1. Mẫu bài văn phân tích bài thơ 'Chiều tối' số 4
'Nhật ký trong tù' của Hồ Chí Minh được sáng tác từ ngày 2/8/1942 đến ngày 10/9/1943 khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ mà không có lý do, lưu đày qua nhiều nhà lao ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trong tổng số 133 bài thơ của 'Nhật ký trong tù', có nhiều bài phản ánh những khoảnh khắc đáng nhớ trong một ngày: Buổi sáng, Buổi trưa, Quá trưa, Chiều, Chiều tối, Hoàng hôn, Nửa đêm... Mỗi bài thơ như một nỗi niềm trong những tháng ngày đầy khổ cực.
Bài thơ 'Chiều tối' (Mộ) là một bài thất ngôn tứ tuyệt thứ 31 trong 'Nhật ký trong tù'. Bài thơ số 32 là 'Đêm ngủ ở Long Tuyền'. Bài 'Chiều tối' ghi lại cảnh xóm núi khi ngày tàn trên con đường từ Thiên Bảo đến Long Tuyền vào tháng 10/1942.
Đây là nguyên tác bài thơ:
'Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không,
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng''.
Bài thơ mở ra một cái nhìn mơ màng, một niềm mơ ước thầm lặng về một mái ấm, một nơi dừng chân trên con đường lưu đày dài đằng đẵng. Hai câu đầu tả bầu trời khi ngày tàn với cánh chim mệt mỏi bay về rừng tìm nơi trú ẩn và áng mây đơn độc lững lờ trôi. Cảnh sắc hiện lên thật tinh tế, phản ánh tâm trạng của người chiến sĩ bị lưu đày. Câu dịch của Nam Trân mặc dù chưa thể hiện hết chữ 'cô' trong 'cô vân' nhưng cũng rất hay:
'Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không'.
Hai câu thơ đầu mang đậm vẻ đẹp cổ điển: ít mà gợi nhiều, chỉ với hai nét phác họa (chim bay, mây trôi) mà gợi lên không khí của cảnh vật, khi màn đêm buông xuống, làm cho cảnh vật như đang chuyển sang trạng thái nghỉ ngơi. Nghệ thuật lấy điểm để vẽ diện, lấy động để tả tĩnh được vận dụng sáng tạo. Nhìn chim bay, mây trôi mà cảm nhận bầu trời bao la, cảnh chiều tối trở nên êm ả và tĩnh lặng hơn. Cảnh chiều tối ở xóm núi còn mang tính chất ước lệ, mở rộng liên tưởng và cảm xúc thẩm mỹ trong tâm hồn chúng ta, gợi nhớ đến cánh chim trong 'Truyện Kiều': 'Chim hôm thoi thót về rừng'; hay cánh chim bay mỏi và hình ảnh người lữ thứ trong chiều sương lạnh nhớ nhà:
'Ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa, khách bước dồn
(Chiều hôm nhớ nhà)
Trở lại bài 'Chiều tối', áng mây cô đơn lẻ loi đang trôi nhẹ trên bầu trời như một hình ảnh ẩn dụ về người lưu đày trên con đường khổ ải xa xôi! Ngôn ngữ thơ hàm súc và biểu cảm, vừa tả cảnh vừa tả tình, nhẹ nhàng mà sâu lắng.
Tiếp theo, từ cảnh bầu trời, tác giả chuyển sang mô tả cuộc sống con người nơi núi. Thiếu nữ và lò than hồng là trung tâm của bức tranh này:
'Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng'.
Bức tranh vẽ một thiếu nữ xóm núi đang xay ngô với sự cần mẫn, đáng yêu. Ba chữ 'ma bao túc' ở câu ba được nhắc lại ở đầu câu bốn, thể hiện sự nhịp nhàng trong động tác xay ngô, phản ánh đức tính cần cù của thiếu nữ. Nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn làm cho thơ liền mạch và có nhạc điệu. Câu dịch 'Cô em xóm núi xay ngô tối' với từ 'cô em' không phù hợp với phong cách thơ Hồ Chí Minh; chữ 'tối' thêm vào làm cho ý thơ không còn được giấu kín như trong bản chữ Hán.
Sự vật nối tiếp theo dòng chảy thời gian: Khi ngô xay xong, lò than đã đỏ rực lên, tạo ra sự ấm áp trong màn đêm. Cảnh vật thu hút tâm trí người tù đang bị giải đi. Cảnh bếp lạnh tro tàn và ngọn đèn sáng trong đêm lạnh gợi cảm giác ấm áp và xua tan nỗi cô đơn. Hình ảnh thiếu nữ xay ngô và lò than rực hồng tượng trưng cho mái ấm gia đình, làm vơi đi nỗi cô đơn.
Trong cảnh sinh hoạt bình dị của thiếu nữ xay ngô và lò than, khi đang bị xiềng xích và giải đi trong chiều tối, Bác tìm thấy nơi nương tựa cho tâm hồn mình. Một nỗi cô đơn, lẻ loi và lạnh lẽo dường như được xua tan. Một ước mơ thầm kín về mái ấm gia đình đã đến với nhà thơ trong đêm tối. Cảm hứng thơ chứa đựng chất nhân bản, cái bình dị mà đầy chất thơ. Chất thơ ấy là hồn người và tình người, hòa quyện giữa cổ điển và hiện đại.
Các bài thơ khác cho thấy, trên con đường khổ ải, người chiến sĩ cách mạng trong 'Nhật ký trong tù' hầu như không cảm thấy cô đơn, tâm hồn luôn gắn bó với nhịp sống, làm chủ hoàn cảnh và lạc quan yêu đời. Trong cảnh hoàng hôn gió rét, vượt lên gian khổ, Người xúc động hướng tới tiếng chuông chùa và tiếng sáo mục đồng:
'Gió sắc tựa gươm mài đá núi,
Rét như dùi nhọn chích cành cây
Chùa xa chuông giục người nhanh bước,
Trẻ dẫn trâu về tiếng sáo bay'.
(Nam Trân dịch)
Trong cảnh bị cùm trói, Người vẫn tìm được chút niềm vui nâng đỡ tâm hồn mình: 'Oanh sớm, mừng nghe hót xóm gần' (Đêm ngủ ở Long Tuyền). Điều đó cho thấy khát vọng sống và tự do của Người. Thiên nhiên và con người hiện lên trong thơ Bác với những nét đẹp bình dị và đáng yêu, thể hiện sự sống mà Bác gắn bó và yêu mến suốt đời.
'Chiều tối' là một bài thơ đáng yêu: kết hợp màu sắc cổ điển với tính trẻ trung, hiện đại và bình dị. Tứ thơ từ cảnh đến tình, từ bóng tối đến ánh sáng và tương lai. Nét vẽ tinh tế thể hiện một hồn thơ rộng lớn và đầy tình cảm. Bài thơ thấm đượm tình yêu sâu sắc đối với thiên nhiên và con người, dù trong đọa đầy gian khổ, tâm hồn Bác vẫn tràn đầy sự sống.

2. Bài phân tích mẫu về bài thơ 'Chiều tối'
Theo ghi chép trong cuốn Nhật ký trong tù, khi được chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, Bác đã sáng tác năm bài thơ, và 'Chiều tối' là bài thứ ba trong số đó. Như tên gọi của nó, bài thơ vẽ nên bức tranh cảnh hoàng hôn.
Chiều tối này khác biệt so với những chiều tối thông thường. Đây là cảnh chiều tối qua cái nhìn của người tù Hồ Chí Minh, người đang bị áp giải qua một vùng núi hoang vu với tay bị trói và cổ đeo xích. Ngày đã tắt nhưng người tù vẫn phải tiếp tục bước đi. Nhà tù mới còn xa và nỗi khổ còn nhiều. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
(Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không.)
Hình ảnh cánh chim trở về tổ là biểu tượng thường thấy trong thơ cổ điển để diễn tả hoàng hôn, nhưng ở đây, cánh chim không chỉ là một nét vẽ đơn giản. Khi chiều tối, người tù nhìn lên bầu trời, thấy cánh chim mỏi mệt đang cố gắng về tổ và chòm mây lững lờ trôi ngang. Cái nhìn của nhà thơ không chỉ là sự thưởng thức mà còn là sự trìu mến và lưu luyến, thể hiện tình yêu thương vô hạn. Cánh chim nhỏ bé như có linh hồn, cuộc sống riêng, mệt mỏi sau một ngày vất vả. Người tù cũng cảm thấy mệt mỏi sau hành trình dài. Sự đồng cảm giữa tâm hồn nhà thơ và cảnh vật thiên nhiên là biểu hiện của tình yêu thương sâu sắc của Bác đối với tất cả sự sống.
Chòm mây trôi nhẹ giữa không gian rộng lớn, với câu chữ Hán 'Cô vân mạn mạn độ thiên không' đẹp như một bài thơ Đường. Chòm mây không mang sắc thái nhàn tản, mà chỉ đơn thuần là chòm mây trôi trên nền trời lúc chiều tối đang dần buông xuống, làm nổi bật sự mênh mông, êm ả của buổi chiều trong rừng núi. Phải có tâm hồn ung dung, thư thái thì người tù mới có thể quên đi nỗi đau thể xác để chiêm ngưỡng cánh chim và chòm mây trong ánh chiều tà.
Chòm mây làm cho không gian trở nên vô tận và thời gian như ngừng lại. Nó cũng phản ánh tâm trạng con người, vừa cô đơn vừa lặng lẽ, chứa đựng nỗi buồn chia ly: cánh chim tìm về rừng xanh, còn chòm mây như muốn ở lại giữa tầng không bao la.
