1. Bài văn mô tả cuộc gặp gỡ với người lính lái xe trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' - mẫu 4
Nhân dịp kỉ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân và quốc phòng toàn dân vào ngày 22 tháng 12, trường chúng tôi đã mời một đoàn cựu chiến binh đến thăm và trò chuyện để giúp chúng tôi hiểu thêm về lịch sử chiến đấu của dân tộc. Trong đoàn, tôi gặp một người lính với nhiều huân chương trên ngực và trong buổi lễ, chú giới thiệu mình là người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Cuối buổi, tôi đã đến gần và có một cuộc trò chuyện thú vị với chú.
Không thể tưởng tượng nổi, người lính trẻ trung, đầy sức sống năm xưa giờ đây oai phong trong bộ quân phục mới. Chú có giọng nói khỏe khoắn, ấm áp và tiếng cười vang dội. Dù khuôn mặt đã có dấu vết thời gian nhưng vẫn giữ vẻ hóm hỉnh và lạc quan của người lính. Qua cuộc trò chuyện, tôi nhận thấy chú rất vui tính và nhiệt tình, đặc biệt khi kể về cuộc đời người lính trên tuyến đường Trường Sơn năm ấy. Chú kể rằng năm 1969, cùng các đồng đội, chú thường xuyên lái xe qua đây trong thời kỳ Mĩ pháo kích dữ dội. Đường Trường Sơn, tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử, là tuyến đường quan trọng nhất, là cầu nối giữa hai miền Bắc – Nam.
Mỹ quyết tâm phá hủy nó, thả hàng ngàn tấn bom, phá tan các con đường và đốt cháy những khu rừng. Hàng nghìn cây bị đổ, động vật mất nơi trú ẩn. Nhiều người đã ngã xuống để bảo vệ con đường. Dù Mỹ đã tấn công ác liệt, các đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm nối tiếp nhau, vận chuyển lương thực và vũ khí cho miền Nam. Chú mỉm cười và nói:
– Cháu thấy đấy, cuộc chiến của các chú đã trải qua nhiều gian khổ. Những năm tháng ác liệt đó đã khắc hoạ một thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc. Trên tuyến đường Trường Sơn, Mỹ tấn công dữ dội; bom cày xới đất đai, phá hỏng con đường, đốt rừng và phá huỷ những hàng cây chắn gió của ta. Nhưng không vì vậy mà các chú lùi bước. Các đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm ra tiền tuyến, vượt qua bóng đêm với sự dẫn đường của các cô thanh niên xung phong. Có khi trời tối, Mỹ phát hiện và thả bom, phá hủy cầu nối Bắc – Nam.
Đặc biệt, đoàn xe vận tải không có kính vì bị 'bom giật bom rung kính vỡ đi'. Bom đạn khiến kính, đèn, mui xe hư hại. Dù không có đèn trong điều kiện khó khăn, các chú vẫn hoàn thành nhiệm vụ và vượt qua những thử thách. Chú nhớ rằng trên các cabin xe, không có gì để che chắn, gió và bụi tràn vào mặt, làm mắt cay xè và làm tóc bạc trắng. Dù vậy, các chú vẫn cười vui vẻ và phì phèo thuốc lá.
Vào mùa mưa, các chú còn phải chịu đựng nhiều hơn. Mưa lớn kết hợp với sương muối làm da mặt tê buốt và áo ướt sũng. Lạnh lẽo, các chú phải sát vào nhau và nghĩ thầm: 'Vì bảo vệ Tổ quốc, phải vượt qua thiên nhiên mới xứng đáng là người lính của bộ đội Cụ Hồ.' Chính nhờ tư tưởng đó, các chú đã vượt qua được sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Dù mưa gió, các chú vẫn hăng hái lái xe hàng trăm cây số mà không cần thay người lái, gió lùa khô quần áo.
Cháu biết không: Người lính Trường Sơn xưa rất giản dị. Để vượt qua những khó khăn, các chú phải có ý chí chiến đấu cao. Vượt qua thử thách, con người mới hiểu được sức chịu đựng của mình. Xe không kính cũng mang đến một trải nghiệm thú vị, giúp nhìn thấy bầu trời rộng lớn và cảm nhận cánh chim bay vào tim. Tâm hồn người chiến sĩ phơi phới, thật đúng là:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước,
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Trên con đường Trường Sơn, mỗi lần gặp nhau, các chú đều bắt tay qua cửa kính, động viên nhau vượt qua khó khăn. Giữa rừng, bên bếp Hoàng, các chú chia sẻ bát đũa như một gia đình, siết chặt tình đồng đội. Nghe chú kể, tôi thật khâm phục tinh thần đồng chí và lòng dũng cảm của người chiến sĩ. Tôi ước một thế giới không còn chiến tranh để cuộc sống mãi bình yên.
2. Bài văn tường thuật cuộc gặp gỡ với người lính lái xe trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' - mẫu 5
Trong một chuyến viếng thăm nghĩa trang liệt sĩ, tôi đã gặp một sĩ quan đang thắp hương cho đồng đội đã mất. Chúng tôi có một cuộc trò chuyện vui vẻ, và thật bất ngờ khi tôi biết người sĩ quan này chính là người lính lái xe trong 'Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính' của Phạm Tiến Duật năm xưa.
Người sĩ quan kể rằng cuộc kháng chiến của dân tộc rất khốc liệt, các con đường huyết mạch nối liền miền Bắc và miền Nam là những điểm nóng nhất. Bom đạn của giặc Mỹ ngày đêm dội xuống nhằm cắt đứt tiếp viện từ miền Bắc. Trong những năm tháng đó, anh là người lính lái xe vận chuyển lương thực, vũ khí và đạn dược trên tuyến đường Trường Sơn. Bom đạn đã làm cho những chiếc xe của các anh không còn kính. Nghe anh kể, tôi mới hiểu được mức độ gian khổ mà các người lính lái xe phải chịu đựng. Nhưng họ không lùi bước, vẫn tiếp tục lái những chiếc xe không kính vượt qua chặng đường, nhìn thấy đất trời, ánh sao đêm và những cánh chim bay, hướng về tương lai giải phóng đất nước và hạnh phúc của nhân dân.
Người sĩ quan còn chia sẻ rằng dù không có kính rất bất tiện, nhưng họ vẫn điều khiển những chiếc xe đó, bụi bay vào làm tóc họ bạc trắng như ông lão, và họ cũng không cần rửa, cười vui vẻ. Tiếng cười của họ thật nhẹ nhõm. Dù gian khổ và bom đạn của kẻ thù không làm họ nản chí, những chiếc xe không kính vẫn tiếp tục băng băng trên tuyến đường ra trận. Khi gặp mưa, áo ướt nhưng họ không thay áo, cố gắng lái thêm vài trăm cây số nữa, vượt qua khó khăn để đảm bảo an toàn cho chuyến hàng, và nghĩ rằng mưa sẽ tạnh, gió sẽ khô.
Khi học 'Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính', tôi nghĩ chỉ có nhân vật trong bài thơ mới có thể vượt qua khó khăn, nhưng gặp gỡ người chiến sĩ lái xe năm xưa, tôi hiểu rõ hơn về họ. Họ vẫn vui vẻ và lạc quan dù bom đạn nổ bên tai, cái chết luôn rình rập. Anh sĩ quan kể rằng trên những cung đường vận chuyển, anh gặp những người bạn và đồng đội, có người còn sống, có người đã hy sinh. Trong những giây phút hiếm hoi đó, cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ và những bữa cơm bên bếp Hoàng Cầm, dùng chung bát đũa như một đại gia đình, đã làm cho tình đồng đội thêm thắm thiết. Những lúc nghỉ ngơi trên chiếc võng đu đưa, họ kể nhau nghe về những chặng đường ác liệt đã trải qua.
Sự dũng cảm của các cô gái thanh niên xung phong luôn đảm bảo cho những chuyến xe thông suốt. Con đường họ đi và nhiệm vụ họ thực hiện rất nguy hiểm, bom đạn Mỹ có thể rơi xuống bất cứ lúc nào. Anh sĩ quan còn cho biết những chiếc xe không chỉ mất kính mà còn không có đèn, mui xe bị rách, thùng xe bị xước. Những thiếu thốn này không ngăn cản được xe tiếp tục tiến về phía trước, về miền Nam. Nghĩ về những chiếc xe băng băng, tôi cảm thấy người lính lái xe thật dũng cảm và hiên ngang, sống và chiến đấu vì Tổ Quốc và nhân dân. Những chuyến hàng của họ đã góp phần vào chiến thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước.
Tôi và anh sĩ quan chia tay sau cuộc gặp gỡ thú vị. Tôi rất khâm phục tình yêu nước và ý chí kiên cường của các người lính lái xe, và tôi hiểu rằng thế hệ chúng tôi cần ghi nhớ công ơn của họ, phấn đấu trở thành công dân gương mẫu, nắm vững khoa học kỹ thuật để xây dựng một đất nước văn minh và hiện đại.
3. Bài văn tường thuật cuộc gặp gỡ với người lính lái xe trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' - mẫu 6
Vào ngày kỷ niệm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12, trường tôi tổ chức chuyến tham quan Bảo tàng Lịch sử quân đội. Tại đây, chúng tôi được chiêm ngưỡng nhiều hiện vật lịch sử như súng trường, mảnh bom đạn, cùng với chiếc mũ tai bèo và ba lô con cóc thân thuộc. Trong lúc tham quan, tôi thấy một chiếc xe tải không kính nằm lặng lẽ ở góc phòng. Đột nhiên, những câu thơ từ 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' vang lên trong đầu tôi. Tôi tự hỏi liệu đây có phải là chiếc xe đó không? Đang lúc băn khoăn, tôi thấy một bác bộ đội đứng từ xa quan sát chiếc xe. Tôi tiến lại gần và hỏi: 'Bác có phải là người lái chiếc xe này không?'. Bác quay sang tôi và mỉm cười: 'Đúng rồi, bác là lính Trường Sơn năm xưa đấy'. . .
