12 mẫu đoạn văn Nghị luận văn học lớp 9 tiêu biểu giúp các em phát triển kỹ năng viết đoạn văn nghị luận văn học một cách thành thạo, để chuẩn bị cho kỳ thi vào lớp 10 năm 2022 - 2023 với kết quả tốt đẹp.
Ngoài ra, các em còn có cơ hội nhận thêm nhiều ý tưởng mới, tích lũy kiến thức, và nắm vững phương pháp, giúp hoàn thiện đoạn văn nghị luận một cách xuất sắc. Mời các em tham khảo 12 mẫu đoạn văn nghị luận về các tác phẩm văn học như Viếng lăng Bác, Đoàn thuyền đánh cá, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Bếp lửa... Cũng như tìm hiểu cách chuyển ý, mở bài nghị luận văn học. Hãy tải về miễn phí:
Đoạn văn cảm nhận khổ 1 Viếng lăng Bác
Một lần từ miền Nam ra thăm lăng Bác
Bên ngoài lăng Bác, hàng tre mơ màng trong sương mù
Ngạt ngào hàng tre xanh của quê hương Việt Nam
Chịu trận bão giông, mưa sa rồi vẫn đứng vững như cột trụ.
Khổ thơ đầu tiên đã thể hiện một cách tuyệt vời những cảm xúc của tác giả khi đứng trước lăng Bác. Cách tả cảnh rất gần gũi, giản dị, nhưng lại chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Từ 'một lần từ miền Nam ra thăm lăng Bác' đã thể hiện được lòng kính trọng sâu sắc của tác giả đối với Bác. Hình ảnh hàng tre xanh mơ màng trong sương mù, ôi! hàng tre xanh xanh của Việt Nam đã tạo nên một bức tranh vô cùng sống động và sâu lắng. Câu thán ôi! đã thể hiện được sự kính trọng, tự hào của tác giả với quê hương và với lịch sử dân tộc. Hàng tre xanh thẳng hàng vẫn đứng vững giữa bão táp, mưa giông đã tạo nên một hình ảnh mạnh mẽ, bất khuất, tượng trưng cho tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam trong mọi khó khăn thách thức. Như thế, tác giả đã gửi gắm nhiều thông điệp ý nghĩa qua những từ ngữ đơn giản nhưng sâu sắc trong bài thơ.
Cảm nhận về khổ thơ thứ hai “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương
Đoạn thơ đã thể hiện rõ sự tôn trọng và lòng biết ơn của tác giả khi tham gia vào lễ viếng lăng Bác:
Mỗi ngày mặt trời lên trên lăng Bác
Chiếu sáng cho một mặt trời đỏ rực trong lăng
Mỗi ngày, hàng ngàn người đến với lòng thương nhớ
Hòa mình vào dòng người, dâng tràng hoa, bày tỏ lòng thành kính trong mùa xuân...