Khung cảnh chiều tối nơi núi rừng là vậy. Cánh chim nhỏ bé và chòm mây cô độc, chim bay và mây trôi. Bầu trời bao la không giới hạn. Người xưa đã sử dụng hình ảnh động để tả cái tĩnh, tạo nên sự tinh vi trong thơ. Dù bài thơ không miêu tả màu sắc hay âm thanh, nhưng người đọc vẫn cảm nhận được sự u buồn và hiu quạnh của rừng núi lúc chiều tối. Hai câu thơ thể hiện nỗi buồn của cảnh vật và tâm trạng con người, cánh chim bay về tổ gợi niềm ước vọng đoàn tụ, chòm mây đơn độc trên không gợi sự trôi dạt nơi đất khách quê người, và sự mong mỏi tự do của người tù như cánh chim và chòm mây.
Nhưng hai câu thơ cuối lại mang đến một nét chấm phá bất ngờ: giữa rừng núi tối tăm, một lò lửa bừng sáng, chiếu rọi hình ảnh cô gái đang chuẩn bị bữa tối cho gia đình:
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.
(Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.)
Trong khi hai câu thơ đầu mô tả cảnh vật qua các nét ước lệ, thì hai câu thơ này lại miêu tả chân thực và sinh động hình ảnh người phụ nữ lao động. Bài thơ chuyển từ bức tranh thiên nhiên sang bức tranh đời sống. Đó là sự vận động trong cấu trúc bài thơ, phản ánh lôgíc trong tâm hồn tác giả. Hình ảnh cô gái xay ngô trở thành trung tâm bức tranh, với nét vẽ mạnh mẽ, làm nổi bật vẻ trẻ trung và sức lao động quý giá. Nó mang lại cho người tù hơi ấm và niềm vui của cuộc sống bình dị của những con người vất vả nhưng tự do.
Khi màn đêm buông xuống, cảnh vật thu vào điểm sáng của lò than đỏ, lan tỏa hơi ấm và âm thanh nồng nàn của chữ hồng. Chữ hồng kết thúc bài thơ thật tự nhiên và bất ngờ, như một chấm lửa đỏ làm nổi bật toàn cảnh, tăng thêm niềm vui và sức mạnh cho người tù đang bước đi trên con đường dài.
Hình ảnh cô gái và lò lửa gợi lên cảnh gia đình sum họp. Trong hình ảnh ấy, có ẩn chứa ước mơ thầm kín về mái ấm gia đình của người đang lưu lạc xa nhà. Bài thơ từ ánh chiều tối u buồn chuyển sang ánh lửa hồng ấm áp, từ nỗi buồn đến niềm vui, thể hiện cái nhìn lạc quan yêu đời và tình yêu thương nhân dân của một con người vĩ đại.
Người viết sử dụng nghệ thuật tả cảnh với nét cổ điển và hiện đại, chủ yếu là gợi tả, làm cho bài thơ trở nên cô đọng và hàm súc. Ngôn ngữ thơ được sử dụng linh hoạt, sáng tạo, với những từ ngữ gợi cảm. Chữ hồng không chỉ làm giảm đi cảm giác nặng nề mà còn làm nổi bật sự sống và công việc của cô gái.
Chiều tối hiện lên với vẻ đẹp giản dị mà sâu sắc. Bài thơ miêu tả thiên nhiên và đời sống chân thật, hàm súc, đồng thời thể hiện tâm hồn Hồ Chí Minh với lòng nhân ái quên mình. Trong hoàn cảnh khốn khó, Bác vẫn để tâm hồn mình hướng về thiên nhiên và niềm vui đơn sơ của con người. Không gì có thể sánh được với phút giây xúc động trước cảnh chiều tối của trái tim vĩ đại Hồ Chí Minh!

3. Phân tích bài thơ 'Chiều tối' - mẫu 6
Hồ Chí Minh không chỉ được thế giới biết đến như một nhà lãnh đạo vĩ đại của dân tộc Việt Nam mà còn là một nhà văn, nhà thơ nổi bật của thế kỷ XX. Bên cạnh các tác phẩm chính trị, Người còn để lại một di sản thơ ca quý giá, nổi bật là tập thơ 'Nhật ký trong tù'.
Tập thơ này như một cuốn nhật ký thơ ca ghi lại những gian nan và thử thách trong những ngày tháng tù đày. Tuy nhiên, với bản lĩnh và tinh thần thép, Hồ Chí Minh đã vượt qua hoàn cảnh khắc nghiệt để hướng về ánh sáng. Bài thơ 'Chiều tối' là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất trong tập thơ này:
'Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng'
Vào tháng 8 năm 1942, Hồ Chí Minh sang Trung Quốc để xin sự hỗ trợ quốc tế cho cuộc cách mạng Việt Nam. Sau mười lăm ngày đi bộ, khi đến thị trấn Túc Vinh thuộc tỉnh Quảng Tây, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giữ vô cớ và bị giam giữ suốt mười bốn tháng trong các nhà tù của tỉnh này. Trong thời gian đó, Người đã sáng tác tập thơ 'Nhật ký trong tù' với 134 bài thơ bằng chữ Hán. Bài thơ 'Mộ' (Chiều tối) được coi là một kiệt tác, được viết khi Người đang chuyển từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo.
Bài thơ mở đầu với cảnh thiên nhiên buổi chiều tà trên con đường giải lao của Hồ Chí Minh. Hai câu đầu của bài thơ đã tạo nên một bức tranh phong cảnh vùng núi vào thời điểm 'chiều tối' bằng những nét chấm phá tinh tế.
'Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không'
Thiên nhiên hiện lên qua hai hình ảnh: cánh chim và áng mây, mang âm hưởng của thơ cổ. Cả hai hình ảnh này tạo nên một không gian rộng lớn, thể hiện sự kiên cường của tác giả trong hoàn cảnh tù đày.
Buổi chiều tà ở đây gợi nhớ đến các hình ảnh trong thơ cổ: 'Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà' hay 'Chiều tà bảng lảng bóng hoàng hôn' (Bà Huyện Thanh Quan). Cánh chim và chòm mây là những hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ để miêu tả cảnh chiều tối. Lý Bạch cũng đã viết trong bài thơ 'Độc tọa Kính Đình san':
'Chúng điểu cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn'
Điều mới lạ là trong thơ cổ, cánh chim thường bay đến những nơi xa xăm, gợi cảm giác buồn bã. Còn trong thơ Hồ Chí Minh, cánh chim gần gũi và yêu thương hơn, như đang tìm về tổ ấm sau một ngày dài. Sự vận động của cánh chim được thể hiện rõ nét, phản ánh tình cảm nhân đạo của Hồ Chí Minh và lòng nhân ái của Người.
Như Tố Hữu từng viết 'Bác ơi tim Bác mênh thống thế/ Ôm cả non sông mọi kiếp người'. Điều này cho thấy sự đồng cảm của người tù với cánh chim, cùng cảm giác mệt mỏi và khao khát dừng chân sau những thử thách. Câu thơ dịch: 'Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không' không hoàn toàn truyền tải được vẻ lẻ loi của đám mây. Tuy nhiên, hình ảnh mây trôi nhàn nhã gợi lên tâm trạng của người tù chiến sĩ, không còn là cảnh tù đày mệt mỏi nữa mà là sự thư thái của tâm hồn thi sĩ. Điều này thể hiện tinh thần thép vĩ đại của Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, hai câu đầu bài thơ phản ánh nỗi buồn của người tù nhưng không bi lụy. Theo Th.s Nguyễn Đức Hùng, cảnh chiều tà trong thơ cổ thường đầy ảm đạm, nhưng qua cái nhìn của Hồ Chí Minh, cảnh vật trở nên sống động hơn. Sự chuyển tiếp từ buồn sang vui được thể hiện qua cảnh tượng người lao động:
'Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng'
Hồ Chí Minh luôn hướng về nhân dân, không chỉ dân tộc Việt Nam mà còn nhân dân lao động toàn thế giới. Dịch câu thơ 'Sơn thôn thiếu nữ' thành 'Cô em xóm núi' không thể hiện hết sự trân trọng của tác giả đối với con người. Trong thơ cổ, hình ảnh người phụ nữ thường gắn liền với nỗi buồn chiến tranh hoặc tình duyên. Nhưng trong thơ Hồ Chí Minh, người phụ nữ lao động được miêu tả với sự trân trọng và yêu thương, mang lại sức sống và niềm vui cho cảnh chiều tối. Điều này cho thấy sự chuyển đổi từ hình ảnh thiên nhiên sang cuộc sống con người.
Sự kết hợp giữa yếu tố cổ điển và hiện đại trong bài thơ phản ánh tinh thần thi sĩ và sức mạnh của người tù cách mạng. Bài thơ thể hiện tình cảm nhân ái bao la của Hồ Chí Minh, dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt, vẫn vượt qua đau khổ để mang đến cho người đọc những vần thơ tuyệt vời. Qua bài thơ, chúng ta hiểu và yêu mến Hồ Chí Minh hơn. Như lời Tố Hữu đã viết:
'Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu, mắt mờ tóc bạc
Mà thơ bay cánh hạc ung dung'

4. Mẫu bài văn phân tích bài thơ 'Chiều tối'
Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh đã đánh giá tập thơ “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh như sau: “Sự hòa quyện giữa cách mạng và thơ ca chân chính đã giúp Bác Hồ không chỉ trở thành một chiến sĩ cách mạng vĩ đại mà còn một nhà thơ lớn bất đắc dĩ.” Đây là tập thơ viết bằng chữ Hán trong thời gian Bác bị giam giữ bởi chính quyền Tưởng Giới Thạch. Một trong những bài thơ nổi bật của tập này là “Chiều tối”.
Bài thơ “Chiều tối” được viết khi Bác bị chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo vào cuối mùa thu năm 1942. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, thử thách, nhưng lòng kiên cường của người chiến sĩ không hề dao động. Bác viết thơ để tự an ủi và chờ đợi ngày tự do. Những vần thơ của Bác không chỉ tràn đầy tình cảm mà còn mang sức mạnh tinh thần đáng kinh ngạc.