Bác dẫn tôi lại gần chiếc xe; lần đầu tiên, tôi mới thấy một chiếc xe tải quân sự thật sự. Quả là một chiếc xe 'trần trụi': không có kính, không đèn, không mui và thùng xe còn xước xát. Sinh ra và lớn lên ở thủ đô trong thời bình, tôi chỉ quen với những chiếc ô tô bóng loáng, không ngờ một chiếc xe hỏng hóc như vậy lại có thể kiên cường di chuyển và chở biết bao vũ khí, lương thực. Thật là một điều kỳ diệu! Khi tôi vẫn còn ngạc nhiên và thán phục, bác chiến sĩ vỗ vai tôi và nói: 'Chiến trường khốc liệt lắm cháu ạ! Hằng ngày, máy bay Mỹ thả hàng ngàn tấn bom đạn, phá hoại Trường Sơn để cắt đứt chi viện của ta. Những ngày tháng đó, xe thường xuyên chịu những chấn động, rung lắc dữ dội'. À, đúng rồi, chính sự tàn phá của đế quốc Mỹ đã làm cho chiếc xe trở nên như vậy. Tôi cảm thấy rùng mình trước sự khốc liệt của cuộc chiến. Bác trầm ngâm nhìn chiếc xe, rồi bỗng vui vẻ nói: 'Nhưng không có kính cũng có cái lợi. Ta thoải mái ngắm nhìn cảnh đẹp của Trường Sơn từ trong buồng lái. Không có kính, gió lùa vào, xoa vào mắt. Nhưng càng hòa mình với thiên nhiên, bác lại càng thấy lòng mình tràn đầy nhiệt huyết và lạc quan. Dù con đường còn đầy chông gai, nó vẫn mở rộng và tươi sáng hơn. Cảnh vật như ùa vào tim, khiến bác vừa hứng khởi vừa hồi hộp. Bác nhìn thấy cả những cánh chim bay về tổ vào chiều; tâm trí bác bồi hồi nhớ về quê hương. Màn đêm buông xuống, không có đèn pha nhưng bầu trời vẫn sáng bởi những vì sao, dẫn lối cho xe qua. Nhìn những ngôi sao xa xôi, bác nghĩ đến miền Nam đang mong đợi. Ôi, mọi thứ xung quanh như hòa vào buồng lái'. Tôi lắng nghe bác kể chuyện với sự háo hức. Những chiến sĩ lái xe quả thật kiên cường và dũng cảm.
Giữa chiến tranh khốc liệt, họ vẫn lạc quan và thư thái, hòa mình vào vẻ đẹp của núi rừng, để tâm hồn tràn đầy lãng mạn. Tôi nhớ đến những câu thơ 'Không có... ừ thì...', và hỏi bác: 'Không có kính, bác xử lý thế nào với thiên nhiên và thời tiết?'. Bác cười: 'Cứ để vậy thôi, cháu ạ. Không có kính, bụi bẩn bám vào mặt và tóc trắng xóa như người già. Nhưng cứ để thế; phì phèo thuốc lá, mặt mũi lấm cát nhưng vẫn vui vẻ. Khi mưa to, đường trở nên trơn trượt, bác lái xe cẩn thận hơn, nhưng mưa vẫn làm ướt áo quần. Trên đỉnh Trường Sơn, có lúc mưa nhẹ, có lúc mưa xối xả. Dù mặt bác đã sạch, áo quần vẫn ướt, nhưng bác không bận tâm. Chỉ cần lòng vẫn hướng về miền Nam, bác quên đi khó khăn. Lái trăm cây số nữa, mưa sẽ tạnh, nắng lên, gió lùa vào buồng lái, áo sẽ khô nhanh thôi!'. Nụ cười của bác khiến tôi thật khâm phục.
Nụ cười ấy kiên cường vượt qua phong ba bão táp, dũng cảm đối mặt với thời tiết khắc nghiệt và những cung đường gian lao. Vì lí tưởng cao đẹp và tình yêu Tổ quốc, các bác sẵn sàng chiến đấu và quên đi tất cả. Tôi hỏi: 'Lái xe một mình giữa rừng, bác có cảm thấy cô đơn không?'. Bác cười: 'Làm sao mà cô đơn được? Bên bác có trời đất, núi rừng Trường Sơn. Và bác không phải lái xe một mình, trên đường còn nhiều xe khác vận chuyển vũ khí, lương thực. Anh em đồng đội gặp nhau dọc đường, trao nhau cái bắt tay. Chỉ một cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ, nhưng làm bác cảm thấy ấm áp, tiếp thêm sức mạnh. Xe tiếp tục chạy, bầu trời càng xanh. Khi nghỉ giữa chặng, bác được quây quần bên đồng đội, bên bếp Hoàng Cầm, cùng chung bát đũa, sẻ chia niềm vui, nỗi buồn.
Nhiều khi cùng ca hát, mỉm cười, vỗ tay, truyền cho nhau nhiệt tình và yêu thương, xua tan khó nhọc. Tình đồng chí thật đẹp, cháu ạ!'. Quả thực là đẹp! 'Chỉ cần trong xe có một trái tim'! Những chiến sĩ cùng niềm tin và lý tưởng, sát cánh bên nhau, truyền sức mạnh và hơi ấm cho nhau, chiến đấu vì miền Nam. Hình ảnh người lính lái xe thật sống động.
4. Bài viết kể lại cuộc gặp gỡ với người lính lái xe trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' - mẫu 7
Buổi sáng đầu đông, tôi hân hoan đến trường, giữa tiếng chim hót líu lo và bầu trời xanh rộng lớn... Hôm nay, tôi sẽ học bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, một tác phẩm tôi rất yêu thích từ hồi Tiểu học. Tôi vừa đọc lẩm nhẩm bài thơ, vừa tưởng tượng như đang di chuyển trên con đường rừng gập ghềnh, khó khăn. Mọi thứ trước mắt tôi dần trở nên mờ ảo bởi làn bụi, rồi lại hiện ra rõ nét từng cảnh vật...
Một đoàn xe tải đi qua. Tôi ngạc nhiên nhìn theo:
- Sao lại có xe trên con đường rừng này nhỉ?
Đang suy nghĩ mông lung thì một đoàn xe tải khác lại ầm ầm tiến tới, đất rung chuyển dưới chân tôi. Tôi lùi vào bên đường cho xe đi qua. Một, hai, ba… Bỗng nhiên chiếc xe thứ sáu, cũng là chiếc cuối cùng dừng lại. Một người lính mặc quân phục xanh, mỉm cười bước xuống xe:
- Cháu bé, sao lại ở đây một mình thế, lạc mẹ à? Để chú giúp tìm mẹ nhé?
- Không, cháu không lạc mẹ, cháu đến thăm các chú lính lái xe Trường Sơn, chú có biết họ không?
Chú không trả lời, chỉ bảo tôi lên xe theo chú. Ngồi trên xe thật tuyệt. Tôi nhìn chăm chú vào chú lính, có điều gì đó ở chú khiến tôi cảm thấy quen thuộc. Chú quay ra nhìn tôi, nụ cười ấm áp. Tôi bỗng lúng túng, rồi mạnh dạn hỏi:
- Chú là lính lái xe Trường Sơn phải không ạ?
Chú vẫn không nói gì, chỉ cười và tập trung nhìn con đường phía trước. Gió mát lạnh từ hai bên thổi vào.
- Xe gì mà không có kính thế? Tôi thắc mắc.
Một con chim bay qua, tôi vội vã với tay nhưng không kịp. Thú vị thật! Tôi bắt đầu đưa hai tay ra ngoài, thò cả đầu, cảm giác như đang bay. Không ngờ lại bị chú mắng:
- Nguy hiểm đấy, cháu nghịch quá!
Tôi phụng phịu rụt vào.
- Không lạnh sao cô bé? Thực ra xe của các chú vốn có kính, nhưng bị bom làm vỡ hết rồi.
- Thích quá, cháu rất thích được ngồi trên những chuyến xe như thế này.
Chúng tôi lại chìm vào sự im lặng dễ chịu.
Chiếc xe dừng lại ở nơi có ba bốn túp lều. Tôi xuống xe. Xung quanh là cây rừng, mọi thứ đều đơn sơ và hoang vắng. Một vài con gà chạy khắp sân, có một vại nước nhỏ và một cái gáo bé xíu, dây phơi quần áo cũng nhuốm màu xanh. Cuộc sống ở đây thật yên bình, không còn cảm giác của chiến tranh nữa.
Ánh nắng nhẹ làm bừng lên không gian yên ắng nơi đây. Một chú lính xắn quần từ đâu chạy đến, phá vỡ không khí tĩnh lặng:
- Này nhóc, chơi đâu mà lạc đến đây thế hả? Không sợ Mĩ bắn à?
- Có các chú rồi, lo gì nữa ạ?
- Được đấy, vào đây nấu cơm cho các chú nhé, bé con.
Tôi chạy theo, cùng với ống quần thấp cao bê cái nồi cơm lớn mà với tôi là “khổng lồ”. Một chú nghiêm nghị hơn thấy tôi, hỏi:
- Sao cháu lại ở đây?
Biết ngay đây là chỉ huy trưởng, tôi đến gần:
- Cháu muốn ở đây chơi được không chú? Chú kể chuyện cho cháu nghe đi, cháu rất thích.
Tôi hơi ngượng ngùng khi đã yêu cầu, nhưng chú nhìn tôi và nói:
- Nhóc còn nhỏ mà đã thích nghe chuyện chiến đấu. Được rồi, chú tình nguyện.