Hai dòng thơ đầu tiên với hình ảnh mặt trời thực và ẩn dụ sóng đôi với nhau đã thể hiện một cách xuất sắc những suy tư, cảm xúc của Viễn Phương về Bác. Một mặt trời tự nhiên, rực rỡ, vĩnh cửu mỗi ngày đi qua trên lăng và “Một mặt trời trong lăng rất đỏ“- hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ vĩ đại. Nếu vầng mặt trời kỳ vĩ trên cao là nguồn gốc của ánh sáng, sự sống trên trái đất thì Bác chính là mặt trời của dân tộc, mang lại ánh sáng, niềm vui, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Hình ảnh mặt trời tự nhiên được nhân hóa qua từ ngữ và nhìn thấy hàng ngày vầng mặt trời trong lăng với sự ngưỡng mộ và kính phục đã mạnh mẽ thể hiện vị trí, vai trò của Bác trong lòng dân tộc. Màu đỏ “rực rỡ” tạo nên hình ảnh đẹp ấn tượng hơn, nói lên tư tưởng cách mạng và lòng yêu nước mãnh liệt của Bác. Cụm từ “ngày ngày” không chỉ gợi ấn tượng về cõi sống vĩnh cửu mà còn gợi lên tâm hồn nhân dân không nguôi nhớ Bác, người cha già yêu quý của dân tộc. Hòa nhập vào “dòng người” đến viếng Bác, nhà thơ cảm thấy xúc động, thành kính và trang trọng. Dòng người đông đúc, giống như một “tràng hoa” ngàn màu ngàn hương từ mọi nơi về đây viếng Bác. Hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa” rất đẹp, nó giống như muốn nói mỗi người dân Việt Nam như một đóa hoa đang nở rộ dưới ánh sáng của Bác đã đến đây dâng Người những gì tinh túy nhất của cuộc đời, lời thơ diễn tả tấm lòng biết ơn, sự kính trọng của nhân dân đối với Bác Hồ vĩ đại. Từ “dâng” mang theo biết bao tình cảm, tình nghĩa. Nhà thơ không nói “bảy chín tuổi” mà nói: bảy mươi chín mùa xuân, cách diễn đạt ẩn dụ gợi ý về cuộc đời Bác đẹp như những mùa xuân, Bác đã mang đến mùa xuân cho đất nước, cho cuộc đời. Lời thơ chân thành, giản dị đã bộc lộ nhiều tình cảm yêu mến, nhớ thương của Viễn Phương và cũng là của nhân dân miền Nam với Bác.
Cảm nhận về khổ thơ thứ ba “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Khổ thơ thứ ba đã mô tả cảm xúc của tác giả khi vào lăng, đứng trước di hài của Bác. Nhiều cảm xúc đã bùng nổ sau thời gian dài gặp bóng hình thân thương: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên / Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền” . Ánh sáng nhẹ nhàng trong lăng khiến tác giả tưởng tượng đó là ánh trăng của thiên nhiên là tri kỉ tri âm của Bác. Bác như đang ngủ một giấc ngủ “bình yên“, trong một khung cảnh đẹp đẽ, Bác chỉ tạm nghỉ sau một chặng đường dài và gian khổ. Lời thơ lại một lần nữa như nén nỗi đau để khẳng định rằng Bác vẫn còn sống mãi. Bác luôn yêu trăng, trăng là bạn đồng hành của Bác vào trong cuộc đời, trăng theo Bác lên đường ra chiến dịch và trăng lại về đây để canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Hình ảnh vầng trăng sáng dịu hiền bao bọc giấc ngủ của Bác đã gợi cho ta cảm nhận về vẻ đẹp thanh cao, giản dị của Bác, một tâm hồn luôn yêu và gắn bó với thiên nhiên. Nhìn “Bác ngủ “, nhà thơ đau đớn, xúc động “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi / Nhưng lòng lại đau đớn nhói như thế nào! ” . Trong trái tim đầy yêu thương, tôn trọng và biết ơn của mọi người, Bác như còn sống mãi nhưng lí trí thì lại phải tỉnh táo để nhận thức rằng Bác đã đi xa. Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” như muốn nói Bác đã vĩnh viễn hóa thân vào bầu trời của dân tộc, sự nghiệp của Người mãi mãi vang vọng với non sông thế nhưng nỗi đau vẫn không dừng lại. Cụm từ “đau đớn nhói” đã diễn tả sự đau đớn, tiếc thương đến cực độ, nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác gợi hình dung nỗi đau không chỉ cảm được mà còn nghe thấy được, nỗi đau như giằng xé, day dứt khôn nguôi. Lời thơ tựa như tiếng khóc nghẹn ngào của đứa con xa về muộn bên di hài người cha kính yêu.
Cảm nhận về khổ thơ cuối bài “Viếng lăng Bác”
Mai quay về miền Nam lòng trào nước mắt
Ước ao làm con chim hót quanh lăng Bác
Ước muốn trở thành đóa hoa toả hương đâu đây
Ước ao trở thành cây tre trung hiếu bên này.
