Đề bài: Phân tích bài thơ 'Tiếng hát con tàu' của Chế Lan Viên.
Mở đầu với Tiếng hát con tàu 1
'Một cánh hoa rơi vô tình
Là tình yêu cuộc sống diệu kỳ
Mang đến hạnh phúc trong lòng...'.
(Khi đã biết phương hướng)
Không biết trong đời Chế Lan Viên đã viết bao nhiêu 'lời thơ đầy nước mắt', nhưng có nhiều bài thơ đẹp như 'một cánh hoa...'. 'Tiếng hát con tàu' chính là một trong số đó! Sáng tác vào năm 1960, bài thơ này là một phần của tập thơ 'Ánh sáng và phù sa' của Chế Lan Viên, một tập thơ đã gây ra sự chú ý lớn... nó đã là một bước đột phá quan trọng trong sự phát triển của thơ Chế Lan Viên cũng như của thơ Việt Nam nói chung... một phong cách mới, một cách tiếp cận mới, một cảm xúc mới đã xuất hiện.' (Từ cuốn 'Người làm vườn vĩnh cửu' của Trần Mạnh Hảo).
Mở bài Tiếng hát con tàu 2
Chế Lan Viên, một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng trước Cách mạng tháng Tám với tập thơ “Điêu tàn”. Sau khi tham gia vào cách mạng và chiến đấu chống Pháp, ông ít nói. Chỉ sau khi hòa bình được thiết lập, ông mới có những bài thơ hay. Bài thơ “Tiếng hát con tàu” trong tập thơ “Ánh sáng và phù sa” là một phản ứng thời sự đối với lời kêu gọi của quê hương để khai mở Tây Bắc. Mặc dù viết về một nhiệm vụ lịch sử, nhưng nhà thơ không chỉ trình bày một cách trừu tượng mà còn bày tỏ sự chân thành và cuồng nhiệt. Một vùng đất đẹp và anh hùng của quê hương hiện lên trong hình ảnh lấp lánh ánh sáng của trí tuệ. Tâm hồn của nhà thơ đã biến thành một chiếc tàu mộng, quay trở về với nhân dân cũng như với chính bản thân mình.
Mở bài Tiếng hát con tàu 3
“Tiếng hát con tàu” được Chế Lan Viên sáng tác vào năm 1960 và xuất hiện trong tập “Ánh sáng và phù sa”. Đó là thời điểm miền Bắc sau những năm chiến tranh đã chiến thắng, và bắt đầu quá trình phục hồi kinh tế, bắt đầu kế hoạch năm năm lần thứ nhất. Tình hình đặc biệt đã thúc đẩy các nghệ sĩ tạo ra một ý thức nghệ thuật mới, liên quan chặt chẽ đến việc xây dựng cuộc sống mới của nhân dân, tự nguyện đi đến các vùng miền khó khăn của đất nước, hòa nhập vào cuộc sống của nhân dân bởi vì chỉ có như vậy mới có thể tìm lại niềm hạnh phúc, mới có thể tìm thấy nguồn cảm hứng sáng tạo nghệ thuật.
Mở bài Tiếng hát con tàu 4
Chế Lan Viên (1920 - 1989) sinh tên là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ, Quảng Trị. Ông nổi tiếng từ sớm với tập thơ “Điêu tàn” xuất bản năm 1937 và được coi là một trong những nhà thơ lãng mạn tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Trước Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên đã viết: “Với tôi, tất cả đều vô nghĩa, Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau”, và đã cầu xin: “Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh, Một vì sao trơ trọi cuối trời xa”… để trốn tránh khổ đau và phiền não của cuộc sống. Sau Cách mạng, trong bối cảnh biến đổi kỳ diệu của đất nước và dân tộc, nhà thơ cũng đã trải qua một sự biến đổi để hòa nhập với cuộc sống xung quanh và cũng là để tìm về với chính bản thân mình.
Mở đầu với Tiếng hát con tàu 5
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã có một nhận định sâu sắc về phong trào thơ Mới giai đoạn 1932 -1941: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu…”. Và đã nhắc đến một đặc điểm độc đáo của Chế Lan Viên là những vần thơ đầy đau đớn buồn thảm, là những cảm xúc rối bời trước thực cảnh hoang tàn, hỗn loạn. Trong một tác phẩm của mình, ông viết: “Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh/Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!/Ðể nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh/Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo!”. Chỉ sau khi Cách mạng tháng tám thành công, hồn thơ của Chế Lan Viên mới có nhiều sự thay đổi mạnh mẽ, khiến cho nhà thơ hướng về cuộc sống với một tâm hồn nồng nàn và sôi động. Tất cả những đổi mới ấy có thể tìm thấy nhiều trong tập thơ “Ánh sáng và phù sa”, và trong số đó phải kể đến “Tiếng hát con tàu” với hai câu thơ đã ghi sâu vào ký ức của nhiều người “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.