Chỉ huy trưởng dẫn tôi đến một gốc cây cao su to, có bàn ghế đầy đủ. Chiếc ghế gỗ kẽo kẹt nghe thật vui tai.
- Chú ơi, ở đây toàn những chú hiền, cuộc sống chắc vui lắm phải không ạ?
- Cháu không biết đâu, cuộc sống ở đây rất vất vả. Hàng ngày các chú phải vận chuyển lương thực, thuốc men và vũ khí ra tiền tuyến. Nhưng lúc nào cũng có tiếng cười, trò chuyện tếu táo. Các chú còn làm cả công việc của các bà nội trợ, rửa bát, nấu cơm… Tối đến lại quây quần bên đống lửa, diễn kịch, kể chuyện cười. Có nhiều đêm các chú phải đi suốt đêm để kịp vận chuyển vũ khí, lương thực cho quân ta.
- Thế thì mệt lắm phải không chú?
Chú bỗng trầm ngâm, đôi mắt xa xăm. Một làn gió nhẹ làm rơi chiếc lá trên tóc chú.
- Đúng là rất gian nan. Những ngày nắng thì bụi bay mù mịt, những ngày mưa thì đường rừng lầy lội, mưa cứ xối thẳng vào mặt. Có lúc chúng tôi cũng sợ bom đạn. Nhưng đó chỉ là cảm giác ban đầu, sau rồi chỉ có thể tiến thẳng. Vui nhất là khi gặp các cô thanh niên mở đường, ai cũng dịu dàng và anh dũng. Con gái còn vậy, huống chi chúng tôi – những chàng trai can trường, cũng phải tiếp tục tiến bước.
- Thú vị quá! Ước gì cháu được lớn lên như các chú! À, chú ơi, kỉ niệm nào làm chú nhớ nhất, kể cho cháu nghe nhé.
Chú mỉm cười, lắc đầu:
- Nhóc này, nhiều chuyện quá. Nhưng dù sao chú cũng chưa kể cho ai, nghe xong đừng nói cho ai nhé.
- Đồng ý! Tôi giơ cả hai tay lên rồi cười.
Tiếng lá rừng xào xạc, ánh nắng nhỏ lén lút qua kẽ lá, nhảy nhót quanh nơi chúng tôi ngồi, tất cả đã sẵn sàng lắng nghe câu chuyện ấm áp của người chiến sĩ.
- Đó là bữa cơm ngày đầu tiên chú đến tiểu đội. Chú bị gọi là “cô dâu mới về nhà chồng”, ngượng và xấu hổ lắm. Chú không thể tưởng tượng được, một mâm cơm với ba món: Rau rừng luộc, canh măng rừng và ít thịt nạc khô. Bỗng một anh cầm đũa gõ vào bát, tất cả cùng hòa nhịp hát vang cả khu rừng. Vui quá! Mọi khoảng cách bỗng tan biến. Bữa ăn dù đơn giản nhưng làm chú xúc động. Họ gắp cho nhau từng miếng thịt. Bữa ăn đầu tiên đó thật tuyệt vời, một bữa ăn bình thường nhưng chú không thể quên được.
Tôi thấy đôi mắt chú có vẻ rưng rưng. Cả tôi nữa, tôi cảm nhận được một tình cảm “gia đình” đặc biệt của những người lính...
- Cô bé sao bỗng ngẩn ra vậy?
- Chú ơi, cháu đói quá!
Vừa lúc đó một chú gọi mọi người:
- Anh em ơi, đi ăn cơm nào!
Vậy là tôi lại được gặp lại bữa ăn đầu tiên ở tiểu đội của chỉ huy trưởng!
Ăn xong, các chú quây quần bên đống lửa, tiếng đàn ghi-ta hòa cùng tiếng hát của những người lính. “Xe ta bon trên những dặm đường, giữa làng quê ta băng qua bao suối đèo, đồi nương mà xe ta băng ra chiến trường…”…
Khúc quân hành vang vọng khắp khu rừng… Tôi đã trở lại con đường đến trường từ lúc nào mà khúc hát vẫn làm lòng tôi xao xuyến mãi.
5. Bài viết kể lại cuộc gặp gỡ với người lính lái xe trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' - mẫu 8
Mùa hè vừa qua, tôi có dịp về thăm quê nội và bất ngờ lớn nhất là được ngồi bên một người lính từng lái xe trong đội xe được miêu tả trong bài thơ “Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
Ông lính của tiểu đội xe không kính năm xưa giờ đã tuổi cao, mái tóc bạc phơ. Ông kể lại cho tôi nghe những năm tháng khốc liệt của cuộc kháng chiến, về những kỷ niệm của tiểu đội xe không kính huyền thoại. Thời đó, cuộc kháng chiến của dân tộc rất ác liệt, những con đường huyết mạch được bảo vệ nghiêm ngặt, còn kẻ thù thì tập trung pháo kích vào những khu vực này. Ngày đó, ông thực hiện nhiệm vụ lái xe vận chuyển lương thực và vũ khí đến tiền tuyến qua con đường Trường Sơn lịch sử.
Với cuộc tấn công dữ dội của quân Mỹ, những chiếc xe bị tàn phá nặng nề, mất kính, mất đèn, thậm chí cả mui xe. Trong khi bom đạn nổ dày đặc, những chiến sĩ vẫn ung dung, thản nhiên. Không có kính bảo vệ, các chú càng dễ dàng quan sát xung quanh, nhìn thấy bầu trời, các vì sao và cảm nhận tình yêu quê hương sâu sắc hơn, tinh thần chiến đấu cũng thêm mạnh mẽ.
Khi không có kính, bụi bám đầy người. Mỗi khi dừng lại, các đồng đội nhìn nhau thấy người nào cũng trắng xóa và cười đùa với nhau. Đến giờ lên đường, các chú lại tiếp tục ngồi trên những chiếc xe đó. Dù bom đạn liên tục rơi xuống, sự sống mong manh, những chiến sĩ ấy vẫn luôn lạc quan, yêu đời, coi cái chết như điều nhẹ nhàng. Người chiến sĩ kể rằng trên những cung đường đó, ông gặp nhiều bạn và đồng đội, có người chỉ gặp một lần rồi mãi mãi ra đi. Họ bắt tay nhau qua ô cửa kính, chia sẻ tình đồng đội. Thỉnh thoảng, họ cùng ăn cơm bên bếp Hoàng Cầm, dùng chung bát đũa và quây quần bên nhau. Những kỷ niệm về nghĩa tình ấy khiến ông lặng người. Ông còn kể về những giờ phút nghỉ ngơi trên chiếc võng, chia sẻ những câu chuyện ác liệt đã trải qua. Không chỉ về tiểu đội của mình, ông còn nói về sự dũng cảm của các cô gái thanh niên xung phong, luôn đảm bảo các chuyến xe thông suốt.
Khi tôi hỏi làm sao các chú có thể đi trên những chiếc xe trong hoàn cảnh như vậy, người chiến sĩ đã trả lời một câu khiến tôi xúc động. Các chú phăng phăng chạy để giành lại độc lập, về miền Nam đang cần sự có mặt của các chú. Tôi thấy những người lính lái xe thời đó thật dũng cảm, họ đã sống và chiến đấu hết mình vì tổ quốc. Chính ý chí và tinh thần của họ đã góp phần tạo nên thắng lợi vẻ vang cho dân tộc.
Cuối cùng, khi người chiến sĩ phải rời khỏi xe, tôi chia tay ông với lòng tiếc nuối và xúc động. Tôi rất ngưỡng mộ những người lính lái xe thời đó và quyết tâm học tập thật tốt để góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước ngày càng giàu mạnh.
6. Bài viết tường thuật cuộc gặp gỡ với người lính lái xe trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' - mẫu 9
Nhân dịp Ngày Quân đội Nhân dân Việt Nam, trường chúng em tổ chức một buổi gặp gỡ và giao lưu với các cựu chiến binh lái xe Trường Sơn ngày trước. Tại đây, chúng em được nghe các bác kể những câu chuyện thú vị về thời kỳ chiến tranh.
Vào Ngày Quân đội Nhân dân Việt Nam năm nay, tỉnh em đã tổ chức một buổi mít tinh long trọng để tri ân những chiến sĩ có công với cách mạng và đất nước. Em vinh dự được cử đại diện cho các học sinh trong tỉnh tham dự buổi lễ. Đây là lần đầu tiên em đến một sự kiện trang trọng như vậy, và em cảm thấy tự hào nhưng cũng lo lắng và hồi hộp.
Hội trường nơi tổ chức buổi lễ rất rộng rãi, được trang trí lộng lẫy với cờ đỏ sao vàng bay phấp phới, các hàng ghế được sắp xếp ngay ngắn. Các bác cựu chiến binh có mặt từ rất sớm, mặc quân phục xanh chỉnh tề, dáng đi nghiêm trang. Trước sự trang trọng của các bác, chúng em cảm thấy vô cùng kính phục.
Các bác cựu chiến binh là những người đã lái xe dọc tuyến đường Trường Sơn để cứu nước. Gặp lại nhau sau nhiều năm, họ tay bắt mặt mừng, cùng ôn lại những kỷ niệm thời trẻ và hỏi thăm về cuộc sống hiện tại. Sau đó, trong phần chia sẻ kỷ niệm, các bác kể cho chúng em nghe những câu chuyện hào hùng trong những năm tháng khó khăn, đầy thử thách, khi họ mới ngoài hai mươi tuổi. Núi rừng Trường Sơn tuy gian nan nhưng không thể ngăn cản những con người tràn đầy nhiệt huyết. Chính tinh thần và nghị lực ấy đã góp phần vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Cuộc gặp gỡ giúp chúng em hiểu rõ hơn về những khó khăn mà các bác trải qua và thêm phần ngưỡng mộ ý chí của họ.