Khổ thơ cuối thể hiện niềm lưu luyến, bi thương của nhà thơ khi phải trở về miền Nam. Khi phải chia tay, trong lòng trào dâng nước mắt và xúc động: “Mai quay về miền Nam lòng trào nước mắt”. “Mai quay về miền Nam” – tại thời điểm hiện tại, suy nghĩ về việc chia xa, nỗi nhớ thương tràn ngập, không thể kìm nén. Câu thơ giống như một lời tạm biệt, cụm từ “lòng trào nước mắt” thể hiện sự xúc động sâu sắc của nhà thơ, nước mắt là biểu hiện của tình cảm, của khao khát được ở lại bên Người, của niềm nhớ thương của đứa con về thăm cha muộn màng nhưng sâu sắc biết bao. Dù lưu luyến, muốn ở lại bên Bác nhưng đã đến lúc phải quay về miền Nam, nhà thơ chỉ có thể gửi tâm hồn ở lại bằng cách hóa thân vào cảnh vật xung quanh lăng Bác. Nhà thơ mong muốn hóa thân thành “con chim hót” để mang lại chút niềm vui cho Người, muốn làm “đóa hoa” tỏa hương khắp nơi nơi Người nghỉ ngơi và đặc biệt, muốn làm “cây tre trung hiếu” để góp phần bảo vệ giấc ngủ yên bình cho Người. Điệp ngữ muốn làm và các hình ảnh đã tạo nên một bức tranh thơ động, diễn tả tình cảm sâu lắng, khát vọng mãnh liệt và ước nguyện chân thành của nhà thơ cũng như của toàn bộ dân tộc Việt Nam đối với Bác. Một lần nữa, hình ảnh cây tre được sử dụng tạo nên kết cấu tương đồng đầu-cuối mang đến một ý thơ mới mẻ: cây tre trung hiếu là biểu tượng cho tình yêu thương và lòng trung thành của dân tộc Việt Nam với lý tưởng của Người. Kết thúc bài thơ là sự xa cách về mặt địa lý nhưng lại gần gũi về tinh thần và tình cảm, bài thơ từ đây kết thúc nhưng tâm sự của nhà thơ lại bay cao, một nỗi nhớ không dứt, những niềm ước mong về cuộc đời mình để xứng đáng với nhân cách khiêm nhường và vĩ đại của Người. Đó cũng là lòng biết ơn của hàng triệu trái tim Việt Nam dành cho Bác.
Cảm nhận về hình ảnh của người lao động trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”
“Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là một bức tranh tuyệt đẹp về con người lao động trẻ trung, khỏe mạnh giữa thiên nhiên kỳ ảo. Khi thiên nhiên bước vào giấc ngủ với “mặt trời lặn biển”, “sóng vờn lồi, đêm buông xuống” thì con người lại bắt đầu công việc của mình – ra khơi đánh cá. Đó là công việc hằng ngày, đã trở thành thói quen của người dân chài. Trên con thuyền ra khơi, họ vang lên âm nhạc của tiếng hát hào hùng và sôi nổi“Tiếng hát kéo theo cánh buồm chạy”, tiếng hát như có sức mạnh thổi bùng cánh buồm đẩy con thuyền chạy nhanh ra khơi, hình ảnh này thực sự đẹp đã diễn đạt niềm vui và sự hăng say của công việc lao động của những người dân chài. Trong bầu không gian bao la của trời nước, con người hiện lên với niềm vui phơi phới, khỏe mạnh trong tư thế chủ động, làm chủ cuộc sống, làm chủ quê hương, đất nước: “Thuyền ta hướng gió với buồm trăng/Lướt giữa mây cao với biển mênh mông”. Sử dụng gió làm lái, sử dụng trăng làm buồm, và giữa không gian bao la vô cùng đó, trên cao có “mây cao”, dưới đáy có “biển mênh mông”, cả đoàn thuyền “lướt” ra khơi xa để tìm kiếm cá, để mở lưới đón cá. Dù vũ trụ bao la vô tận, nhưng con người không cảm thấy nhỏ bé mà ngược lại, họ tự hào nâng bản thân lên ngang tầm với thiên nhiên, vũ trụ trong tư thế chiến thắng. Hình ảnh người dân chài không được mô tả chi tiết trong bài thơ, chỉ có một hình ảnh duy nhất để miêu tả họ, trong dáng vẻ người lao động : “Chúng ta cưới câu với