Bằng những nét chấm phá và bút pháp gợi tả của Đường thi, Hồ Chí Minh đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên trên đường chuyển lao qua hai câu thơ đầu:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Chiều tối là lúc những chú chim bay tìm nơi nghỉ ngơi sau một ngày dài. Cảnh tượng này gợi lên sự nhỏ bé giữa không gian rộng lớn của cánh rừng, một hình ảnh quen thuộc trong thơ ca truyền thống như câu ca dao: “Chim bay về núi tối rồi” hay thơ của Bà Huyện Thanh Quan:
“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn”
(Cảnh chiều hôm)
Chiều tà buông xuống, bao trùm không gian bằng bóng tối, đồng thời gợi lên nỗi buồn. Những chú chim đã tìm nơi nghỉ ngơi, còn người tù thì cảm thấy cô đơn. Bác khao khát có một nơi để nghỉ ngơi nhưng vẫn giữ tinh thần kiên cường, không than vãn.
Trong không gian rộng lớn ấy, chòm mây cô đơn trôi lững lờ. Bản dịch thiếu chữ “cô” làm mất đi sự cô độc của chòm mây. Không chỉ có chim mà chòm mây cũng mang cảm giác đơn độc. Bác Hồ đã nhìn thấy cái hồn của cảnh vật nhờ tình yêu thiên nhiên sâu sắc.
Bức tranh thiên nhiên chiều tà thể hiện tâm hồn thi sĩ của Bác, hòa quyện và cảm thông với vạn vật. Dù bị xiềng xích, Hồ Chí Minh vẫn giữ phong thái ung dung. Những thi liệu thơ Đường trong hai câu thơ tạo ra nỗi buồn, quạnh vắng và sự vận động tinh tế của thời gian khi chiều tà. Nếu hai câu thơ đầu vẽ bức tranh thiên nhiên thì hai câu thơ sau mô tả cuộc sống con người:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối)
Xay hết lò than đã rực hồng)
Dấu hiệu của cuộc sống con người xuất hiện, làm dịu nỗi buồn của người tù. Bác quan sát từ tổng quan đến chi tiết, từ xa đến gần để thấy cuộc sống con người. Vòng quay của cối xay ngô lặp đi lặp lại thể hiện cuộc sống lao động vất vả. Hình ảnh cô gái miền núi chuẩn bị bữa tối bên bếp lửa mang vẻ đẹp khỏe khoắn và trân trọng cuộc sống lao động.
Thời gian đã chuyển sang tối, lò than “rực hồng” làm sáng bức tranh thơ, từ bóng tối đến ánh sáng, từ nỗi buồn đến niềm vui. Hình ảnh lò than “rực hồng” gợi sự ấm áp, xua tan lạnh lẽo và nỗi cô đơn, đồng thời thắp sáng niềm tin cách mạng.
Nhà tù Tưởng Giới Thạch không làm cằn cỗi tâm hồn Bác. Dù thể xác bị đày đọa, Bác vẫn hướng lòng ra thế giới, hòa hợp với thiên nhiên và con người. Người quên đi nỗi khổ để vui với niềm vui giản dị của người dân lao động. Bài thơ thể hiện chủ nghĩa lạc quan cách mạng, luôn hướng về sự sống và ánh sáng, là đặc trưng phong cách thơ Hồ Chí Minh. Sự kết hợp giữa cổ điển và hiện đại cũng góp phần tạo nên sự thành công của tác phẩm.
“Chiều tối” cho thấy sự hòa quyện giữa tâm hồn người chiến sĩ và thi sĩ. Mỗi vần thơ của Bác đều mang chất thép từ tư tưởng của chiến sĩ vĩ đại. Tố Hữu đã viết về Bác với những câu thơ đầy cảm xúc:
“Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu, mắt mờ, tóc bạc
Mà thơ bay cánh hạc ung dung”
(Theo chân Bác)

5. Phân tích bài thơ 'Chiều tối' mẫu 8
'Bác Hồ là tình yêu sâu nặng nhất trong lòng dân tộc và nhân loại'. Trong cuộc sống thường nhật, Bác hiện lên với nếp sống giản dị và thanh cao. Công việc của Bác luôn nghiêm túc và chu đáo. Đến với thơ ca, tâm hồn và vẻ đẹp của Bác tỏa sáng qua những vần thơ đầy cảm xúc mạnh mẽ.
'Tôi đọc trăm bài, mỗi bài một vẻ
Ánh đèn chiếu sáng mái đầu xanh
Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông tình yêu rộng lớn'
Thơ của Bác không chỉ đơn thuần là đẹp mà còn chứa đựng vẻ đẹp của tinh thần thép và tình cảm sâu sắc. Bài thơ 'Chiều tối' là một tác phẩm tiêu biểu, thể hiện sự hòa quyện giữa nét cổ điển và tinh thần hiện đại, là một thành công của nền văn học nước nhà. Bài thơ được sáng tác vào năm 1943, trong giai đoạn Bác bị giam giữ bởi chính quyền Tưởng Giới Thạch, khi chuyển từ nhà giam Tĩnh Tây sang Thiên Bảo, lấy cảm hứng từ buổi chiều khi bị chuyển lao. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, với cấu trúc độc đáo và vận động linh hoạt. Người tù bị áp giải giữa cảnh núi rừng bạt ngàn, chiều dần buông xuống khiến lòng người thêm phần buồn bã. Có lẽ, trong suốt một ngày, buổi chiều là lúc con người chất chứa nhiều tâm trạng và nỗi lòng nhất, vì vậy thơ cổ thường sử dụng hình ảnh chim chiều hoàng hôn để gợi nỗi buồn.
'Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không'
Cảnh vật được gợi lên bằng bút pháp ước lệ tượng trưng quen thuộc trong thơ xưa, cánh chim mòn mỏi chiều tà gợi sự xót xa. 'Cô vân mạn mạn' giữa vô vàn chòm mây trên bầu trời có một chòm mây cô đơn, đơn lẻ giữa khoảng không. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho người tù bị lưu đày nơi đất khách quê người, thể hiện sự đồng điệu giữa cảnh vật và tâm trạng con người. 'Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ', cảnh vật phản ánh tâm trạng, có chút gì đó lẻ loi, mủi lòng sâu thẳm nơi đáy lòng người chiến sĩ. Hai câu thơ mang phong cách Đường thi nhưng vẫn chứa đựng nét riêng trong thơ Bác. Thiên nhiên phảng phất nét buồn nhưng không bi lụy. Mỏi mệt thì nghỉ ngơi để rồi ngày mai lại tiếp tục cuộc hành trình mới, đó là sự nỗ lực, là tâm hồn hướng về sự sống, khát khao tự do như cánh chim bay ngang trời, nhẹ nhàng và thanh thản. Nếu hai câu đầu là bức tranh thiên nhiên rộng lớn thì hai câu cuối là bức tranh sinh hoạt đời thường.
'Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.'
Hình ảnh người con gái xuất hiện nhiều trong thơ ca, trong văn học trung đại, họ thường yếu đuối và số phận long đong. Trong thơ Bác, hình ảnh 'cô em' nổi bật trước thiên nhiên, con người đang làm chủ cuộc sống, trẻ trung và đầy sức sống, làm việc hăng say thật đáng quý. Bức tranh thiên nhiên hòa quyện hình ảnh con người càng thêm sinh động và ấm áp. 'Ma bao túc...bao túc ma hoàn', sự sáng tạo trong điệp ngữ tạo nên sự nhịp nhàng trong vòng quay công việc. Không gian rộng lớn từ trời đất dần thu hẹp lại thành không gian sinh hoạt gia đình - bếp lửa 'Xay hết lò than đã rực hồng'.
Chỉ với từ 'hồng', được coi là nhãn tự của bài thơ cùng bút pháp điểm xuyết, bao nhiêu cảm xúc dường như được dồn nén và bung tỏa. 'Hồng' - đó là ánh sáng của niềm tin, hy vọng, là ngọn lửa xua tan bầu trời đêm, là ánh sáng xua tan lạnh lẽo, cô độc, là ngọn lửa của niềm vui và lạc quan, làm tan đi mệt nhọc và buồn bã của thực tại. Tâm hồn thi sĩ giờ đây chứa đựng tình yêu, niềm thương mến đối với đất nước, và ước mơ về một tương lai hòa bình. Bác vẫn như thế, dù thực tại có gian khổ đến đâu, Người vẫn luôn hướng về thiên nhiên, vẫn lo lắng cho cuộc sống ấm no của dân tộc.
Với sự kết hợp hài hòa giữa hình ảnh cổ điển và tinh thần hiện đại, cách diễn đạt cô đọng và hàm súc, bài thơ 'Chiều tối' đã thể hiện tâm hồn Bác, con người dù trong đau khổ và xiềng xích vẫn vững niềm tin, giữ tinh thần thép trong cuộc sống. Đồng thời, bài thơ cũng chứng minh nét độc đáo trong phong cách thơ Bác như một nhà thơ từng nhận định: 'Thơ Bác từ ngôn ngữ đến hình tượng luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai'.

6. Phân tích bài thơ 'Chiều tối' mẫu 9
Hồ Chí Minh không chỉ là tên tuổi vĩ đại của dân tộc Việt Nam mà còn là một nhà thơ nổi tiếng. Với tư cách là một nhà thơ và nhà văn, Hồ Chí Minh đã để lại cho nền văn học Việt Nam nhiều tác phẩm quý giá. 'Nhật ký trong tù' là một tập thơ nổi bật của Người, trong đó, 'Chiều tối' là một bài thơ tiêu biểu, phản ánh tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và tinh thần kiên cường vượt lên hoàn cảnh khó khăn.