Bên cạnh việc ôn lại những kỷ niệm, các bác còn truyền cho chúng em ngọn lửa yêu nước và tinh thần quyết tâm chiến đấu. Sau buổi gặp gỡ, em không chỉ hiểu và tự hào hơn về thế hệ đi trước mà còn cảm thấy có thêm động lực để phấn đấu trong cuộc sống, xứng đáng với những điều tốt đẹp mà em đang có.
7. Bài viết tường thuật cuộc gặp gỡ với người lính lái xe trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' - mẫu 10
Chiến tranh đã lùi xa, và có lẽ thế hệ trẻ như tôi khó lòng cảm nhận hết được những gian khổ khi cầm súng bảo vệ tổ quốc. Nhưng chỉ qua một lần trò chuyện, một lần gặp gỡ bất ngờ đã giúp tôi hiểu nhiều điều và cảm nhận sâu sắc hơn về những ngày tháng đạn bom khó khăn ấy,…
Những chiếc bánh xe từ từ lăn đều rời khỏi ga, chuyến tàu Bắc Nam bắt đầu hành trình của mình… Khi tàu lao nhanh hơn, tôi bỗng cảm thấy một nỗi buồn lạ. Đây là lần đầu tiên tôi rời xa nhà như vậy, và lại đi một mình. Trên chuyến tàu đầy người lạ, cô gái mười lăm tuổi như tôi cảm thấy cô đơn, mũi cay cay, mắt đỏ dần, lòng dâng lên nỗi nhớ nhà và ba mẹ. Người đàn ông ngồi cạnh, tôi gọi là “bác”, dường như cảm nhận được tâm trạng của tôi. Bác khoảng ngoài sáu mươi, tóc bạc, da rám nắng, dáng người vạm vỡ. Nhìn những huân chương trên ngực bác, tôi đoán bác là cựu chiến binh. Bác quay sang bắt chuyện với tôi:
– Cháu buồn à? Nhớ nhà phải không? Khi mới nhập ngũ, bác cũng có cảm giác giống cháu. Nhưng rồi sẽ qua thôi, nó sẽ giúp cháu trưởng thành và tự lập hơn, sống xa bố mà vẫn ổn.
Tôi mỉm cười và hỏi bác:
– Bác từng là lính ạ?
Bác cười lớn:
– Đúng vậy, cháu ạ! Bác đã là một người lính, lái những chiếc xe đặc biệt, không kính. Ngày xưa, Mỹ đánh ta rất ác liệt, bác tình nguyện nhập ngũ. Với tính cách mạo hiểm và biết lái xe, bác được phân công vào tiểu đội 71A, lái xe tải qua Trường Sơn để tiếp tế cho các chiến sĩ ở miền Nam. Ngày đó, đường còn khó khăn lắm, không như bây giờ, toàn đường bê tông, còn phải đi qua rừng, tối tăm, không cẩn thận là rơi xuống vực. Xe không có kính, lỏng lẻo, tạo ra tiếng ồn lớn. Nhưng đi nhiều thì cũng quen. Có những đêm lái xe qua rừng, chim thú bay vào khoang lái, rất nguy hiểm nhưng cũng thú vị. Gió, bụi, mưa, lá cứ bay vào, cay xè, trắng xoá mặt là chuyện thường…
Bác dừng lại uống nước… Từ nhỏ, tôi đã thích những trò chơi đánh trận, múa kiếm, bắn súng, nhưng chưa bao giờ hiểu hết những khó khăn và cực nhọc mà những người lính Trường Sơn, đặc biệt là các chiến sĩ lái xe như bác phải trải qua. Tôi háo hức hỏi:
– Vậy khi ở chiến trường, bác có nhớ nhà nhiều không ạ?
– Có chứ cháu, nhớ nhiều lắm, có lúc đến mất ăn mất ngủ. Lo lắng không biết mẹ đang làm gì, có kịp chạy xuống hầm khi có bom không? – Ánh mắt bác trở nên buồn. – Nhưng bác cũng được các đồng đội an ủi, giúp đỡ rất nhiều. Mặc dù mới gặp nhau nhưng mọi người quý nhau như anh em ruột thịt. Những lúc lái xe, gặp đồng đội trên đường, họ đều chào hỏi, ôm nhau rất tình cảm. Tình yêu đất nước, căm thù kẻ thù và sự đồng cảm về nỗi nhớ nhà đã gắn kết mọi người lại. Nhờ đó, bác thêm tự tin và dũng cảm trong chiến đấu, quyết tâm chiến thắng để trở về với gia đình, gặp lại anh em để thực hiện những dự định trong tương lai…
Câu chuyện của bác dài và phong phú, nhưng những điều đã nghe đủ để tôi cảm nhận về những chiến sĩ, những gì họ đã trải qua và lòng lạc quan của họ. Chuyến tàu vẫn lăn, nhưng không còn gợi cho tôi cảm giác buồn, mà chỉ khẽ nhói lên niềm vui khó tả, niềm vui được sống trong hòa bình và tận hưởng những gì mình đang có…
Gặp gỡ và trò chuyện với những cựu chiến binh Trường Sơn là may mắn của tôi. Nó tiếp thêm nghị lực để tôi thực hiện những ước mơ của mình, như một luồng sinh khí mới, khiến tôi dũng cảm và tin tưởng hơn vào cuộc sống. Tôi hiểu rằng: làm con đất Việt phải mang trong mình dòng máu Việt. Bảo vệ, phát triển và xây dựng đất nước là nhiệm vụ của tôi, cũng như của hàng triệu thanh niên khác…
8. Bài viết tường thuật cuộc gặp gỡ với người lính lái xe trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' - mẫu 11
Khi tôi vừa dắt xe đạp vào sân nhỏ, tiếng cười vui vẻ của bố và một vị khách đã vang lên. Vị khách đó chắc chắn rất đặc biệt, vì hiếm khi thấy bố tôi, người thường lặng lẽ, lại trở nên sôi động như vậy.
Tôi vội vàng bước vào trong. Bố tôi và vị khách đang mỉm cười nhìn tôi với ánh mắt ấm áp:
_ Con gái, đây là bác Trung Trực, bạn học của bố từ hồi trung học và cùng nhập ngũ với bố. Bác là một chiến sĩ lái xe Trường Sơn ngày xưa đấy con ạ!
Bác Trực có tuổi tác tương đương với bố tôi. Gương mặt bác thể hiện sự nghiêm nghị nhưng rất hiền hòa. Đôi mắt bác, dù đã có nhiều vết chân chim, vẫn toát lên vẻ vui vẻ và trìu mến. Tôi như đang mơ, vừa học xong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, và hình ảnh những chiến sĩ lái xe dũng cảm còn vương vấn trong tâm trí tôi. Giờ đây, tôi đang đứng trước một người lính Trường Sơn thực thụ, quả là điều may mắn không tưởng. Tôi hồi hộp hỏi:
_ Bố ơi! Bác ơi! Con có thể ngồi cùng bố và bác một lát để nghe kể về những ngày chiến đấu năm xưa không ạ?
Bác cười và đáp:
_ Sao lại không? Đó là những năm tháng đẹp nhất của cả bố cháu và bác.
_ Thưa bác, bác chính là nhân vật trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” mà cháu đã học đúng không ạ?
_ Đúng rồi, bài thơ đó rất nổi tiếng. Ngày đó, gần như tất cả các lính lái xe Trường Sơn đều biết bài thơ ấy. Nó phản ánh phần nào khát vọng chiến đấu, gian khổ, dũng cảm và lạc quan của những người lính như bác.
_ Vậy bác đã lái những chiếc xe không kính đó phải không ạ?
_ Không chỉ là “đã từng” đâu cháu ạ. Bác liên tục lái những chiếc xe bị xước, va đập, bị bom đạn làm vỡ nát. Trong thời chiến, bác thường lái xe tải chở lương thực, thuốc men vào chiến trường miền Đông Nam Bộ. Có những chuyến kéo dài hàng tháng trời, gian khổ vô cùng, nhất là qua dãy Trường Sơn, nơi bị giặc bắn phá dữ dội. Tiểu đội của bác được trang bị những chiếc xe mới, nhưng vì bom đạn liên tục, kính xe bị vỡ, xe cũng bị đạn pháo làm hư hại nặng nề. Không còn chiếc xe nào còn nguyên vẹn.
Tôi vẫn còn hiếu kỳ, tiếp tục hỏi:
_ Lái xe không kính, không mui, không đèn như vậy chắc nguy hiểm lắm phải không bác?
Bác sôi nổi tiếp lời:
_ Nguy hiểm lắm, sống chết chỉ trong gang tấc. Lái xe không kính thì bụi đất là mối nguy hiểm lớn nhất. Đường Trường Sơn mùa khô đầy bụi, bụi bay vào mặt và quần áo, mắt cay xè, không thể mở ra nổi. Cả người và xe đều phủ một lớp bụi đỏ. Còn mưa thì rất bất ngờ, khi mưa trút xuống, người ướt sũng, mưa làm lái xe khó khăn hơn gấp trăm lần. Những vật thể như lá rừng, cành cây cũng bị cuốn vào cabin. Bác đã nhiều lần bị cành cây cắt vào mặt và tay, rất đau đớn. Những chuyến hàng đến đích thực sự là một kỳ tích, nhưng kỳ tích vẫn thường xuyên xảy ra!
Bác mỉm cười, ánh mắt rạng rỡ và tự hào. Lời bác như chứa đựng nhiệt huyết và sôi nổi của một thời chiến đấu. Những câu thơ của Phạm Tiến Duật lại vang lên trong lòng tôi, phản ánh thực tế của chiến trường ngày ấy. Những người lính cụ Hồ luôn lạc quan, yêu đời và tin tưởng vào một tương lai chiến thắng.