tay xắn áo”. Chỉ với một hình ảnh đó, ta đã có thể hình dung được vẻ đẹp mạnh mẽ, khỏe mạnh, ăn nói cứng rắn của người dân chài. Trong suốt hành trình ra khơi, tiếng hát phấn chấn, tràn đầy lạc quan vẫn không ngừng vang lên, hát khi ra khơi, trong lao động và cả khi vui mừng trở về, tiếng hát vang lên, khỏe mạnh trở thành hình ảnh tượng trưng cho niềm vui, sự hăng say, yêu đời của người lao động, tiếng hát giúp cho công việc lao động nặng nhọc trở nên dễ dàng và đầy ý nghĩa. Sau một đêm làm việc vất vả, họ vẫn giữ được tinh thần nhiệt huyết, hăng say: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Một hình ảnh thơ đẹp và ý nghĩa, “chạy đua cùng mặt trời” cũng có nghĩa là họ tiếp tục đua đòi cùng với thiên nhiên, với thời gian để làm giàu cho Tổ quốc. Hình ảnh người dân chài hiện lên thật đẹp, họ là đại diện cho vẻ đẹp của người lao động thời đại mới trong tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống, bài thơ là bài hát ca về người lao động.
Cảm nhận về hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”
“Đoàn thuyền đánh cá” không chỉ mô tả thành công hình ảnh của người lao động mà còn vẽ lên một bức tranh về biển Hạ Long hùng vĩ, tráng lệ và đầy màu sắc, tươi sáng. Đầu bài thơ là một cảnh tượng đẹp, ấn tượng về biển Hạ Long khi hoàng hôn buông xuống: “Mặt trời xuống biển như một viên lửa – Sóng đã cài then đêm sập cửa”. So sánh “mặt trời” với “một viên lửa” đã tạo ra nhiều tưởng tượng cho người đọc, sắc đỏ của mặt trời hòa quyện với màu xanh của biển tạo nên một gam màu rực rỡ cho bức tranh, mở ra một khung cảnh huy hoàng và tráng lệ. Tác giả sử dụng những từ “cài”, “sập” để biến những con sóng thành chiếc then cài, màn đêm như một cánh cửa để đóng lại ngôi nhà vũ trụ, từ đó, biển trở nên thân quen và gần gũi hơn với con người. Dưới ánh trăng, biển trở nên lung linh và huyền ảo, biển Hạ Long trong đêm trở nên đẹp đẽ: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng/ Lướt giữa mây cao với biển bằng”, những hình ảnh của thiên nhiên hiện lên rõ ràng, biển khơi mênh mông, có gió thổi lồng lộng, ánh sáng trăng lóe lên, mây trôi bên trên, mặt biển biếc xanh sâu thẳm. Vẻ đẹp của biển được tô điểm bởi sắc màu của các loài cá: chim, thu, nhụ, đé, song. Hình ảnh “Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” và “Cái đuôi quẫy trăng vàng chóe” thể hiện sự giàu tưởng tượng của tác giả khiến biển đêm trở nên lung linh, rực rỡ. Màn đêm trên biển được miêu tả đặc biệt “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”, màn đêm như một sinh thể khổng lồ, tiếng thở của đêm là tiếng sóng – một hình ảnh độc đáo, sóng biển lùa bóng sao dưới mặt nước nhưng dưới con mắt của tác giả, đó là sao đang lùa sóng nước Hạ Long. Bình minh lên, vẻ đẹp của biển trở nên rõ ràng hơn dưới ánh mặt trời, cá trong khoang thuyền “Vẩy bạc, đuôi vàng lóe rạng đông” tạo ra một khung cảnh đẹp, hùng vĩ dưới ánh sáng của mặt trời, mắt cá tựa như hàng triệu mặt trời nhỏ li ti, lấp lánh; thành quả lao động trở nên rực rỡ, huy hoàng. Bằng cách kết hợp lãng mạn với hiện thực, tác giả đã thành công trong việc mô tả bức tranh về thiên nhiên, những hình ảnh thiên nhiên hiện ra vừa bình dị vừa đẹp tươi thơ mộng, chắc chắn chỉ có một tâm hồn nhạy cảm, một tình yêu thiên nhiên sâu sắc, mới có thể sáng tạo ra những dòng thơ tuyệt vời như vậy.