Bài thơ 'Chiều tối' được viết trong một buổi chiều tại một vùng thôn quê, khi Bác Hồ bị chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Ngay từ những câu thơ đầu, Bác đã khắc họa rõ nét bức tranh chiều tối dưới góc nhìn của người tù chính trị bị gông cùm:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Dịch nghĩa:
Chim mỏi trở về tìm chốn nghỉ
Mây đơn lẻ nhẹ trôi giữa trời
Bức tranh thiên nhiên được Bác vẽ bằng những hình ảnh cụ thể như “chim mỏi” và “chòm mây”. Buổi chiều tối là lúc mọi vật đều tìm về nơi nghỉ ngơi, những cánh chim quay về tổ sau một ngày dài. Sự mệt mỏi của chim tương tự như sự mệt mỏi của người tù chính trị phải tiếp tục hành trình. Dù cánh chim có mệt mỏi nhưng vẫn tìm được nơi nghỉ, còn người tù chính trị vẫn phải tiếp tục. Hình ảnh cánh chim gợi lên nỗi nhớ quê hương và sự thiếu thốn về tinh thần.
Chiều tối mang đến một vẻ u sầu
Chòm mây vẫn “trôi nhẹ giữa tầng không”, giống như sự cô đơn của người tù giữa không gian rộng lớn của núi rừng, đi mà không biết điểm dừng. Có lẽ chòm mây ấy cũng phản ánh khát vọng tự do của Hồ Chí Minh, mong muốn được bay tự do và thoát khỏi sự kìm kẹp của kẻ thù.
Chỉ với hai câu thơ, Hồ Chí Minh đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên giản dị nhưng đầy cảm xúc. Dù trong hoàn cảnh khó khăn, Bác Hồ vẫn thể hiện sự nhạy cảm và tinh tế với thiên nhiên xung quanh. Sự lạc quan và yêu đời của Bác được thể hiện rõ trong bức tranh thiên nhiên buồn nhưng đẹp:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng
Dịch thơ:
Cô gái xóm núi xay ngô buổi tối
Xay xong, lò than đã rực sáng
Trong không gian rộng lớn của trời đất, sự xuất hiện của cô gái xóm núi như một điểm sáng, làm bức tranh thêm sinh động và tươi vui. Hình ảnh “cô em xóm núi xay ngô tối” thể hiện sự chăm chỉ và giá trị lao động của con người. Trong khi mọi vật đã nghỉ ngơi, con người vẫn miệt mài làm việc, thể hiện sức mạnh bền bỉ. Bác đã dùng điệp ngữ “bao túc” để nhấn mạnh sự liên tục và bền bỉ trong công việc. Ánh sáng từ lò than rực hồng không chỉ xua đi cái lạnh lẽo của người tù mà còn mang đến sự ấm áp và niềm vui.
Hồ Chí Minh đã khéo léo khai thác sự chuyển giao từ tối sang sáng, từ buồn sang vui, thể hiện tinh thần lạc quan và khát vọng hướng tới tương lai. Mặc dù trong hoàn cảnh khó khăn, hy vọng về một ngày mai tươi sáng vẫn cháy bỏng trong lòng Người.
Bài thơ 'Chiều tối' phản ánh tinh thần lạc quan, yêu đời của Hồ Chí Minh và sự tài hoa trong nghệ thuật thơ của Bác. Bằng sự tinh tế trong bút pháp và cách sử dụng từ ngữ, Hồ Chí Minh đã mang đến những cảm xúc chân thật, không cần nhiều từ ngữ nhưng mỗi từ đều chứa đựng ý nghĩa sâu sắc.
“Chiều tối” là một thành công nổi bật trong sự nghiệp thơ ca của Hồ Chí Minh, vẽ nên bức tranh thiên nhiên và con người một cách hoàn hảo và sâu sắc, đồng thời thể hiện rõ phẩm chất và tài năng của Bác Hồ.

7. Phân tích bài thơ 'Chiều tối' - Mẫu 10
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một vị lãnh tụ vĩ đại mà tên tuổi của Bác còn khắc sâu trong trái tim mỗi người với những cảm xúc đặc biệt. Bác không chỉ là một chính trị gia lỗi lạc, một tấm gương nhân ái mà còn là một thi sĩ, nhà văn vĩ đại của dân tộc. Tố Hữu đã viết:
'Vần thơ của Bác rắn chắc như thép
Mà vẫn chan chứa tình cảm mênh mông'
Thật vậy, thơ của Bác chính là sự hội tụ tình cảm sâu sắc từ một trái tim yêu nước. Bài thơ “Chiều tối” là một ví dụ điển hình cho phong cách thơ của Bác. Để cảm nhận được hết giá trị của bài thơ, cần phải đặt nó trong hoàn cảnh Bác bị giam giữ từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo.
'Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây lơ lửng giữa tầng không'
Những buổi chiều thường mang theo sự u sầu, nhất là với những người đang sống xa quê, cảm giác nhớ nhung càng thêm sâu sắc. Cánh chim mệt mỏi sau một ngày dài, bay chậm chạp trở về tổ ấm để nghỉ ngơi. Chòm mây cũng lặng lẽ trôi giữa không gian mênh mông, dường như mang theo nỗi buồn vô tận.
Thiên nhiên như đang phản ánh tâm trạng của người tù cách mạng đơn độc giữa núi rừng rộng lớn, gửi gắm nỗi lòng qua hình ảnh cánh chim và chòm mây. Dù mệt mỏi, thiên nhiên vẫn toát lên khát khao về quê hương, như cánh chim muốn trở về tổ ấm của mình sau hành trình dài mệt mỏi.
'Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng'
Trong khi hai câu đầu thể hiện cảnh sắc thiên nhiên buồn tẻ, hai câu cuối lại mang đến hình ảnh sinh động của đời sống con người. Bức tranh trở nên sống động hơn với hình ảnh cô gái xay ngô, miệt mài và chăm chỉ.
Bên ánh lửa hồng trong đêm tối, cô gái làm việc cần cù. Bức tranh sinh hoạt giản dị mà mạnh mẽ, tạo nên sự tươi mới trong cuộc sống. Dường như đó là niềm hy vọng của Bác về một đất nước hòa bình, nơi mọi người có thể lao động tự do, không còn nỗi lo mất nước.
“Xay hết lò than đã rực hồng”
Chữ 'hồng” trong bài thơ là điểm nhấn quan trọng, chứa đựng nhiều ý nghĩa. Ánh lửa hồng xua tan màn đêm lạnh lẽo, xóa bỏ sự cô đơn của người tù. Ánh sáng ấy tượng trưng cho cách mạng, niềm tin vào tương lai và lòng yêu nước mãnh liệt, mang lại sự ấm áp và hy vọng. Ánh lửa hồng giống như tấm lòng nhân hậu của Bác.
Bài thơ chỉ vỏn vẹn bốn câu nhưng chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa. Trong hoàn cảnh khó khăn, Bác vẫn giữ vững niềm lạc quan và hy vọng, không để nỗi đau hiện tại làm giảm sút tinh thần. Thơ của Bác không chỉ đẹp mà còn mang ý nghĩa sâu sắc, kết hợp giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại một cách hài hòa.
Đọc bài thơ “Chiều tối”, chúng ta càng thêm kính trọng Bác, trân trọng tự do và hòa bình ngày hôm nay. Và tự hứa rằng, dù gặp khó khăn, chúng ta sẽ giữ vững tinh thần lạc quan và phấn đấu hết mình để trở thành thế hệ trẻ xuất sắc, xứng đáng với di sản mà Bác để lại.

8. Phân tích bài thơ 'Chiều tối' - Mẫu 11
Tháp mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà lãnh đạo vĩ đại, người hùng dân tộc mà còn là một nhà thơ đầy nhân ái. Những vần thơ của Bác luôn phản ánh tình cảm chân thành của một người sống vì dân tộc và nhân dân. Bài thơ 'Chiều tối' là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất, thể hiện rõ tinh thần và phong cách thơ của Hồ Chí Minh. Bài thơ được viết năm 1942, khi Bác đang bị giam trong nhà tù.
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Bức tranh thiên nhiên hiện lên với một vẻ u buồn đầy thơ mộng. Những chú chim sau một ngày dài kiếm ăn đã mệt mỏi trở về tổ ấm để nghỉ ngơi. Trong không gian bao la của đất trời, dù cánh chim nhỏ bé vẫn chao đảo, cố gắng tìm nơi trú ẩn. Cánh chim chiều mang theo nỗi buồn sâu thẳm. Phải chăng những cánh chim này cũng phản ánh tâm trạng của người tù, vẫn không ngừng tìm đường trở về quê hương, khao khát tự do như những cánh chim bay lượn giữa trời rộng?
“Tầng mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Hoàng hôn gợi lên nỗi buồn xa vắng, đặc biệt là với những ai đang nhớ quê. Cảnh vật trong mắt Bác mang một nỗi buồn không thể diễn tả, với cánh chim mỏi và áng mây cô đơn trôi nhẹ giữa không trung. Cảnh vật yên bình mà sao lại buồn đến vậy. Nỗi lòng của con người, dù mạnh mẽ đến đâu, cũng có lúc yếu đuối và mệt mỏi, và Bác cũng vậy, trong lúc này nỗi nhớ quê hương dường như dâng tràn.
“Thiếu nữ xóm núi xay ngô tối
Ngô xay vừa xong lò than đã đỏ”
Từ một bức tranh thiên nhiên lạnh lẽo, Bác chuyển hướng sang bức tranh cuộc sống ấm áp nơi vùng cao. Hình ảnh cô gái xay ngô không chỉ thể hiện sự chăm chỉ mà còn phản ánh vẻ đẹp của lao động giản dị. Bức tranh từ không gian rộng lớn đến một ngôi làng nhỏ bé, ấm áp. Sự ấm áp trong công việc hàng ngày đã truyền cảm hứng cho nhà thơ, thắp sáng niềm tin vào cuộc sống và tương lai. Chữ “hồng” ở cuối bài thơ không chỉ làm sáng bức tranh mà còn thể hiện niềm tin và lạc quan của người chiến sĩ cách mạng về tương lai của đất nước.
Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngắn gọn nhưng đầy cảm xúc. Giá trị của bài thơ không chỉ nằm ở nội dung nhân văn mà còn ở nghệ thuật thể hiện, với sự kết hợp hài hòa giữa chất liệu cổ điển và hiện đại. Sử dụng biện pháp tu từ như điệp ngữ, ẩn dụ, và tả cảnh, bài thơ đã trở thành một tác phẩm xuất sắc trong nền văn học.
“Chiều tối” không chỉ thể hiện tâm hồn nhạy cảm và tình yêu đời của nhà thơ mà còn thể hiện tinh thần lạc quan, dù đứng trước nghịch cảnh của Hồ Chí Minh.

9. Bài văn phân tích bài thơ 'Chiều tối' mẫu 12
Nguyễn Ái Quốc không chỉ là một vĩ nhân, một anh hùng dân tộc vĩ đại mà còn là một nhà văn và nhà thơ nổi tiếng. Ông đã để lại một kho tàng văn học phong phú, đa dạng về thể loại và sâu sắc về tư tưởng. Bài thơ “Mộ” của Nguyễn Ái Quốc là một ví dụ tiêu biểu cho tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước sâu sắc của ông.
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không.
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.”
Bức tranh thiên nhiên hiện lên qua không gian rộng lớn của rừng núi và bầu trời cao, gợi nhớ về hình ảnh cánh chim mỏi mệt bay về tìm nơi nghỉ ngơi sau một ngày dài. Đây cũng chính là hình ảnh của tác giả, mệt mỏi nhưng vẫn không ngừng đấu tranh. Từ hình ảnh cánh chim, tác giả đã dùng không gian để gợi ra thời gian và tâm trạng.
“Năm mươi ba cây số một ngày
Áo mũ dầm mưa, rách hết giày”
(“Sơ đáo Thiên bảo ngục” – Hồ Chí Minh)
Hình ảnh chòm mây đơn độc thể hiện tâm trạng cô đơn và buồn bã của nhà thơ. Từ “cô” không chỉ gợi lên một đám mây lặng lẽ mà còn thể hiện sự trơ trọi, cô độc trong không gian rộng lớn. Đó cũng là cảm giác của một tâm hồn yêu nước đang phải đối mặt với những thử thách lớn lao.
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.”
(“Cô gái xóm núi xay ngô tối,
Xay xong, lò than đã đỏ rực.”)
Chuyển từ không gian thiên nhiên đến cuộc sống thường ngày, hình ảnh cô gái xay ngô mang đến sự ấm áp và niềm vui. Ánh sáng từ lò than rực hồng làm sáng lên khung cảnh, xua tan sự lạnh lẽo và hiu quạnh. Điều này thể hiện niềm tin và hy vọng vào tương lai sáng lạn của đất nước.
Bài thơ “Mộ” của Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện sự hòa hợp giữa thiên nhiên và tâm trạng con người mà còn truyền tải tinh thần lạc quan và khát vọng mạnh mẽ. Với sự kết hợp giữa ngôn từ tinh tế và hình ảnh biểu cảm, bài thơ đã góp phần tạo nên những thành tựu văn học đáng kể của Hồ Chí Minh.

10. Bài văn phân tích bài thơ 'Chiều tối' mẫu 13
Bác Hồ đã từng chia sẻ: “Làm thơ không phải là niềm đam mê của ta/ Nhưng trong tù, biết làm gì hơn/ Ngày dài để quên nỗi buồn/ Ngâm thơ và chờ ngày tự do”. Qua những lời này, dù Bác không mặn mà với thơ ca, nhưng việc làm thơ trong tù là cách để giải khuây và thể hiện ý chí bền bỉ của một chiến sĩ cách mạng. Trong tập Nhật ký trong tù, bài thơ “Chiều tối” nổi bật với tinh thần kiên cường của người tù cách mạng trong thời kỳ chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây sang Thiên Bảo.
Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên chiều tối:
Chim mỏi tìm nơi nghỉ ngơi trong rừng
Chòm mây nhẹ nhàng trôi giữa bầu trời
Bức tranh chiều tối hiện lên qua hai hình ảnh: cánh chim và chòm mây. Trong thơ cổ, cánh chim thường gợi cảm giác cô đơn và nhớ nhung. Tuy nhiên, trong thơ của Bác, cánh chim là hình ảnh cụ thể, bay về nơi nghỉ ngơi sau một ngày dài lao động. Điều này phản ánh sự tương phản với hoàn cảnh của Bác, trong khi chòm mây lặng lẽ trôi, thể hiện sự cô độc của Bác trong không gian rộng lớn.
Bức tranh thiên nhiên không chỉ dừng lại ở miêu tả mà còn phản ánh tâm trạng sâu sắc của người tù. Bác đã thể hiện tình yêu thiên nhiên và sự mệt mỏi của mình qua hình ảnh cánh chim và chòm mây. Tuy vậy, điều này cũng thể hiện bản lĩnh kiên cường và lòng yêu nước vững vàng của Bác.
Khi chuyển từ thiên nhiên sang cuộc sống sinh hoạt, bức tranh trở nên ấm áp và gần gũi:
Cô gái xóm núi xay ngô vào tối
Xay xong, lò than rực sáng
Con người trở thành trung tâm của bức tranh. Hình ảnh cô gái xay ngô trong khung cảnh sinh hoạt mang đến sự ấm áp và sức sống. Ánh sáng từ lò than không chỉ làm sáng bức tranh mà còn thể hiện sự tươi sáng và niềm vui trong cuộc sống. Điều này phản ánh mối quan hệ hài hòa giữa con người và thiên nhiên, trong đó con người không bị lu mờ mà trở nên nổi bật.
Câu thơ cuối kết hợp giữa cổ điển và hiện đại. Sự sử dụng ánh sáng để thể hiện bóng tối là một yếu tố cổ điển, nhưng hình ảnh lò than rực sáng cũng thể hiện sự hiện đại. Từ “hồng” không chỉ làm sáng không gian tối tăm mà còn biểu hiện sự chuyển mình từ bóng tối sang ánh sáng, từ cô đơn đến sum họp, từ nỗi buồn đến niềm vui. Bài thơ “Chiều tối” sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt với ngôn từ cô đọng và bút pháp tinh tế, hòa quyện giữa cổ điển và hiện đại.
Bài thơ đã khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người nơi núi rừng hoang dã, đồng thời phản ánh vẻ đẹp tâm hồn lạc quan và niềm tin vào tương lai của Hồ Chí Minh.

11. Bài văn phân tích bài thơ 'Chiều tối' mẫu 14
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà cách mạng vĩ đại mà còn là một chiến sĩ quốc tế với tình yêu sâu nặng đối với quê hương và khát vọng giải phóng dân tộc. Cuộc đời của Bác cống hiến cho sự nghiệp cách mạng và còn ghi dấu ấn với nhiều đóng góp trong văn hóa và văn học.
Trong suốt thời gian bị giam cầm, dù bị giam giữ trong các nhà lao, tâm hồn thi sĩ của Bác không bị ràng buộc. Bài thơ “Chiều tối” được viết trong thời kỳ Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giữ vô lý, thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người và tinh thần lạc quan, niềm tin vào tương lai của Hồ Chí Minh.
Vào tháng 8 năm 1942, Bác đến Trung Quốc để tìm sự hỗ trợ quốc tế. Sau nửa tháng đi bộ đến Túc Vinh tỉnh Quảng Tây, Bác bị bắt giam trong mười ba tháng. Trong khoảng thời gian bị tù đày, Bác đã viết tập thơ “Nhật ký trong tù” bằng chữ Hán với 134 bài thơ.
Bài thơ “Chiều tối” là bài số 31 trong tập thơ, sáng tác khi Bác chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo vào năm 1942. Cảnh chiều tà rộng lớn kết hợp với tâm hồn thi nhân đã tạo nên nguồn cảm hứng để Bác gửi gắm tâm trạng và tình cảm của mình vào thơ. Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh thiên nhiên và cuộc sống của con người nơi đất khách quê người.
Bài thơ “Chiều tối” được viết bằng chữ Hán theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu thơ đầu vẽ nên cảnh thiên nhiên với hai hình ảnh tiêu biểu là cánh chim mệt mỏi và chòm mây cô đơn:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Dịch thơ:
Chim mỏi tìm nơi nghỉ ngơi trong rừng
Chòm mây trôi nhẹ giữa bầu trời
Bằng bút pháp cổ điển, Bác đã khắc họa hình ảnh cánh chim mỏi mệt bay tìm nơi nghỉ ngơi, gợi lên không gian rộng lớn và thời gian của buổi chiều. Hình ảnh cánh chim mỏi mệt trong thơ xưa của Nguyễn Du hay Bà Huyện Thanh Quan, nhưng trong thơ Bác, nó thể hiện rõ ràng sự mệt mỏi và nỗi cô đơn của Bác trong không gian mênh mông.
Nhà thơ đã dùng hình ảnh cánh chim để phản ánh tâm trạng của mình, khi đối diện với không gian vô hạn của bầu trời, chỉ có cánh chim nhỏ bé bay mệt mỏi. Bác đã sử dụng bút pháp tả cảnh để gợi tả tâm trạng của bản thân.
Sự đối lập giữa cánh chim tìm nơi nghỉ ngơi và nhà thơ bị giam cầm tạo nên một sự đồng cảm sâu sắc. Cánh chim dù mệt mỏi vẫn tự do, trong khi Bác vẫn bị kìm kẹp. Điều này thể hiện sự đồng cảm và tình yêu sâu sắc của Bác với sự sống.

