truyền thống: làng tranh Đông Hồ, làng giấy Đống Cao, làng chạm khắc Phù Khê, làng đồng Đại Bái, làng buôn Phù Lưu, cùng với hàng nghìn di tích lịch sử và danh thắng. Người Kinh Bắc nổi tiếng thông minh, tinh tế và từ các thời đại khác nhau, luôn đóng góp nhiều danh nhân và nhân tài. Các làng Kinh Bắc từ thế hệ này sang thế hệ khác gắn bó với nhau bằng tình làng nghĩa xóm, trong lao động chăm chỉ và khát vọng yêu thương, vượt qua khó khăn và thiên tai, 'thương người như thể thương thân', 'tứ hải giao tình' (bốn biển một nhà), như lời dân ca Quan Họ. Khát vọng sống của người Kinh Bắc đã được thể hiện qua những làn điệu Quan Họ kỳ diệu: 'lời giao duyên, tình anh em', vừa thực, vừa mơ, vừa giãi bày, vừa khúc chiết, vừa tình cảm, vừa sâu sắc.
Đến nay, các làng Quan Họ hầu hết nằm ở Bắc Ninh, với khoảng 49 làng được ghi nhận. Mạch sống của khúc nhạc và lời ca Quan Họ vẫn mãi không phai dù trải qua bao biến động thời gian. Hội làng Quan Họ vẫn là nguồn cảm hứng mùa xuân bất tận của xứ Kinh Bắc. Các hội làng kéo dài từ mùng 4 Tết âm lịch đến 28 tháng 3 âm lịch, đặc biệt nhất là Hội Lim ở huyện Tiên Sơn. Trong những ngày hội, nam thanh nữ tú từ khắp nơi tụ về, tham gia vào các hoạt động hội, thưởng thức các liền anh, liền chị hát đối đáp, hát canh, hát hội, hát mừng trong trang phục truyền thống.
Dân ca Quan Họ là tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam, cần được gìn giữ, trân trọng và truyền lại cho các thế hệ mai sau, cả trong nước và cộng đồng Việt Nam hải ngoại.