Đoạn văn phân tích sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động trong “Đoàn thuyền đánh cá”
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận đã thể hiện sự hòa quyện tuyệt vời giữa thiên nhiên và con người lao động trong thời đại mới. Bức tranh mở đầu với cảnh thuyền ra khơi đánh cá vào hoàng hôn, biển Hạ Long lung linh, huyền ảo, tráng lệ: “Mặt trời xuống biển như lửa – Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. Sử dụng so sánh táo bạo, thú vị, như mặt trời như một viên lửa rực cháy, sóng dài như những then cài, đêm tối như hai cánh cửa vĩ đại đang sập lại đã biến vũ trụ thiên nhiên thành ngôi nhà to lớn mà tạo hóa ban tặng cho con người. Từ đó, tác giả đã tạo nên một hình ảnh mới mẻ, lạ mắt từ sự gắn kết ba yếu tố: cánh buồm, gió khơi và tiếng hát của người đánh cá “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Câu hát là niềm vui, sự phấn chấn của người lao động như đã có một sức mạnh vật chất để cùng với gió làm căng buồm cho con thuyền lướt nhanh ra khơi, bắt đầu công việc đánh cá không ít khó khăn vất vả. Đó chính là tinh thần hăm hở, hào hứng của những con người yêu biển, yêu nghề. Cảm hứng lãng mạn khiến nhà thơ khám phá vẻ đẹp của cảnh đánh cá giữa đêm trên biển, trong niềm vui phơi phới, sức mạnh của người lao động làm chủ công việc của mình. Con thuyền đánh cá trên biển cả bao la giờ đây qua cái nhìn của nhà thơ trở nên lớn lao, kì vĩ và ngang tầm với vũ trụ: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng – Lướt giữa mây cao với biển bằng”, một con thuyền đặc biệt với gió là người cầm lái, trăng là cánh buồm, tạo ra sự nhịp nhàng, hòa quyện của đoàn thuyền với biển trời. Tầm vóc của con người và con thuyền được nâng lên, hòa nhập vào kích thước của thiên nhiên, vũ trụ, hình ảnh thơ đẹp mắt, lãng mạn, con người có tâm hồn vui vẻ, phơi phới niềm vui. Nhưng đây không phải là một cuộc du ngoạn bằng thuyền mà là một cuộc chiến đấu thực sự, “dàn đan thế trận” để giành lấy từ bàn tay thiên nhiên những của cải, tài nguyên bằng tất cả sức lực, trí tuệ của con người. Công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá đã trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên. Màu cá trong đêm trăng dưới nước “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”, sắc cá dưới khoang thuyền dưới ánh mặt trời “Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông” đã tạo cho bức tranh thiên nhiên những nét vẽ đẹp, những gam màu tươi sáng, lộng lẫy đến kỳ lạ. Nhà thơ ca ngợi biển cả mênh mông – nguồn tài nguyên bất tận của Tổ quốc, ca ngợi những con người lao động cần cù, gan góc, ngày đêm làm giàu cho đất nước. Công việc lao động đánh cá của ngư dân Quảng Ninh trên biển Hạ Long được miêu tả trong sự thống nhất hòa quyện với thiên nhiên trời biển, trăng sao bát ngát, kì vĩ và bay bổng. Cảm hứng thiên nhiên, vũ trụ hòa hợp với cảm hứng lao động đã tạo nên vẻ đẹp riêng của bài thơ.