Tôi thấy bác Trực trầm ngâm, ánh mắt xa xăm như lạc vào hồi tưởng. Còn bố tôi thì ngồi yên, mặt đầy cảm xúc. Bác Trực bất chợt nói:
_ Xe không kính lại có cái hay của nó, cháu ạ. Gặp bạn cũ, đồng đội qua ô kính vỡ, giữa đại ngàn, bác cảm thấy ấm lòng vì có đồng chí bên cạnh.
Giọng bác rung lên đầy xúc động:
_ Cháu không thể hiểu hết tình đồng chí quý giá với lính chúng bác đâu. Dừng xe bên bếp Hoàng Cầm, chỉ cần thêm bát thêm đũa là cảm thấy như anh em một nhà. Dù mỗi người sẽ đi hướng khác, có khi không gặp lại giữa chiến trường ác liệt. Bác và ba cháu có thể trở về hạnh phúc bên gia đình, nhưng nhiều đồng đội của bác đã ngã xuống. Một đồng đội của bác đã hy sinh ngay sau vô lăng vì quyết tâm lái xe qua làn đạn dù đang bị thương nặng. Khẩu hiệu “Yêu xe như con, quý xăng như máu” luôn khắc sâu trong lòng những người lính lái xe. Dù có hy sinh, họ vẫn quyết tâm bảo vệ xe và hàng.
Bác im lặng. Không khí phòng bỗng trở nên trang nghiêm.
_ Cháu gái, hai câu cuối của bài thơ có phải là:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Chiến tranh đã qua lâu, nhưng hôm nay bác và bố cháu không bao giờ quên những ngày là lính. Bác rất tự hào vì đã là lính lái xe Trường Sơn, góp phần vào độc lập tự do của quê hương.
Trong tôi dâng trào cảm xúc kỳ lạ, vừa khâm phục vừa tự hào. Hôm nay tôi hiểu thêm nhiều điều. Trước đây, tôi chỉ biết đến cuộc sống êm đềm trong vòng tay gia đình và thầy cô ở đất nước hòa bình. Đó là thành quả của bao thế hệ cha anh đã vất vả hy sinh. Họ chính là bố tôi, bác Trực và những người tôi chưa từng gặp. Tôi phải trân trọng cuộc sống hòa bình này và nỗ lực xây dựng đất nước ngày càng tươi đẹp. Cảm ơn bác, người lính Trường Sơn oanh liệt đã giúp tôi trưởng thành hơn rất nhiều!
9. Bài văn mô tả cuộc gặp gỡ với người lính lái xe trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' - phiên bản 12
Gần 50 năm đã trôi qua kể từ khi chiến tranh kết thúc, nhưng ký ức về cuộc chiến ấy vẫn còn sống mãi trong tâm trí những người lính. Chúng tôi đã có cơ hội gặp gỡ và trò chuyện với chú Kiên, một trong những người lính lái xe nổi tiếng trong tác phẩm 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính', cũng là nhân chứng cho những trận chiến khốc liệt trong thời kỳ chống Mỹ, trong dịp lễ kỷ niệm thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Ngày 22/12 năm đó trời nắng đẹp - cái nắng cuối đông, ấm áp dù không gay gắt. Trường chúng tôi tổ chức mời chú Kiên, một người lính lái xe còn sống sót và tham gia trực tiếp vào những trận chiến để giao lưu với chúng tôi, nhằm giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về lịch sử và quá khứ vẻ vang của dân tộc. Dù đã gần 60 tuổi, chú Kiên vẫn giữ được vóc dáng nhanh nhẹn, mặc quân phục xanh với quân hàm thượng tá và các huân chương trên ngực, gương mặt đã in hằn dấu ấn thời gian. Những người lính, khi rời chiến trường, vẫn giữ được sự lạc quan và yêu đời, nhưng những ký ức đau thương có lẽ không bao giờ phai mờ, gắn bó với họ mãi mãi.
Chú Kiên lên sân khấu, ánh mắt hiền từ và nụ cười ấm áp trên môi:
- Chào các cháu, chú là Kiên, một trong những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mỹ. Các cháu có thể đã nghe đến Phạm Tiến Duật. Đúng vậy, chú và Phạm Tiến Duật là bạn cùng đơn vị.
Cả hội trường rộn ràng, bất ngờ khi chứng kiến một nhân chứng sống của những bài học trong sách giáo khoa đứng trước mặt. Sau khi mọi người lắng xuống, chú Kiên tiếp tục:
- Chú đến đây để kể về những năm tháng khói lửa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ mà chú và đồng đội đã trải qua. Dù có thể nghe dài dòng, chú hi vọng các cháu sẽ cảm nhận được phần nào của cuộc chiến này và quan trọng hơn, hãy yêu đất nước như chúng chú đã yêu.
- Vâng ạ! - Chúng tôi đáp lại.
Chú bắt đầu câu chuyện với giọng trầm ấm:
- Chú nhập ngũ năm 1958 khi chính quyền Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, đang áp đặt chính sách độc tài và khủng bố ở miền Nam. Những tháng ngày đó là thời kỳ đen tối của lịch sử. Chúng tôi từ miền Bắc phải vội vã vào miền Nam để chuẩn bị cho các chiến dịch và kháng chiến trường kỳ chống Mỹ.
Chú dừng lại một chút rồi tiếp tục:
- Những năm tháng đó tuy khó khăn, nhưng chưa thấm tháp gì so với thời kỳ 1969 - 1970. Khi chuyển về Đoàn 559 Trường Sơn và nhận lệnh đến binh trạm 35, Tây Trường Sơn, chúng tôi phải vận chuyển vũ khí, lương thực qua tuyến đường Trường Sơn. Mặc dù tuyến đường này rất quan trọng, đế quốc Mỹ đã liên tục ném bom để cắt đứt tiếp tế. Bầu trời Trường Sơn luôn bị máy bay địch quấy rối và bắn phá.
Toàn hội trường im lặng, cảm nhận sự khốc liệt của cuộc chiến qua lời kể của chú Kiên. Chú tiếp tục:
- Các cháu đã bao giờ đến Trường Sơn chưa? Thời tiết ở đó rất khắc nghiệt, mùa mưa thì trơn trượt, mùa khô bụi mịt mù. Để tránh bị phát hiện, chúng tôi phải lái xe vào ban đêm hoặc ngụy trang kỹ lưỡng. Trong điều kiện đó, nguy hiểm luôn rình rập, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào.
Chú uống một ngụm nước rồi tiếp:
- Chú đã đối mặt với cái chết nhiều lần, chứng kiến nhiều đồng đội ngã xuống. Một người bạn của chú, chỉ mới 26 tuổi, đã hy sinh trước khi được về thăm gia đình. Hình ảnh và nụ cười của bạn ấy sẽ không bao giờ phai mờ trong trí nhớ của chú. Chú đã mất bạn ngay tại tuyến đường Trường Sơn.
Không khí trong phòng trở nên nặng nề qua câu chuyện của chú.
Dù biết chiến tranh mang lại đau thương và mất mát, nhưng khi nghe kể từ chính những người lính, chúng tôi cảm nhận rõ hơn sự mất mát và đau đớn. Nhiều đồng đội trở về nhưng không còn nguyên vẹn, còn nhiều người không bao giờ trở lại. Chúng tôi may mắn sống trong hòa bình, không phải chứng kiến những cảnh chia ly đau đớn. Nhưng qua câu chuyện của chú Kiên, chúng tôi hiểu sâu sắc nỗi đau và sự kiên cường của dân tộc trong cuộc chiến bảo vệ độc lập.
Câu chuyện của chú kết thúc, chú không đưa ra lời khuyên, mà mong chúng tôi tự cảm nhận và rút ra bài học. Tiếng vỗ tay vang lên nồng nhiệt trong căn phòng. Chú Kiên vẫn giữ nụ cười và ánh mắt trìu mến như khi mới vào. Dù ký ức đau thương vẫn là vết thương không bao giờ lành, chú Kiên hiện lên như một người lính kiên cường, lạc quan.
Cuộc gặp gỡ và câu chuyện của chú Kiên đã giúp chúng tôi nhận ra nhiều điều về cuộc sống. Không chỉ là hậu quả của chiến tranh mà còn là hình ảnh kiên cường, bất khuất của thế hệ trẻ Việt Nam trong lịch sử dân tộc.
10. Tường thuật cuộc gặp gỡ với người lính lái xe trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' - mẫu 13
Nhân dịp trường tổ chức chuyến thăm nghĩa trang liệt sĩ để thắp hương, tôi tình cờ gặp một sĩ quan đang đứng trước mộ của người đồng đội đã hy sinh vì tổ quốc. Chúng tôi đã trò chuyện rất vui, và bất ngờ thay, tôi nhận ra người sĩ quan này chính là nhân vật trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' của Phạm Tiến Duật.
Người sĩ quan kể rằng cuộc kháng chiến của dân tộc rất ác liệt, đặc biệt trên các tuyến đường chiến lược nối liền miền Bắc và miền Nam. Bom đạn của quân Mỹ ngày đêm rơi xuống để cắt đứt tiếp viện giữa hai miền. Trong thời gian đó, anh là một trong những người lính lái xe vận chuyển lương thực, vũ khí trên con đường Trường Sơn. Bom đạn đã làm cho những chiếc xe của anh không còn kính, nhưng anh và đồng đội vẫn kiên trì điều khiển xe qua những đoạn đường hiểm trở. Họ nhìn thấy bầu trời, ánh sao đêm và những cánh chim bay qua, luôn hướng về phía trước, nơi tương lai của đất nước được tự do và hạnh phúc. Anh chia sẻ rằng dù không có kính rất bất tiện, nhưng họ vẫn chịu đựng và lái xe ngày đêm, cười đùa dù mưa bụi làm tóc họ trở nên trắng xóa. Ôi, tiếng cười của họ thật nhẹ nhàng và đầy lạc quan.