12. Bài văn phân tích bài thơ 'Chiều tối' mẫu 15
Bài thơ “Chiều tối” được sáng tác trong những ngày đầu khi Bác bị giam cầm. Những bài thơ đầu tiên của Bác ghi lại hành trình từ nhà lao này sang nhà lao khác, như trong bài thơ có câu: “Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa rách hết giày.” Bài thơ này nằm trong dòng chảy các bài thơ ghi lại hành trình “Đi đường”. Nó thể hiện phong cách nghệ thuật nhất quán, đó là sự chuyển mình từ bóng tối sang ánh sáng, từ lạnh lẽo đến ấm áp, từ nỗi buồn đến niềm vui. Điều này được thể hiện rõ nét trong bài thơ “Chiều tối”.
Trong bức tranh thiên nhiên nơi vùng núi xa lạ, có một chút buồn man mác với những liên tưởng mơ hồ:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây lơ lửng giữa tầng không)
Câu thơ thể hiện rõ màu sắc của thơ cổ điển qua bút pháp miêu tả chấm phá và những yếu tố quen thuộc của thi ca cổ xưa. Dù không nói rõ thời gian, nhưng hình ảnh “cánh chim” vẫn diễn tả được không gian và thời gian. Hai câu đầu miêu tả cảnh vật vào buổi chiều tối, với hình ảnh cánh chim và đám mây vừa minh họa, vừa gợi nhớ đến hình ảnh thơ cổ điển. Sự mệt mỏi của cánh chim và sự cô đơn của đám mây chiều phản ánh tâm trạng của người tù tha phương. Dù mệt mỏi, người tù vẫn dành tình yêu cho thiên nhiên, vẽ nên một bức tranh đẹp và mang đậm chất cổ điển. Bức tranh này thể hiện một buổi chiều tà, một chiều thu êm ả nhưng có nét buồn, mệt mỏi và đơn chiếc.
Cảnh vật hài hòa với lòng người, thể hiện sự đồng điệu giữa thiên nhiên và tâm trạng con người. Tuy nhiên, hình tượng thơ không dừng lại ở đó mà chuyển sang một bức tranh sinh hoạt bình dị.
Thời gian từ chiều muộn chuyển sang chiều tối. Cảm xúc của con người không còn buồn mà trở nên vui vẻ. Không gian bừng sáng với màu đỏ “rực hồng” của lò than:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng.
Hình ảnh cô gái xay ngô tối trở thành trung tâm của bài thơ, thể hiện vẻ đẹp trẻ trung và sống động của người lao động. Tâm hồn Hồ Chí Minh luôn hướng về tương lai, nơi có ánh sáng ấm áp của sự sống. Câu thơ mang sắc thái hiện đại, với cấu trúc lặp liên hoàn: “Ma bao túc”, “bao túc ma”, miêu tả hành động xay ngô lặp đi lặp lại, diễn tả vòng tuần hoàn của cối xay ngô. Nhịp điệu của thời gian hòa vào nhịp điệu của cuộc sống. Buổi chiều êm ả kết thúc, bước vào đêm tối, nhưng đêm không lẽo đẽo mà bừng sáng bởi ngọn lửa hồng.
Từ hai câu đầu đến hai câu cuối của bài thơ “Chiều tối” là sự chuyển động từ nỗi buồn sang niềm lạc quan, từ bóng tối ra ánh sáng. Hai câu đầu miêu tả cảnh buồn và tâm trạng không vui, với hình ảnh cánh chim mỏi mệt và chòm mây cô đơn. Hai câu cuối là niềm vui thể hiện qua ánh lửa hồng bừng sáng. Ánh lửa hồng xua tan nỗi cô đơn và mệt mỏi của buổi chiều nơi núi rừng hiu quạnh. Đây là sự kết hợp giữa nét cổ điển và hiện đại của bài thơ.
Sự vận động từ thiên nhiên quạnh vắng đến con người lao động, đến sự sống và ánh sáng được thể hiện tự nhiên và giàu cảm xúc. Sự vận động này xuyên suốt trong các bài thơ của tập “Nhật ký trong tù”.
Bài thơ kết thúc với chữ “hồng”, là nhãn tự của bài thơ, thể hiện sức sống và niềm tin của người tù cộng sản Hồ Chí Minh. Ngọn lửa hồng mang đến cảm giác ấm áp và niềm vui, ánh lửa của sự sống vẫn luôn tươi sáng và sưởi ấm mãi. Bài thơ mang phong vị cổ điển và phẩm chất hiện đại, dào dạt cảm xúc của thi nhân trước thiên nhiên và con người lao động bình dị nhưng cao đẹp. Cảnh chiều tà vùng sơn cước trong cái nhìn của người tù lưu đày đã làm cho bức tranh “Chiều tối” không kết thúc trong bóng đêm u tối, mà sáng bừng lên bởi ngọn lửa hồng - ngọn lửa của trái tim yêu sự sống, yêu đời và yêu đất nước.

13. Bài văn phân tích bài thơ 'Chiều tối' mẫu 1
Hồ Chí Minh không chỉ để lại dấu ấn sâu đậm trong sự nghiệp chính trị mà còn có một khối lượng tác phẩm văn thơ đồ sộ và quý giá. Trong hành trình đầy thử thách của cuộc cách mạng, sáng tác văn thơ đã trở thành phần không thể thiếu, đồng hành với sự nghiệp giải phóng dân tộc của Bác. Với lối viết trữ tình chính trị đặc sắc, các tác phẩm của Hồ Chí Minh không chỉ cổ vũ tinh thần yêu nước và chống lại kẻ thù, mà còn thể hiện những phẩm chất tâm hồn cao quý của vị lãnh tụ vĩ đại. Bài thơ Chiều tối (Mộ) là một trong những tác phẩm tiêu biểu, không chỉ phản ánh những khó khăn Bác trải qua trong cuộc cách mạng mà còn thể hiện rõ nét vẻ đẹp tâm hồn của người thi sĩ, chiến sĩ Hồ Chí Minh.
Sau nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Hồ Chí Minh vừa về nước không lâu thì lại phải sang Trung Quốc để tìm kiếm sự viện trợ quốc tế cho cách mạng Việt Nam. Sau nửa tháng đi bộ qua rừng núi vất vả, khi vừa đến biên giới Trung Quốc, Người đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và phải chịu đựng cảnh tù đày suốt 13 tháng. Cuộc sống trong tù và những chuyến chuyển lao khổ cực đã được Bác ghi lại bằng 134 bài thơ trong tập Ngục trung nhật ký. Nhà thơ Tố Hữu đã cảm động viết về tập thơ này:
“Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu mắt mờ tóc bạc
Mà thơ bay…cánh hạc ung dung”
Chiều tối là bài thơ nổi bật nhất trong số 134 bài của tập Ngục trung nhật ký, được sáng tác trong một buổi chiều tối cuối thu năm 1942, khi Bác bị áp giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo (Trung Quốc). Dù bị gông xiềng quấn quanh và đứng trên đất khách, Hồ Chủ tịch vẫn viết những vần thơ ấm áp, xua tan cái tăm tối và hiu quạnh của núi rừng. Bút pháp chấm phá cổ điển kết hợp với ý thơ hiện đại đã mang đến cho Chiều tối một vẻ đẹp đặc sắc, không chỉ là cảm xúc ngẫu hứng mà còn chứa đựng một vẻ đẹp tâm hồn lớn lao, những hoài bão và ước vọng về lý tưởng cách mạng đang phát triển mạnh mẽ.
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Dịch thơ:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Phân tích bài thơ Chiều tối giúp thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh. Khung cảnh thiên nhiên chiều tối được Bác vẽ qua hình ảnh cánh chim và chòm mây, những yếu tố quen thuộc trong thơ cổ điển. Đọc những vần thơ này, ta có thể tưởng tượng nhân vật trữ tình đứng giữa trời đất, mắt hướng lên bầu trời, nhìn thấy cánh chim đen trên nền trời và chòm mây trăng trắng buổi chiều tà. Đây là một khung cảnh cảm xúc thi vị, với cảm giác tự do và phiêu lãng. Nhưng ít ai biết rằng đằng sau những vần thơ ấy là một người tù với gông xiềng nặng nề. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Hồ Chí Minh vẫn có thể ung dung ngắm nhìn mây trời, chứng tỏ tinh thần lạc quan tuyệt đối của Người.
Hai câu thơ đầu của Chiều tối thể hiện bút pháp “thi trung hữu họa” trong văn học cổ điển, với chỉ hai câu thơ đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đặc sắc. Hình ảnh cánh chim bay lạc giữa không trung, vốn thường tượng trưng cho sự cô đơn và lạc lõng trong thơ cổ điển, nhưng trong thơ Hồ Chí Minh, cánh chim mang ý nghĩa hiện đại hơn, có nơi chốn để về sau một ngày dài vất vả. Sự mỏi mệt trong nhịp vỗ cánh của chim cũng phản ánh sự mệt mỏi của Bác, như đôi chân Bác sau một ngày dài đi bộ. Dù cánh chim đã có chốn về, còn Bác thì chưa, điều này tạo nên những cảm xúc buồn tủi trong lòng thi sĩ.
Tuy nhiên, tinh thần lạc quan và yêu đời của Bác vẫn rõ nét, khi Bác tìm thấy niềm hạnh phúc và ấm áp trong cảnh thiên nhiên hiu quạnh. Hình ảnh chòm mây trôi nhẹ trên nền trời xanh buổi hoàng hôn cũng thể hiện sự ung dung và thư thái của người chiến sĩ, mặc dù gông xiềng quấn quanh. Hai từ “mạn mạn” mô tả sự di chuyển chậm rãi của chòm mây, thể hiện sự thong thả của người chiến sĩ. Từ “thiên không” chỉ bầu trời trong trẻo, phản ánh tâm hồn trong sáng và tự do của Hồ Chí Minh, không bị trói buộc bởi hoàn cảnh. Những yếu tố này làm nổi bật tinh thần lạc quan và ý chí kiên cường của Bác trong hoàn cảnh giam cầm.