Đoạn văn cảm nhận về khổ 3 Đoàn thuyền đánh cá
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Đoạn trích trên được trích trong văn bản “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận – một nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới, đoạn thơ đã rất thành công trong việc thể hiện hình ảnh con thuyền ra khơi. Hình ảnh con thuyền ra khơi được miêu tả trong một hình ảnh thơ thật đẹp, thật lãng mạn: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng; Lướt giữa mây cao với biển bằng”. Con thuyền không chạy bằng sức mạnh của con người” phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang” như thơ Tế Hanh mà hoàn toàn do thiên nhiên trợ giúp. Hình ảnh ẩn dụ, cách nói phóng đại “lái gió, buồm trăng”, nhà thơ tưởng tượng gió là bánh lái, trăng là buồm, gió lái thuyền đi, thuyền đầy trăng sáng. Động từ “lướt” diễn tả tốc độ nhẹ nhàng thênh thang của đoàn thuyền giữa làn mây cao với mặt biển hiền hòa. Ta tưởng như cả đoàn thuyền trở thành mạch nối liền với thiên nhiên. Cả thiên nhiên là gió, trăng, mây, biển quay xung quanh con thuyền, đoàn thuyền là trung tâm, là linh hồn của đêm biển Hạ Long. Hệ thống các động từ: “lái”, “lướt”, “dò”, “dàn” cho thấy hoạt động của đoàn thuyền và con thuyền đang làm chủ biển trời. Huy Cận đã phóng đại con người, lớn ngang tầm với thiên nhiên, vũ trụ và trong tư thế làm chủ thiên nhiên vũ trụ. Hình ảnh con thuyền chính là hình ảnh những người lao động. Chỉ vài nét chấm phá, Huy Cận đã biến con người trở thành những nhà thám hiểm đại dương, những con thuyền của họ ra khơi không phải đi đánh cá mà là để dò bụng biển(câu ghép). Trước con người lao động, biển khơi mênh mông là thế nhưng cũng hẹp lòng lại để con người chủ động thăm dò, khám phá. Sau khi thăm dò luồng cá, họ bắt đầu bước vào công việc lao động cũng bề thế như bước vào trận chiến “Dàn đan thế trận lưới vây giăng”. Với Huy Cận, dường như lao động cũng là một mặt trận, mà ở đó mỗi người ngư dân là một chiến sĩ, ngư cụ là vũ khí. Tóm lại, hình ảnh đoàn thuyền đánh cá được Huy Cận miêu tả cụ thể và rất sinh động khi đánh cá trên biển.
Đoạn văn cảm nhận khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Vẻ đẹp của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn với ý chí quyết tâm giải phóng Miền Nam đã được thể hiện một cách tuyệt vời trong khổ thơ cuối của Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Hình ảnh của chiếc xe bị phá hủy bởi bom Mĩ đã tái hiện thêm lần nữa bức tranh về người chiến sĩ lái xe dũng cảm: Không có kính, rồi xe không có đèn – Không có mui xe, thùng xe có xước. Chiến tranh trở nên ngày càng tàn khốc, những chiếc xe “từ trong bom rơi” cũng ngày một hỏng hóc nhiều hơn. Sự phủ định được nhấn mạnh ba lần kết hợp với các hình ảnh kính, đèn, mui xe, thùng xe như làm tăng thêm sự tàn phá của chiến tranh. Câu cuối “xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước” phần nào lột tả được ý chí chiến đấu vì miền Nam của những người lái xe quả cảm. Dù gặp phải nguy hiểm và khó khăn, họ vẫn không ngần ngại tiến lên. Câu cuối cũng giải thích tại sao chiếc xe vẫn có thể tiếp tục chạy dù bị hỏng hóc: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Trái tim đó là biểu tượng của sự hy sinh và quyết tâm vượt qua mọi khó khăn vì miền Nam, vì Tổ quốc. Trái tim là biểu tượng của người lính và cũng là biểu tượng của lòng yêu nước, sẵn sàng hy sinh cho nhiệm vụ cao cả với đất nước.