Những khó khăn và bom đạn không làm giảm tinh thần của họ. Những chiếc xe không kính vẫn tiếp tục băng băng trên các tuyến đường chiến đấu, mưa ướt áo nhưng họ không cần thay đổi, cứ lái thêm vài trăm cây số nữa, vượt qua mọi thử thách. Khi đọc 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính', tôi tưởng những gian khổ đó chỉ có trong cổ tích, nhưng gặp và trò chuyện với những người lái xe năm xưa, tôi mới hiểu rõ hơn về họ. Dù bom đạn luôn rình rập, họ vẫn giữ tinh thần lạc quan và yêu đời.
Anh lái xe còn kể về những cuộc gặp gỡ đồng đội hiếm hoi, những cái bắt tay qua cửa kính đầy xúc động, những bữa cơm quây quần bên bếp Hoàng Cầm, và những giờ nghỉ ngơi trên võng đu đưa. Dù xe không có kính, không có đèn, không có mui và còn nhiều thiếu thốn khác, những chiếc xe vẫn băng băng tiến về phía Nam. Họ đầy dũng cảm và lạc quan, sống và chiến đấu vì tổ quốc, góp phần vào chiến thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước.
Sau cuộc gặp gỡ, tôi và anh lái xe chia tay trong niềm vui. Tôi cảm phục tinh thần yêu nước và ý chí kiên cường của các chiến sĩ lái xe, và chúng ta luôn ghi nhớ công lao to lớn của họ, phải tiếp tục phấn đấu hơn nữa.
11. Tường thuật cuộc gặp gỡ với người lính lái xe trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' - mẫu 14
Nhân dịp kỉ niệm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, để giúp chúng tôi hiểu thêm về lịch sử chiến đấu của dân tộc, trường đã mời một cựu chiến binh về chia sẻ. Trong buổi gặp hôm đó, tôi nhận thấy một người với nhiều huân chương trên ngực, và hóa ra chú chính là người lính lái xe trên con đường Trường Sơn khói lửa năm xưa, nhân vật trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật.
Thời gian đã trôi qua và chiến tranh đã kết thúc, nhưng chú chiến sĩ ngày xưa giờ vẫn giữ được dáng vẻ khỏe khoắn và mạnh mẽ. Giọng chú hào hứng và đầy sức sống, nhưng đôi khi cũng có vẻ xúc động khi nhớ về những tháng ngày gian khổ bên đồng đội. Có lúc chú hơi rơm rớm nước mắt khi kể về những đồng chí đã hy sinh trên mặt trận. Qua cuộc trò chuyện, tôi cảm nhận được chú là người rất vui tính và hóm hỉnh, đặc biệt khi kể về cuộc đời người lính lái xe trên con đường Trường Sơn năm ấy. Chú kể năm 1969, chú và đồng đội thường xuyên lái xe qua con đường này, cũng là năm Mỹ tấn công rất ác liệt. Con đường Hồ Chí Minh lịch sử là tuyến giao thông quan trọng giữa hai miền, và Mỹ đã quyết tâm phá hủy nó bằng hàng ngàn tấn bom, làm tan hoang các tuyến đường và đốt cháy khu rừng. Hàng nghìn cây xanh đã bị đổ, muông thú mất nơi ở, và nhiều người đã ngã xuống để bảo vệ con đường này. Dù Mỹ đã tấn công rất dữ dội, những đoàn xe vận tải vẫn tiếp tục ngày đêm vận chuyển lương thực và vũ khí cho miền Nam. Chú mỉm cười và nói:
-Các cháu có biết không, Mỹ đã sử dụng rất nhiều loại bom để phá hoại, và điều chú nhớ nhất là những chiếc xe ở Trường Sơn. Chúng bị hư hỏng nhiều: có xe vỡ kính, có xe bị bẹp mui, có xe bị xước thùng…
Từ lời kể của chú, chúng tôi hiểu được mức độ ác liệt của cuộc chiến và sự hi sinh to lớn của các chú để bảo vệ độc lập và hòa bình cho đất nước. Nhiều người đã trở về nhưng để lại một phần thân thể trên chiến trường, còn những người khác đã mãi ra đi, để lại nỗi đau mất mát cho người ở lại. Dù phải đối mặt với điều kiện thô sơ và bom đạn tàn phá, các chú vẫn chiến đấu kiên cường, không ngại khó khăn.
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai
Gió Trường Sơn thổi vào mặt mang theo bụi, làm mắt cay xè, tóc bạc như người già và mặt lấm lem như thằng hề. Thế mà chẳng ai quan tâm, vẫn thản nhiên cười đùa, tạo nên những tiếng cười vang khắp dãy Trường Sơn. Những ngày nắng đã khổ, nhưng khi mưa đến, khổ hơn nhiều. Mưa ở Trường Sơn như trút nước, cộng với sương muối rừng khiến da mặt các chú tê rát, quần áo ướt sũng.
Trên con đường Trường Sơn, mỗi khi gặp nhau, các chú thường bắt tay qua cửa kính, một cử chỉ đơn giản nhưng là nguồn động viên lớn, tiếp thêm sức mạnh để vượt qua khó khăn. Tại bếp Hoàng Cầm, các chú quây quần như một gia đình, chia sẻ bát đũa và tình cảm đồng đội. Chiến tranh mang đến nhiều đau thương và mất mát, nhưng không thể làm lay chuyển ý chí quyết tâm giành lại độc lập. Tình đồng chí ngày càng khăng khít như người thân, dù mỗi người ở một nơi khác nhau, khi có chiến tranh, họ đều hội tụ ở con đường huyết mạch này.
Gặp gỡ và lắng nghe câu chuyện của chú, tôi càng thêm khâm phục ý chí và tình cảm của những người lính năm xưa. Công lao của họ sẽ mãi được ghi nhớ.
12. Tường thuật cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' - mẫu 15
Đã gần nửa đêm, tôi vẫn không thể ngủ được vì lo lắng cho bài kiểm tra môn 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' vào sáng mai. Tôi ước ao được gặp những người lính bộ đội Trường Sơn để hiểu rõ hơn về cuộc sống và con người mà cô giáo đã giảng dạy. Suy nghĩ ấy cứ theo tôi vào giấc ngủ…
Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình ở trong một cảnh vật lạ lẫm, mịt mù. Đó là một con đường gập ghềnh, đầy sỏi đá, với hàng đoàn xe nối đuôi nhau chạy không ngừng. Một tiếng nói vang lên từ phía tôi:
- Này cháu, sao lại đứng ở đây, nguy hiểm lắm, lên xe với chú nào.
Đó là một chú bộ đội trẻ tuổi, da ngăm đen, khỏe mạnh, mặc bộ đồ dính đầy đất và cát nhưng mặt chú tươi sáng như mặt trời. Chú kéo tôi lên xe, lúc này tôi mới chú ý đến những chiếc xe xung quanh. Chúng đã cũ, lớp vỏ bên ngoài bong tróc, han gỉ, và đặc biệt là không có kính hoặc kính đã vỡ gần hết. Một chiếc xe tồi tàn như thế lại có thể đi trên con đường xấu xí này sao?
- Chúng tôi là bộ đội đang vận chuyển lương thực, thực phẩm và vũ khí vào miền Nam, nơi cuộc kháng chiến đang diễn ra ác liệt nhất.
Hóa ra đây chính là con đường Trường Sơn huyết mạch nổi tiếng năm xưa. Những chú bộ đội ở đây là nhân vật trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, những người lính không ngại khó khăn, với ý chí kiên cường. Tôi hỏi tại sao xe không có kính, các chú giải thích hài hước:
- Không có kính không phải vì xe không có kính, mà do bom giật làm vỡ kính hết rồi.
Nhìn cảnh vật xung quanh, tôi mới cảm nhận được sự khốc liệt của chiến tranh. Khu rừng Trường Sơn giờ chỉ còn những gốc cây trơ trụi do bom đạn, khói bụi mù mịt và mùi thuốc súng khiến tôi cảm thấy lảo đảo, khó chịu, chim muông bay tán loạn, tiếng trực thăng và máy bay làm cảm giác tử thần gần kề. Dù vậy, các chú vẫn ung dung, không quản khó khăn, bước tiếp trên con đường gian nan. Qua lời kể của các chú, những khó khăn trở nên lãng mạn và trữ tình. Trong mắt các chú, không có khói bom mà chỉ có gió, sao trời, cánh chim, và con đường chạy thẳng vào tim. Dù buồng lái đã vỡ kính, làn gió cay đắng chỉ như xoa dịu, những hạt mưa và bụi làm tóc trắng như người già, họ vẫn cười ha ha.
Ôi! Tiếng cười của họ thật lạc quan! Đặc biệt là cách những người lính chào nhau: bắt tay qua ô cửa kính vỡ. Họ không quen biết nhau nhưng vẫn trao cho nhau những cái bắt tay và lời động viên, tiếp sức để cùng vượt qua khó khăn. Khi dừng xe nghỉ ngơi, họ quây quần bên bếp Hoàng Cầm, cùng nấu cơm và chia sẻ bát đũa, coi nhau như gia đình. Tình cảm mộc mạc, chân thành đó là sức mạnh giúp dân tộc ta chiến thắng quân thù và bảo vệ hòa bình.
Tiếng mẹ gọi dậy đánh thức tôi khỏi giấc mơ đẹp. Nhớ lại những lời tâm sự của người lính, tôi càng khâm phục và biết ơn ý chí kiên cường cùng tình đồng chí của họ, nhờ có họ mà chúng ta có được cuộc sống tươi đẹp hôm nay.