Văn học là nhân học, từ hình ảnh cổ điển như cánh chim và chòm mây, thơ Bác mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Cánh chim hướng về hạnh phúc và tổ ấm, còn chòm mây biểu thị tinh thần lạc quan và quyết tâm vượt qua cô đơn. Những hình ảnh này đều thể hiện tâm trạng và ý chí của thi nhân khi ở nơi đất khách quê người.
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Ma túc bao hoàn lô dĩ hồng”
Trong hai câu thơ tiếp theo, Bác hướng cái nhìn đến cuộc sống của người dân vùng sơn cước. Hình ảnh cô gái xay ngô trở thành trung tâm của bài thơ, trái ngược với hình ảnh con người bị lu mờ trong thơ ca truyền thống. Hình ảnh cô gái xay ngô, tuy giản dị nhưng thể hiện sức sống mạnh mẽ và vẻ đẹp của tuổi trẻ trong lao động. Điều này phản ánh quan niệm thẩm mỹ mới của Hồ Chí Minh, khẳng định vai trò của con người trước thiên nhiên. Cảnh tượng cô gái xay ngô tối cũng biểu thị khao khát và mong mỏi của tác giả về cuộc sống của nhân dân lao động, về mái ấm yên bình, đầy hi vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn.
Ở câu thơ cuối, “Ma túc bao hoàn lô dĩ hồng”, khi cô gái xay ngô xong, lò than đã rực hồng, đánh dấu sự chuyển đổi từ chiều tối sang tối hẳn. Từ “hồng” trở thành điểm nhấn cho cả bài thơ, thay vì kết thúc bằng cảnh đêm tối đen kịt, bài thơ kết thúc bằng hình ảnh lò than rực hồng, biểu hiện cho sự bắt đầu ấm áp của cuộc sống mới. Từ “hồng” cũng ẩn chứa ý nghĩa sâu xa, giống như việc Bác vượt qua cảnh tù đày và lý tưởng cách mạng vẫn sáng ngời. “Hồng” đại diện cho màu của lý tưởng cách mạng, đầy nhiệt huyết và sức sống, thể hiện sự kiên cường và tinh thần thép của Hồ Chí Minh trong thơ.
Chiều tối là một bài thơ tiêu biểu của Hồ Chí Minh với sự kết hợp hài hòa giữa nét cổ điển và hiện đại, tư duy thơ sâu sắc và tinh tế. Bài thơ không chỉ thể hiện tinh thần lạc quan và yêu đời mà còn thể hiện tấm lòng ấm áp và kiên định của vị lãnh tụ, là động lực to lớn cho cuộc chiến giải phóng dân tộc trong tương lai.

14. Phân tích bài thơ 'Chiều tối' - Mẫu 2
Về tập thơ 'Nhật ký trong tù' của Hồ Chí Minh, nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận định: 'Sự kết hợp hài hòa giữa cách mạng và thơ ca chân chính đã khiến Hồ Chí Minh, trong quá trình trở thành một chiến sĩ cách mạng vĩ đại, vô tình chuẩn bị cho mình những điều kiện để trở thành một nhà thơ lớn.' Đây là tập thơ được viết khi Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam. Tập thơ, viết bằng chữ Hán, nổi bật với bài thơ Chiều tối.
Vào cuối mùa thu năm 1942, khi bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo, bài thơ 'Chiều tối' đã được Bác sáng tác. Dù gặp nhiều khó khăn, thử thách, tinh thần của người chiến sĩ vẫn không bị khuất phục. Bác làm thơ để giải khuây, cũng là để tiếp thêm sức mạnh chờ đợi ngày tự do. Những vần thơ không chỉ đầy cảm xúc mà còn thể hiện ý chí và tinh thần thép của một chiến sĩ Cộng sản. Với bút pháp gợi tả và những nét chấm phá của thơ Đường, Hồ Chí Minh đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên trong hành trình chuyển lao:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Khoảng thời gian chiều tối là lúc chim bay đi tìm nơi nghỉ ngơi sau một ngày dài kiếm ăn. Cánh chim bay dưới hoàng hôn tạo nên hình ảnh nhỏ bé giữa không gian rộng lớn của cánh rừng. Hình ảnh này có thể tìm thấy trong thơ ca truyền thống như câu ca dao: 'Chim bay về núi tối rồi' hay thơ của Bà Huyện Thanh Quan:
Ngày mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Chiều tà đánh dấu sự kết thúc của một ngày dài và mở ra màn đêm. Thời gian này vừa để nghỉ ngơi, vừa gợi nỗi buồn. Những chú chim đã tìm được nơi dừng chân, nhưng người tù vẫn không tránh khỏi cảm giác cô đơn. Bác khao khát có một nơi nghỉ ngơi, nhưng dù mệt mỏi và cô đơn, người chiến sĩ vẫn kiên cường đối mặt với hoàn cảnh bằng ý chí và nghị lực phi thường.
Giữa không gian rộng lớn là những chòm mây cô đơn trôi lững lờ. So với nguyên tác, bản dịch thiếu từ 'cô' khiến ý thơ không thể hiện hết sự đơn độc của các đám mây. Không chỉ cánh chim mà cả chòm mây cũng mang nỗi cô đơn. Hồ Chí Minh phải là người yêu thiên nhiên sâu sắc mới có thể cảm nhận được sự tinh tế của cảnh vật như vậy.
Bức tranh thiên nhiên ở núi rừng vào chiều tà hiện lên một tâm hồn thi sĩ. Tâm hồn này hòa quyện và cảm thông với vạn vật, thể hiện sự tương đồng giữa thi sĩ và cảnh vật. Dù bị gông cùm xiềng xích, Hồ Chí Minh vẫn giữ phong thái ung dung, đĩnh đạc. Nếu không có tinh thần thép và sự lạc quan, Bác sẽ không thể mở rộng tâm hồn để cảm nhận thế giới xung quanh. Các chất liệu thơ Đường như thời gian chiều tối, hình ảnh cánh chim và chòm mây gợi nỗi buồn hiu hắt, đồng thời phản ánh sự vận động của thời gian và cảnh vật khi chiều tà buông xuống. Hai câu thơ đầu miêu tả thiên nhiên núi rừng, còn hai câu sau mô tả cảnh sinh hoạt của con người:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng
(Cô gái xóm núi xay ngô buổi tối
Xay xong lò than đã đỏ hồng)
Hình ảnh cuộc sống con người xuất hiện dường như làm giảm nỗi buồn của người tù. Con người trở thành trung tâm của bức tranh sinh hoạt. Bác thể hiện cái nhìn từ xa đến gần, từ bầu trời xuống mặt đất, để làm rõ cuộc sống của người xóm núi. Vòng xoay của cối xay ngô lặp đi lặp lại không ngừng, diễn tả cuộc sống lao động vất vả. Biện pháp nghệ thuật điệp liên hoàn đầu cuối thể hiện sự tuần hoàn của thời gian và vũ trụ. Cô gái miền sơn cước đang chuẩn bị bữa tối bên bếp lửa là hình ảnh đẹp, thể hiện sự khỏe mạnh của con người. Dù cuộc sống lao động có vất vả, nhưng rất đáng trân trọng.
Thời gian đã chuyển hẳn sang tối. Dù bản gốc không có từ 'tối', hình ảnh lò than 'rực hồng' báo hiệu thời gian đã tối. Chữ 'hồng' là điểm sáng của bài thơ, thể hiện sự chuyển động từ bóng tối ra ánh sáng, từ nỗi buồn đến niềm vui, từ lụi tàn đến sự sống, từ cô đơn đến sum vầy. Lò than giản dị nhưng đầy ý nghĩa, gợi sự ấm áp, xóa tan lạnh lẽo của núi rừng và sự cô đơn trong lòng người. Lò than cũng là biểu tượng của niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng cách mạng.
Nhà tù Tưởng Giới Thạch chỉ có thể giam giữ thân thể của Bác, nhưng không thể làm héo mòn tâm hồn Người. Ngay cả khi bị đày đọa về thể xác, Bác vẫn mở rộng tâm hồn để hòa vào thiên nhiên và con người. Người quên đi sự cực khổ để vui với niềm vui giản dị của người lao động. Bài thơ 'Chiều tối' thể hiện sự lạc quan cách mạng mãnh liệt, mạch thơ và hình tượng luôn hướng về sự sống và ánh sáng. Sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển và hiện đại cũng góp phần tạo nên thành công của tác phẩm.
'Chiều tối' cho thấy tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng và thi sĩ hòa quyện vào nhau. Mỗi bài thơ của Bác đều có chất thép, phản ánh tư tưởng của một chiến sĩ vĩ đại.

15. Phân tích bài thơ 'Chiều tối' mẫu 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng, một người chiến sĩ quốc tế luôn mang trong mình tình yêu quê hương đất nước và khát khao giải phóng dân tộc. Cả cuộc đời Bác dành cho sự nghiệp cách mạng không chỉ vậy Bác còn là một nhà văn hóa lớn có nhiều đóng góp trong lĩnh vực văn chương. Cảm hứng thi sĩ đến bất cứ lúc nào với người chiến sĩ cộng sản dù cho khi bị giam bắt, tù đày nhưng không thể giam cầm được tâm hồn của Người. Bài thơ “Chiều tối” là tác phẩm được sáng tác khi Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ nhưng vẫn thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người và tinh thần lạc quan, có niềm tin vào tương lai tươi sáng của Hồ Chí Minh.