Đoạn văn cảm nhận 2 khổ đầu Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái
Đoạn thơ trích trong văn bản “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của tác giả Phạm Tiến Duật, viết vào năm 1969, đã thành công trong việc miêu tả tinh thần của người lính lái xe Trường Sơn: tự tin, kiên định, sẵn sàng ra trận. Cách sử dụng từ ngữ ngược đã tạo ra sự khác biệt đặc biệt, gợi lên sự điềm đạm, bền bỉ của người lính. 'Nhìn thẳng' đại diện cho tư duy tự do, quyết đoán, không sợ hãi, không chùn bước trước khó khăn, hy sinh. Sự lặp lại của từ 'nhìn' cùng với nhịp thơ mạnh mẽ đã thể hiện sự rõ ràng, rộng lớn của cái nhìn của người lính giữa chiến trường. Cách sắp xếp “nhìn đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng” đã thể hiện tư thế kiên định, bình tĩnh, dũng cảm của những người lính lái xe. Họ nhìn thẳng vào mặt bom của đối thủ, nhìn thẳng vào con đường đang bị đạn pháo tấn công để lái xe qua. Tư thế tự tin, dũng mãnh của người lính lái xe ra trận được mô tả thêm thông qua hình ảnh hòa nhập với thiên nhiên. Tác giả đã mở ra một bức tranh lớn với những con đường dài phía trước, có gió thổi, có chim hót và những vì sao lấp lánh. Dường như thiên nhiên, vũ trụ như đang vào buồng lái. Sự sử dụng từ ngữ và cách biểu đạt 'nhìn thấy … nhìn thấy … thấy' đã phản ánh được cuộc di chuyển của tiểu đội xe không kính khi họ tiến vào chiến trường. Hình ảnh nhân hóa để tả cảm giác “vào xoa mắt đắng”, thể hiện tinh thần dũng cảm, không sợ khó khăn của người lính lái xe. Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim”: Gợi liên tưởng đến những chiếc xe lao với tốc độ nhanh như bay. Lúc đó, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, khiến các anh có cảm giác con đường như đang lao thẳng vào tim. Đồng thời, cho thấy tinh thần nhanh nhẹn, nhiệt huyết của các anh với sự nghiệp giải phóng Miền Nam. Đặc biệt, hình ảnh so sánh “như sa, như ùa vào buồng lái” đã mô tả một cách thành công về tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính khi ra trận. Cả một bầu trời đêm như đang ùa vào buồng lái. Có thể nói, hiện thực chiến trường trong đoạn thơ trên đã chính xác đến từng chi tiết, và phản ánh tâm trạng, tư thế, bản lĩnh chiến đấu tự tin, kiên định của người lính trước những khó khăn, thử thách.
Đoạn văn cảm nhận về khổ 3, 4 Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phủ trắng tóc như người già
Chưa cần giặt, nhâm nhi điếu thuốc
Mặt cười với nhau mặc mặt lấm.
Không có kính, ừ thì áo ướt
Mưa xối xả, mưa rơi như bão
Chưa cần đổi, lái hàng trăm dặm nữa
Mưa dừng, gió khô nhanh chóng thôi.