13. Tường thuật cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' - mẫu 16
Tối hôm đó, ngồi bên bàn học, tôi nhìn ra ngoài cửa sổ sáng rực ánh sao và suy nghĩ về bài giảng mà cô Vân, giáo viên dạy văn, đã truyền đạt sáng nay. Từ nhỏ, ông tôi đã kể về những ngày tháng anh dũng trong quân ngũ, về những khó khăn gian khổ mà ông trải qua. Nhưng chỉ khi nghe cô Vân say mê giảng về “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, tôi mới thật sự cảm nhận và trân trọng những gì mà các chiến sĩ Việt Nam đã làm trong chiến tranh. Tôi khao khát được gặp gỡ những người lính trẻ tuổi, những anh hùng trong lòng thế hệ trẻ chúng tôi. Khi tôi mải nghĩ ngợi, tôi bỗng gục xuống bàn và ngủ lúc nào không hay, trong đầu vẫn văng vẳng những câu thơ hào hùng:
- “Những chiếc xe từ trong bom rơi
- Đã về đây họp thành tiểu đội
- Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
- Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi…”
Trong giấc mơ, tôi thấy mình quay trở về quá khứ, vượt qua những ký ức mờ nhạt của tuổi thơ, hạ cánh năm 1969. Thật kỳ diệu, như thể tôi vừa bước ra từ cỗ máy thời gian! Tôi đang ngồi bên buồng lái của một chiếc xe vận tải trên tuyến đường Trường Sơn! Chiếc xe này không có kính, không đèn, không mui, thùng xe đầy vết xước từ bom đạn. Thật lạ, nó giống như chiếc xe mà cô Vân đã mô tả sáng nay. Nhìn tôi ngơ ngác, anh lính lái xe bên cạnh vỗ vào vai tôi:
- Này đồng chí nhỏ, sao lại nhìn ngơ ngác thế?
- Ôi, chú ơi, đây là đâu vậy?
- Đây là chiến trường, đường lắm ổ gà, ổ trâu, đi qua mà xe cứ rung lên!
Thì ra tôi đang trên chiếc xe vận tải không kính như trong văn học! Tôi reo lên. Người lính kia chính là người mà tôi thường ngưỡng mộ với phong thái lạc quan, dù trong mưa bom bão đạn. Tôi ngồi ngay ngắn, dò xét xung quanh. Tôi đang đi trên con đường ngoằn ngoèo qua rừng cây xanh bạt ngàn, chỉ những tay lái vững mới giữ cho xe không bị lật. Anh lính ngồi cạnh đang huýt sáo. Anh còn rất trẻ, khoảng mười tám đôi mươi, cánh tay khỏe mạnh nắm chặt vô lăng đưa xe qua cung đường gian khó. Chiếc xe không kính, mui xe hỏng hóc, mà vẫn chạy được quả là kỳ diệu…
- Anh lái xe như thế lâu chưa?
- Cũng được hai năm rồi. Hai năm qua mưa bom bão đạn, cũng nhanh thật!
Anh kể về những chuyến đi từ miền Bắc vào chiến trường. Rời ghế nhà trường, anh cùng bạn bè tình nguyện vào chiến đấu, bỏ lại sau lưng nhà cửa, mẹ già và một mối tình đầy mơ mộng… Huyền thoại về xe không kính anh đã nghe, nhưng lái một chiếc xe như thế là một duyên phận...
- Nếu ở lại Hà Nội, chắc mình chẳng hiểu cảm giác của những người lính dũng cảm dưới bom đạn. Mặc kệ, mình sẽ chờ đến ngày chiến thắng!
Anh kể về những chiếc xe… Ban đầu đầy đủ trang bị, qua thời gian, vỡ một ô cửa, mất một cái đèn, đến mất cái mui xe, cuối cùng trở thành chiếc xe không kính. Nhưng cũng lạ: Không có kính, gió mát lùa vào xe, có lúc cay mắt nhưng cảm giác hòa hợp với thiên nhiên. Mưa rừng, to như mưa rào Hà Nội, nhưng không sao, quần áo khô nhanh thôi…
- Đi đường nhiều bụi, tóc trắng xóa như ông cụ. Nhưng càng già, càng thấy vui, nhìn nhau cười quên hết mệt nhọc…
- Anh có nhớ nhà không?
- Nhớ, nhớ cả Hà Nội… Nhưng chưa thể về, khi nào kháng chiến thành công. Ở đây cũng vui. Anh em trong tiểu đội thương nhau, chia sẻ cơm nước, cùng bên bếp Hoàng Cầm như gia đình.
Tôi nhìn ra đằng sau xe, thấy chiếc võng Trường Sơn màu xanh, một kỷ vật chiến tranh:
- “Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
- Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
- Đường ra trận mùa này đẹp lắm
- Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây.”
Tôi nhìn anh lính mà mắt rưng rưng. Đường gập ghềnh, mưa bom, sự cô đơn khi xa gia đình, chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp. Trong chiến tranh, điều cần nhất không phải vũ khí hiện đại, mà là bản lĩnh và ý chí vượt thử thách. Điều đó giải thích vì sao Việt Nam đánh bại một kẻ thù mạnh nhất thế giới.
- Tiểu đồng chí, bao giờ nước ta độc lập? – Anh hỏi tôi.
- Có thể là 20 năm nữa, hoặc lâu hơn… Nhưng tôi tin dân tộc sẽ độc lập, đất nước sẽ tự do, vì có những người lính như anh… – Tôi òa khóc vì cảm phục, vì thấy người lính vẫn cười tươi dù ranh giới sinh tử mong manh.
“Đoàng…” Tiếng bom làm tay lái anh lệch chút. Anh cố gắng điều khiển chiếc xe qua hố bom, gọi tôi: “Em ngồi yên, chỉ còn chút nữa…”
Tôi tỉnh dậy. Hóa ra chỉ là giấc mơ. Nhưng tôi đã cảm nhận được khó khăn và tinh thần chiến đấu của bộ đội. Hòa bình là món quà vô giá mà các thế hệ trước đã khó khăn mới đem lại. Nhiệm vụ của thế hệ trẻ là gìn giữ nền độc lập mà ông cha để lại.
14. Bài viết kể về cuộc gặp gỡ với người lính lái xe trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' - mẫu 1
Nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập quân đội nhân dân và quốc phòng toàn dân vào ngày 22 tháng 12, trường chúng tôi đã tổ chức một buổi gặp gỡ đặc biệt với đoàn cựu chiến binh. Các chú đã đến thăm và trò chuyện cùng chúng tôi. Mỗi chú lần lượt giới thiệu về bản thân, quá trình công tác và những thành tích đạt được. Lớp tôi rất vinh dự được chọn tiếp đón và trò chuyện với các chú. Chúng tôi được dẫn vào một phòng rộng, ngồi cùng các chú, và tôi được trò chuyện với chú Hoà, người lính đã lái những chiếc xe không kính mà tôi rất tò mò. Cuộc trò chuyện đã mang đến cho tôi nhiều trải nghiệm quý giá.
Mặc dù đã qua nhiều năm, nhưng chính những năm tháng gian khổ đã tôi luyện cho chú sức khỏe và một vẻ ngoài kiên cường, mạnh mẽ. Tôi hỏi chú: “Trong những năm tháng lái xe trong điều kiện khó khăn như vậy, chú đã vượt qua như thế nào?” Chú chia sẻ: “Cháu biết không, việc làm người lính lái xe không hề dễ dàng. Chúng tôi phải luôn giữ vững tinh thần bình tĩnh và sẵn sàng. Khi ở trong buồng lái, mắt phải luôn quan sát mọi hướng để tránh máy bay và hố bom, để đoàn xe có thể tiến về phía trước.” Tôi nhận ra rằng, dù thiếu thốn vật chất, nhưng những người lính như chú Hoà vẫn tỏa sáng với vẻ đẹp kiên cường và dũng cảm.
Chú kể rằng trên tuyến đường Trường Sơn, địch đã tấn công ác liệt; bom Mỹ phá hủy đất đai, làm hỏng các con đường, đốt cháy rừng và phá hủy các lá chắn của ta. Nhưng không vì “bom rơi đạn lạc” mà các chú lùi bước. Đoàn xe tải vẫn nối đuôi nhau ra tiền tuyến, các cô thanh niên xung phong, các đồng đội sát cánh bên nhau, dẫn đường cho nhau, không ngừng tiến về phía trước trong bóng tối của rừng sâu.
Ban ngày, cảnh vật mịt mùng, bom địch rơi như rác, ban đêm, chúng thả bom phá đường và cầu nối Bắc - Nam. Nhưng các chú chưa bao giờ lùi bước, dù có phải hy sinh, đoàn xe dù không còn kính, vẫn băng băng tiến về phía trước. Suy nghĩ về điều đó thật đáng nể, không hiểu sao lúc ấy, lại mạnh mẽ và dũng cảm đến vậy. Bom đạn làm vỡ kính, đèn, xước thùng xe… Mặc dù không có đèn, vượt qua Trường Sơn đầy nguy hiểm, các chú vẫn dùng trái tim để soi sáng con đường tăm tối.
Câu chuyện của chú đã thu hút tôi, đặc biệt là khi chú đùa rằng chiếc xe không kính, dù chạy nhanh vẫn có thể cảm nhận con đường như chạy thẳng vào tim mình. Hình ảnh này thật độc đáo và có thể là biểu tượng cho hành trình cách mạng. Không có kính, cảnh vật bên ngoài trở nên gần gũi hơn, xoá nhòa khoảng cách. Chú cũng kể về những nguy hiểm thường xuyên, sự sống và cái chết luôn cận kề. Lái xe không kính, bụi đất là mối nguy hiểm gần nhất. Đường Trường Sơn vừa dài lại gập ghềnh, mùa khô bụi mù trời, làm cay xè mắt và nhuộm trắng tóc. Mưa cũng như cuộc tấn công bất ngờ, xối xả vào người, vào mặt, khiến việc lái xe khó khăn hơn nhiều lần, và những chuyến xe vẫn đến đích quả là kỳ tích.