Vào tháng 8 năm 1942 Bác sang Trung Quốc để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, sau nửa tháng đi bộ đến Túc Vinh tỉnh Quảng Tây và bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam trong suốt mười ba tháng, những tháng ngày bị tù đày ấy Bác đã sáng tác tập thơ “Nhật kí trong tù” bằng chữ Hán với số lượng 134 bài. Trong đó bài thơ “Chiều tối” là bài số 31 khi Người bị thiên chuyển từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo năm 1942. Trong khoảnh khắc chiều tà mênh mông cùng với tâm hồn thi nhân đã tạo cảm hứng để người tù sáng tác gửi gắm vào thơ ca tâm trạng, tình cảm của mình. Nổi lên trong bài thơ là hình ảnh thiên nhiên và con người lao động nơi đất khách quê người.“Chiều tối” được viết bằng chữ Hán theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu thơ đầu Bác đặc tả cảnh thiên nhiên núi rừng với hai hình ảnh tiêu biểu cánh chim mỏi mệt và đám mây cô đơn:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Dịch:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
Với bút pháp chấm phá điểm nhãn, ước lệ tượng trưng mang đậm chất cổ điển của thi pháp phương Đông Bác đã khắc họa hình ảnh cánh chim mỏi mệt đang bay tìm chốn ngủ. Đó là chi tiết gợi không gian mênh mông, gợi ý niệm thời gian buổi chiều đã về. Trong thơ ca không ít lần ta có bắt gặp hình ảnh cánh chim ấy là “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có viết: “Chim hôm thoi thót về rừng” hay của bà Huyện Thanh Quan: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” rồi trong “Tràng giang” của Huy Cận là hình ảnh “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa”.
Từ “quyện” trong câu thơ mang nghĩa mỏi mệt chỉ tâm thế tồn tại của con người, là định ngữ cho danh từ “điểu”, được dùng để đặc tả cho hình ảnh cánh chim. Cánh chim ở đây không chỉ được Bác quan sát trong sự vận động mà còn được cảm nhận từ bên trong là “Chim mỏi”. Nhà thơ đã dùng cái hữu hạn của cánh chim để nói cái vô hạn của bầu trời. Trong khoảng trời mênh mông ấy chỉ có cánh chim nhỏ nhoi bay với đôi cánh mệt mỏi. Bác đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tả hoạt động của tự nhiên để gợi thân phận, tâm trạng của mình. Ở đây vừa có sự đối lập vừa có nét tương đồng.
Đối lập là nếu con chim bị lạc đàn, bay mỏi sau một ngày kiếm ăn vất vả nhưng vẫn thoải mái tự do vào rừng tìm chốn ngủ còn nhà thơ vẫn bị kìm kẹp, giam cầm. Tương đồng tâm trạng giữa người tù và cánh chim chiều. Phải chăng sau một ngày đi đường dài cổ đeo gông chân vướng xiềng Bác đã thấm mệt nên nhìn cánh chim bay Bác cũng cảm nhận được điều ấy, Bác cũng muốn được nghỉ ngơi sau ngày tù dài lê bước “Năm mươi ba cây số một ngày / Áo mũ dầm mưa rách hết giày”. Cội nguồn của sự đồng điệu ấy là tình yêu vô bờ mà Bác dành cho sự sống của vạn vật.
Không chỉ vậy Người còn quan sát thấy hình ảnh đám mây trôi chầm chậm trên nền trời mênh mông, bao la gợi ý niệm lữ thứ, cô đơn. Đây cũng là một thi liệu rất quen thuộc trong thơ xưa. Thôi Hiệu đã từng viết: “Bạch vân thiên tải không du du” (Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay) hay đó là đám mây xanh ngắt trong thơ Nguyễn Khuyến với câu “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”.
Tuy nhiên mây trong thơ Bác không gợi sự vĩnh viễn mà mang tâm trạng cô đơn, lẻ loi của người khách băn khoăn không biết tương lai sẽ đi đâu về đâu nhưng trong bản dịch chưa thực sự lột tả được ý nghĩa của từ “cô”. Chỉ với vài nét đặc tả, chấm phá lấy linh hồn của thiên nhiên mà vẽ nên một bức tranh buổi chiều tối ảm đạm, yên ả. Cánh chim và đám mây đã từng xuất hiện trong thơ Lý Bạch: “Chúng điểu cao phi tận/ Cô vân độc khứ nhàn”. Đó là nét cổ điển mà Hồ Chí Minh kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại thể hiện ước muốn được tự do, được nghỉ ngơi như cánh chim, như đám mây trên trời cao.
Trong hai câu thơ đầu chỉ đặc tả cảnh thiên nhiên nhưng ẩn đằng sau lớp ngôn từ đó là tư thế và tâm hồn của thi nhân. Ta không thấy có chân dung của người tù khổ ải mà chỉ thấy phong thái ung dung, tao nhã của thi nhân mặc khách dù chân vướng xiềng lê từng bước trên đường đi, cảnh chiều mênh mông rợn ngợp nhưng tâm hồn Bác vẫn hướng về thiên nhiên, quát sát từng chi tiết vận động của cảnh vật. Nếu không phải là một người yêu thiên nhiên tha thiết, một con người có nghị lực phi thường, bản lĩnh kiên cường vượt lên trên hoàn cảnh làm sao có được sự tự do về tinh thần. Nhà lao, xiềng xích có thể giam cầm thân thể Bác chứ không thể trói buộc được tâm hồn thi nhân.
Trên nền cảnh của thiên nhiên hình ảnh con người bỗng hiện lên trong thơ Bác. Con người ở đây là thiếu nữ đang lao động giữa chốn núi rừng mênh mông như một điểm sáng làm cho bức tranh đời sống trở nên có hồn có thần sắc vui tươi hơn:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)
Hình ảnh con người và cuộc sống được nối tiếp hiện lên qua hai câu thơ. Thiếu nữ ở đây là người con gái (bé gái) trong lứa tuổi dưới thanh nữ chứ không phải như bao bài phân tích khác là cô gái. Hình ảnh bé gái đang xay ngô trong đêm tối là để hô ứng với cánh chim cô đơn, lẻ loi bên trên cô độc đối diện với cối xay. Ngòi bút của Bác hướng đến sự vận động của con người. Đây là một nét hiện đại, mới mẻ trong thơ Hồ Chí Minh. Thiếu nữ miền sơn cước toát giữa núi rừng mênh mông không những không bị hòa tan với thiên nhiên mà nổi bật chói lòa trong không gian ấy.
Không giống như những bài phân tích khác tôi nhận thấy qua cấu trúc liên miên đối ở các từ “ma bao túc” câu trên và “bao túc ma hoàn” câu dưới cho thấy con người ở đây đang phải lao động vất vả, nặng nề, triền miên, kéo dài trong đêm. Trong mạch vận động của của thời gian ở nguyên tác không hề nhắc đến chữ “tối” nhưng với bản dịch thơ người dịch cho thêm vào làm mất đi sự thú vị của ý thơ, khiến cho câu thơ mất đi nét đẹp của ý tại ngôn ngoại không cần nhắc đến nhưng vẫn hiện ra là một đêm tối bao phủ.
Trong câu thơ “Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng” theo tôi đó là sự nối tiếp công việc, kết thúc một công việc lại mở ra một công việc mới, nhà thơ đã dùng hình ảnh bếp lửa được đốt lên để nói sự vận động của thời gian. Từ xưa nay đa số mọi người đều hiểu theo nghĩa là hồng tính từ, làm sáng rực lên hình ảnh con người trong đêm nhưng theo nguyên tác chữ Hán đó hồng của động từ mang ý nghĩa hành động là đốt để đối với từ “ma” (xay). Đây là hiện tượng đồng âm trong tiếng Hán, nếu không cẩn thận tìm hiểu sẽ khiến cho mọi người nhầm lẫn với ý nghĩa khác.
Qua hình ảnh con người trong đêm cho thấy cuộc sống nơi đây cơ cực, khó khăn khiến cho tác giả đồng cảm, đồng điệu. Bác đã dùng vòng xoay của cối xay để nói lên tâm trạng nặng nề của mình, dùng hình ảnh bé gái để nói lên cảm nhận cuộc sống. Nam Cao đã từng viết: “Khi người ta đau chân, người ta không còn tâm trí đâu để nghĩ đến người khác” nhưng đối với Hồ Chí Minh thì đi ngược lại với điều đó. Bác là một con người có tấm lòng thương yêu đồng loại đến vô cùng không chỉ là đối với nhân dân Việt Nam mà còn là biết bao những con người cơ cực trên hành tinh này. Đúng như Tố Hữu đã từng viết: “Bác ơi tim Bác mênh mông thế/ Ôm cả non sông mọi kiếp người”.
Bài thơ là thành công của nghệ thuật kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và sự cách tân hiện đại trong ý thơ. Đặc biệt là chữ “hồng” ở cuối bài thơ được coi là nhãn tự, là con mắt thần của tác phẩm mang ý nghĩa sâu sắc được Hoàng Trung Thông nhận xét rằng: “Với một chữ "hồng", Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn ra trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối”. Đồng thời chữ “hồng” ấy cũng thể hiện cho niềm tin, hy vọng của Bác vào một tương lai tươi sáng ở ngày mai, đó là điều đáng quý, đáng trân trọng. Dù ở trong hoàn cảnh ngục từ nhưng con người ấy không bao giờ chịu khuất phục trước hoàn cảnh, số phận.
Trong thơ Hồ Chí Minh luôn có sự vận động từ bóng tối ra ánh sáng, từ hồng được xuất hiện rất nhiều lần như trong bài “Tảo giải” hiện lên: “Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng/ Bóng tối đêm tàn sớm sạch không” hay có câu Bác viết: “Trong ngục giờ đây còn tối mịt/ Ánh hồng trước mặt đã bừng soi” đó là sự lạc quan, niềm tin của Bác vào con đường cách mạng nước nhà, vào cuộc sống tốt đẹp hơn ở tương lai.
Như vậy chỉ với 28 chữ thất ngôn tứ tuyệt được kết hợp hài hòa giữa chất cổ điển và hiện đại, giữa tâm hồn thi sĩ với trái tim thép người chiến sĩ, bài thơ đã làm xúc động người đọc trước tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu tha thiết cuộc sống và sự cảm thông, thương yêu con người của vị cha già dân tộc. Con người Bác là tấm gương sáng để cho biết bao thế hệ đồng bào Việt Nam học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
(Nguồn: Lớp Văn thầy Nhật)
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