Hai khổ thơ trên được trích từ văn bản “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của tác giả Phạm Tiến Duật, viết vào năm 1969, đã thành công trong việc thể hiện tinh thần bất khuất, coi thường gian khó, nguy nan của những người lính lái xe. Các khó khăn, nguy hiểm đã trở thành cuộc sống hàng ngày của những người lính lái xe Trường Sơn. Dù ở bất kỳ hoàn cảnh, tình thế nào, những người lính vẫn có thể tìm ra niềm vui, sự lạc quan để tiến vào cuộc chiến và chiến thắng đối thủ. Hình ảnh của “gió”, “bụi”, “mưa” tượng trưng cho những khó khăn, thử thách trên chiến trường. Cấu trúc lặp lại: “không có …, ừ thì…” đi kèm với cấu trúc phủ định “chưa có …” trong hai khổ thơ đã thể hiện thái độ bất khuất, coi thường gian khó của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Hình ảnh so sánh: “Bụi phủ trắng tóc như người già” và “Mưa xối xả, mưa rơi như bão” nhấn mạnh sự nghiệt ngã của thiên nhiên và chiến trường, đồng thời thể hiện sự gan dạ, lạc quan của những người lính lái xe Trường Sơn. Hình ảnh “nhâm nhi điếu thuốc” và “lái hàng trăm dặm nữa” cho thấy sự kiên trì, bất chấp gian khó, thử thách của những người lính. Ngôn ngữ giản dị như lời nói hàng ngày, giọng điệu thản nhiên, vui vẻ … làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của những người lính, phản ánh một cách tự nhiên giữa gian khó, hiểm nguy của cuộc chiến đấu. Có thể nói, tiểu đội xe không kính đã trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và thanh niên Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy oai hùng?
Đoạn văn làm rõ chủ đề: “Bà là người khơi lửa, truyền lửa và giữ lửa”
Bà là người khơi lửa, truyền lửa và giữ lửa. “Lửa” ở đây không chỉ là ngọn lửa thực mà còn mang nghĩa biểu tượng: lửa của tình thương, hy vọng, niềm tin,… Bà là người khơi lên ngọn lửa về tuổi thơ đẹp nhất cho cháu. Dù tuổi thơ trải qua những gian khổ, nhưng cháu vẫn hạnh phúc vì được sống trong tình thương của bà, trong sự chia sẻ, lòng nồng ấm của làng xóm. Bên bếp lửa ấm áp của bà, cháu nghe bà kể chuyện đời, được bà dạy bảo, chăm sóc tận tụy. Bên bếp lửa đó, cháu cảm nhận được tình thương của bà qua “khoai sắn ngọt bùi”, cảm nhận tình thân của làng xóm qua “nồi xôi gạo mới xẻ chung vui” và hơn hết, bà đã khơi lên những “ký ức tuổi thơ” trong cháu, những kỷ niệm đẹp có sức mạnh và sự tươi sáng trong mỗi cuộc hành trình của cuộc sống. Bà không chỉ khơi lên lửa mà còn giữ lửa. Ngọn lửa của tình thương, niềm tin không bao giờ tắt trong lòng bà dù cuộc sống có cứng nhắc, khó khăn đến đâu. Thời gian trôi qua, những năm tháng khó khăn cũng qua đi, cháu lớn lên nhưng “bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”, vẫn làm việc chăm chỉ. Ngọn lửa của tình thương, hy vọng vào ngày mai vẫn luôn cháy sáng trong lòng bà. Trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, ngọn lửa ấy luôn tỏa sáng trong lòng bà để trở thành nguồn động viên vượt qua mọi thử thách, như một tia sáng cuối đường hầm, cho mọi người có niềm tin, chiến thắng khó khăn. Bà khơi lên lửa, giữ lửa và còn truyền ngọn lửa sáng cháy đó cho cháu. Ngọn lửa tình thương của bà giúp cháu học cách sống yêu thương, trung thành và tình nghĩa; ngọn lửa niềm tin trong lòng bà đã truyền cho cháu tinh thần lạc quan và ước mơ sáng sủa của ngày mai, giúp cháu vượt qua khó khăn, khắc nghiệt. Nhờ ngọn lửa tình thương và niềm tin của bà, cháu có thêm nghị lực, thêm ý chí để thực hiện ước mơ, tự tin bước đi trên con đường rộng mở của cuộc đời. Bà đặt vào tâm hồn cháu những kỷ niệm đẹp của tuổi thơ, để khi đi xa, cháu vẫn nhớ về bà và bếp lửa ấm áp. Bà chính là biểu tượng của tình thương, hy sinh, của bản lĩnh và nghị lực mạnh mẽ, những tình cảm ấm áp bên bà là nguồn động viên tinh thần cho cháu trên con đường cuộc sống.