Cuộc trò chuyện với chú đã giúp tôi học thêm nhiều điều ý nghĩa.
15. Bài viết về cuộc gặp gỡ người lính lái xe trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' - mẫu 2
Ngày lễ kỷ niệm thành lập quân đội nhân dân Việt Nam sắp đến, và trường chúng tôi rất vui mừng thông báo về việc sẽ có một buổi giao lưu với đoàn cựu chiến binh. Điều này khiến mọi người đều háo hức và vui vẻ, đặc biệt khi được nghe các bác kể về những chiến công diệt Mỹ. Trong buổi gặp đó, tôi ấn tượng sâu sắc với một chú đã lớn tuổi, gương mặt dù đã già nhưng vẫn toát lên vẻ trẻ trung, ngang tàng, và ngực đầy huân chương. Chú chính là một trong những người lính lái xe trong đoàn xe không kính, như đã được nhắc đến trong tác phẩm 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' của Phạm Tiến Duật.
Khó lòng tưởng tượng được, người lính trẻ trung, hóm hỉnh năm xưa giờ đã trở thành người đàn ông cao lớn, dạn dày và nghiêm nghị như vậy. Mặc dù đã lớn tuổi, nhưng giọng nói của chú vẫn mạnh mẽ và vang dội. Có lẽ những năm tháng kháng chiến đã tôi luyện cho chú sức khỏe và tinh thần kiên cường. Dù bên ngoài chú có vẻ già dặn, nhưng vẫn giữ được nét đáng yêu và hóm hỉnh của người lính năm xưa. Sau những lời giới thiệu, chú đã chia sẻ về cuộc sống của một người lính vận tải trên tuyến đường Trường Sơn, nơi ngày đêm bị bom đạn Mỹ tấn công dữ dội.
Vào thời điểm đó, tuyến đường Trường Sơn là một mục tiêu quan trọng, liên tục bị máy bay Mỹ ném bom, làm hỏng các con đường, cây cối bên đường trơ trụi,… Chúng quyết tâm tiêu diệt ta bằng mọi giá. Tuy nhiên, càng bị bom đạn tấn công, tinh thần của các chiến sĩ lại càng thêm kiên cường, sẵn sàng hi sinh vì miền Nam. Vì vậy, hàng ngày, các đoàn xe vẫn kiên cường tiến về phía trước, mặc cho mưa bom bão đạn để tiếp tế cho miền Nam.
- Các cháu không thể hình dung hết khó khăn, gian khổ mà thế hệ chú đã trải qua. Đó là những năm tháng đầy nguy hiểm và anh dũng. Do phải đi trong mưa bom bão đạn, hầu hết các xe không còn kính, bị biến dạng nghiêm trọng, mui xe xước chằng chịt vì va chạm, và xe vẫn phải di chuyển trong đêm tối, trên những con đường đầy nguy hiểm của Trường Sơn.
- Đường tối tăm và không có kính, các chú làm sao có thể đi được?
- Đây là một câu hỏi hay. Các cháu biết không, chúng tôi đi bằng trái tim và ý chí quyết tâm. Trái tim nhiệt huyết giúp soi sáng con đường, vì vậy dù đêm tối cũng không thể ngăn cản những bánh xe lăn. Ngoài ra, việc lái xe không kính cũng mang lại những trải nghiệm thú vị. Trong những đêm vận chuyển lương thực, gió và sao như ùa vào buồng lái, gió mạnh khiến mặt ai nấy đều đỏ ửng. Những ngày trời quang, bụi cuốn lên phủ trắng xe, khiến mặt mũi ai cũng như được trang điểm bằng phấn trắng. Các chú nhìn nhau, cười ha ha. Những ngày mưa, ngồi trong cabin chẳng khác gì ngồi ngoài trời, mưa xối thẳng vào buồng lái, nhưng các chú không dừng lại, vẫn tiến về phía trước, gió làm khô quần áo nhanh chóng.
Từ xa có tiếng hỏi:
- Thưa chú, trong những năm tháng oanh liệt ấy, điều gì khiến chú mãi không quên?
- Trong những năm tháng khốc liệt của chiến tranh, điều làm chú không thể quên là tình cảm đồng chí, đồng đội. Đó là nguồn sức mạnh tinh thần và động viên lớn lao, giúp các chú vững vàng tay lái và tiếp tục tiến lên. Những đoàn xe nối đuôi nhau ra chiến trường, tình cờ gặp nhau qua những ô kính vỡ, cái bắt tay vội vàng nhưng ấm áp đã truyền lửa và sức mạnh cho các chú. Trong những giờ phút nghỉ ngơi hiếm hoi, các chú quây quần, nấu bữa cơm đơn sơ giữa rừng, chỉ có cơm trắng và rau rừng, nhưng đầy ấm áp tình người. Sau bữa cơm, các chú lại nhanh chóng lên đường. Những năm tháng đó tuy gian khổ và đầy nguy hiểm, nhưng là những năm đẹp nhất trong cuộc đời, khi các chú sống trong tình đồng đội và phấn đấu vì lý tưởng cao đẹp của miền Nam độc lập và thống nhất.
Kết thúc buổi lễ, mọi người đều tràn đầy cảm xúc tự hào và biết ơn sâu sắc với thế hệ trước. Nếu không có sự hy sinh của các chú, hôm nay chúng tôi sẽ không có cuộc sống hòa bình và hạnh phúc. Vì vậy, tôi, một học sinh, luôn tự nhủ phải nỗ lực không ngừng, xây dựng đất nước, và báo đáp công ơn của thế hệ đi trước.
16. Bài viết kể về cuộc gặp gỡ với người lính lái xe trong 'Bài thơ về tiểu đội xe không kính' - mẫu 3
Vào ngày 27/07, nhân dịp kỷ niệm Ngày Thương binh Liệt sĩ, tôi cùng bà đến nghĩa trang tỉnh để thắp nén hương tưởng nhớ ông, người đã hy sinh vì cuộc chiến. Mỗi lần đến đây, tôi lại cảm thấy một nỗi buồn sâu lắng, có lẽ cũng là cảm xúc chung của những người có mặt ở đây. Trong khi đang đứng bên một nấm mộ, tôi bất ngờ gặp một người lính đang cúi đầu kính cẩn. Thật bất ngờ khi chú chính là người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” mà tôi đã học cách đây không lâu.
Người lính trẻ năm xưa giờ đây đã trở thành một người đàn ông chững chạc, trưởng thành. Chúng tôi ngồi xuống gần đó và chia sẻ với nhau những kỷ niệm vui buồn. Giọng nói của chú ấm áp và trầm lắng, lẫn trong tiếng cười là những hoài niệm về những năm tháng chiến tranh khốc liệt. Khi biết tôi yêu thích “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, chú cười hiền từ nhìn tôi.
Chú kể rằng, hồi đó chú là một trong những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn, mang theo vũ khí, lương thực, thuốc men để tiếp tế cho miền Nam. Tuyến đường Trường Sơn thời điểm đó thường xuyên bị bom đạn của quân Mỹ tấn công, khiến các xe của chú trở nên “không có kính”. Mặc dù vất vả và nguy hiểm, nhưng vì sự nghiệp giải cứu Tổ quốc, chú và các đồng đội luôn giữ thái độ lạc quan:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Cháu biết không? Dù xe không có kính, có vẻ bất tiện nhưng lại mang đến những niềm vui nhỏ trong hành trình đầy khói lửa. Trong buồng lái, chú và đồng đội đã tận hưởng tuổi trẻ với gió, con đường, sao trời và cánh chim. Những kỷ niệm ấy thật đáng nhớ phải không cháu?
Chú vừa kể vừa nở nụ cười hiền từ. Tôi có thể hình dung ra những anh lính trẻ tuổi lạc quan, tìm niềm vui trong những khó khăn. Họ là những người lớn lên trong thời chiến, đáp lời gọi quê hương. Lái những chiếc xe không kính qua chặng đường dài không dễ dàng chút nào, với bụi, mưa và gió tạt vào người. Dù đau đớn và lạnh lẽo, nhưng những người lính trẻ luôn xem đó là điều hiển nhiên và vui vẻ chấp nhận. Tôi hình dung nụ cười tươi tắn của những con người dũng cảm, “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.
Trên đường hành quân, chú đã gặp và làm quen với nhiều đồng đội khác, “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”. Dù là ai, gặp nhau trên đường ra trận thì đều như anh em một nhà. Những khoảnh khắc bên bếp cơm ấm cúng, bên chiếc võng đu đưa,… luôn là kỷ niệm đẹp trong lòng chú. Khi tiến gần miền Nam, cường độ bom đạn ngày càng dữ dội. Các xe ngày càng biến dạng “Không có kính, rồi xe không có đèn/ Không có mui xe, thùng xe có xước”, nhưng chúng vẫn kiên cường hướng về tiền tuyến. Chú tự hào rằng, dù xe có hỏng nhưng trái tim trong xe vẫn tràn đầy tình yêu miền Nam.
Ánh nắng đã lên cao, chiếu sáng gương mặt rạng rỡ của chú, nhưng vẫn lộ chút buồn trước sự hy sinh của đồng đội. Nhìn chú, tôi càng thêm kính trọng những người đã ngã xuống vì hòa bình, và tự nhủ phải nỗ lực học tập để trở thành người có ích cho quê hương.