Phân tích chi tiết hai bài thơ Bếp lửa hấp dẫn, được lựa chọn từ các tác phẩm văn hay của học sinh lớp 9 trên khắp cả nước, giúp học sinh lớp 9 có thêm tài liệu tham khảo để viết văn một cách dễ dàng hơn.
20+ Phân tích chi tiết hai bài thơ Bếp lửa
Dàn ý Phân tích chi tiết hai bài thơ Bếp lửa
I. Mở bài:
Giới thiệu về tác giả Bằng Việt và hai bài thơ Bếp lửa
Giới thiệu nội dung cần phân tích – hai khổ của hai bài thơ
II. Phần thân bài:
*Hướng dẫn:
Từ hình ảnh của chiếc bếp lửa, những kí ức về người bà đáng kính và những kỷ niệm khi tác giả còn 4 tuổi đã được đánh thức:
Khi lên bốn tuổi, tôi đã quen với mùi khói
Đó là năm nghèo đói, cảm giác bị kiệt sức,
Bố tôi đi kiếm sống, đưa xe chạy trên con đường đất
Tôi chỉ nhớ mùi khói thoang thoảng trong không gian
Nhớ lại, mùi khói đó vẫn cay đắng!
*Phân tích:
-Kỷ niệm về những năm tháng lên 4 tuổi gắn liền với mùi khói từ bếp lửa của người bà:
Khi lên 4 tuổi, tôi đã quen với mùi khói
Hương khói đã đánh thức nhiều cảm xúc
-Hình ảnh của cha
Đi làm để kiếm sống, mang về từng đồng tiền kiệt xu
Dày công vì cuộc sống khó khăn, mong muốn gia đình thoát nghèo nhưng vẫn 'đói khát không chịu nổi'
“đói khát không chịu nổi”: cảm giác đói kéo dài và không chịu được
Nạn đói năm 1945 lan rộng, lấy đi sinh mạng của vô số người
Quá khứ hiện về với sắc màu đau buồn
-“Nhớ lại, mũi vẫn cay đắng”
Cảm giác đói đến nỗi sâu thẳm đã ghi sâu vào kí ức của đứa trẻ chỉ mới lên 4 tuổi
Một tuổi thơ không phải lúc nào cũng rực rỡ như mọi người vẫn nghĩ
*Nghệ thuật đặc sắc:
Sử dụng thành ngữ “đói khát không chịu nổi”
Lối thơ truyền tải mạnh mẽ nỗi đau
Chi tiết ngôn từ đơn giản, chân thực.
III. Phần kết bài:
Tóm tắt lại nội dung của khổ thơ.
Đánh giá, nhận xét, và cảm nhận cá nhân
Phân tích chi tiết khổ 2 bài thơ Bếp lửa (mẫu 1)
Bằng Việt bắt đầu viết thơ từ những năm 60 của thế kỉ XX. Ông là một nhà thơ phát triển trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ của ông thường mang lại cảm giác trong sáng mượt mà “như những bức tranh lụa”; rất giàu cảm xúc và sâu sắc khi thể hiện về những kỷ niệm của thời thơ ấu, tuổi học trò, và tình cảm gia đình…
Bài thơ “Bếp lửa” là một trong những tác phẩm nổi tiếng, đặc sắc nhất của ông. Tác phẩm này được sáng tác vào năm 1963, khi ông là sinh viên ngành luật tại Liên Xô, là tập thơ đầu tiên của Bằng Việt, sau này được bao gồm vào tuyển tập “Hương cây – Bếp lửa” cùng với tác phẩm của Lưu Quang Vũ. Qua bài thơ này, độc giả có thể cảm nhận được mối quan hệ bình dị và sâu sắc giữa bà và cháu, với sự cảm động và thiêng liêng đầy kính trọng.
Bài thơ đưa ta đi qua một chuỗi cảm xúc từ quá khứ đến hiện tại, từ kỷ niệm đến suy ngẫm. Điều này được thể hiện qua hình ảnh của bếp lửa quê hương và hình ảnh của người bà. Từ đó, chúng ta thấy sự nhớ nhung của người cháu (cũng là Bằng Việt) về những kỷ niệm trong thời thơ ấu, được sống trong sự yêu thương và quan tâm của bà. Đồng thời, tác phẩm cũng thể hiện sự biết ơn và tôn trọng của người cháu dành cho người bà, gia đình, và quê hương.
Khi nhắc đến tuổi thơ, có lẽ trong mỗi chúng ta luôn thường trực nghĩ về những năm tháng đơn sơ, trong sáng, khi được sống trong sự đầy đủ cả về vật chất và tình thương của cha mẹ, người thân. Nhưng với những thế hệ như lớp nhà thơ Bằng Việt thì điều đó là điều xa vời khi họ phải trải qua những năm tháng bom đạn của chiến tranh, sự sống và cái chết chỉ cách nhau một cánh cửa.
Vì vậy, khi nhớ về tuổi thơ, những kỷ niệm trong kí ức hiện lên trong tâm trí của Bằng Việt với biết bao nỗi khổ, gian truân, thiếu thốn, vất vả. Kỷ niệm ấy là khi tôi lên bốn tuổi:
Khi tôi lên bốn tuổi, tôi đã quen với mùi khói
Đó là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói lúc nào cũng nằm nhèm trong mắt tôi
Nghĩ lại, giờ sống mũi vẫn còn cay!
Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” miêu tả sự cảm giác bị đói kéo dài làm cho mệt mỏi, rã rời và kiệt sức. Vì vậy, cái đói đã khiến cho cả con ngựa và người bố trở nên gầy gò, hình ảnh của người bố đi đánh xe chắc chắn cũng trở nên mờ mịt, tiêu tán, héo hon… tất cả đã khiến cho người đọc tràn ngập nỗi đau xót khi nhớ lại thảm họa đói nghèo trong năm Ất Dậu 1945. Lúc đó, tôi cùng bà nhóm lửa, khói bếp tỏa ra làm mắt tôi nhức nhối, “nhớ lại, giờ sống mũi vẫn còn cay”.
Làn khói đã in sâu vào tâm trí của tôi là biểu hiện của sự nghèo khó, sự đói khát, và của cuộc chiến loạn lạc trong tuổi thơ của tôi. Những câu thơ được viết ra bằng cảm xúc chân thành nên tràn đầy nước mắt và dày đặc làn khói. Giọng thơ chầm chậm thấm xuống vào một nỗi buồn đau đớn khi dòng hoài niệm về tuổi thơ tràn ngập trong lòng thi sĩ, khiến cho “mũi vẫn còn cay”.
Khổ thứ hai trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một đoạn thơ chứa đựng cảm xúc dồn dập, thể hiện sự độc đáo qua giọng điệu tâm tình, quyết tâm; nhịp điệu thơ linh hoạt, khiến cho lời thơ với hoài niệm nhớ thương tràn đầy, dâng cao lên, mỗi lúc càng thêm nồng nàn, ấm áp. Từ đó, khiến cho người đọc cảm thấy thật sâu sắc, xúc động trước nỗi nhớ da diết về những kỷ niệm tuổi thơ của tôi và cả tấm lòng chân thành của nhà thơ đối với người bà yêu quý.
Thấu hiểu những điều đó, chúng ta càng trân trọng hơn tình yêu đối với gia đình, với quê hương, đất nước. Từ đó, chúng ta mới thực sự cảm nhận hết được ý nghĩa của những lời bài hát của nhạc sĩ Trung Quân:
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người…
Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa (mẫu 2)
Bằng Việt là một trong những tác giả trẻ được đào tạo và phát triển trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ của Bằng Việt luôn tươi sáng, mượt mà, đầy cảm xúc, thường khám phá những ký ức của tuổi thơ và những hoài bão của tuổi trẻ.
Thành công lớn nhất của Bằng Việt chính là bài thơ Bếp lửa (1963). Đó là một tác phẩm thơ viết về tình cảm gia đình, tình thương quê hương. Tuổi thơ khó khăn, đầy gian khổ bên bà là điều mà tác giả mang theo suốt cuộc đời, nhưng những kỷ niệm đẹp đẽ, tình thương đậm đà của bà vẫn hiện hữu trong trí nhớ:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn còn cay!”
Dường như nỗi đau của tuổi thơ đã in sâu vào tâm trí tác giả. Nhớ về những ngày thơ ấu bên bà, tác giả cảm nhận được mùi khói vẫn còn ngấm ngầm trong không khí. Mùi khói từ bếp của bà không chỉ là mùi khói quen thuộc mà cháu phải chịu đựng từ khi còn nhỏ, mà còn là biểu tượng của cuộc chiến tranh, của nghèo đói, và của sự đấu tranh của dân tộc Việt Nam trong thời gian chiến tranh.
Mùi khói ấy không chỉ là do lửa từ bếp của bà, mà còn là mùi khói của bom đạn, của chiến tranh, là nỗi đau, cảnh cực, là sự gian khổ, khó khăn của cuộc sống của hai bà cháu và của người dân Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp, một thời kỳ đầy gian khổ, vất vả.
Tuổi thơ đó thật là khó khăn, vất vả và gian khổ. Đó là thời kỳ với ánh bóng u tối của nạn đói năm 1945. Cụm từ “đói mòn đói mỏi” đã diễn tả chân thực về nỗi khốn khó của con người, của cuộc sống trong giai đoạn đó. Ta không thể quên được những dòng thơ của Tố Hữu mô tả cảnh tượng của dân ta vào thời điểm đó:
“Con đói ôm lưng mẹ khóc
Mẹ chờ con đấu thóc cầm hơi
Kiếp người cơm vãi cơm rơi
Biết đâu nơi đây phương trời mà đi”.
Nỗi khổ đó đã được biểu hiện, hình tượng hóa thông qua những chi tiết mô tả:
“Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”
Bút pháp mô tả, kể chuyện đã kết hợp với nhau tạo ra sự xúc động trong lòng người. Câu thơ không chỉ mô tả cảnh tượng đáng sợ của “kẻ đói”, mà còn là nguyên nhân khiến đứa cháu phải ở lại với bà. Cái nghèo, cái đói lan tỏa khắp làng xóm khiến người bố phải rời làng đi kiếm sống ở thành phố cùng với những con người gầy gò vì không đủ ăn, để lại đứa con thơ cho người phụ nữ yêu thương, chăm sóc.
Cảm nhận về nỗi khó khăn, đói kém của tuổi thơ, những ký ức vẫn còn sống động, tác giả không thể nào quên:
“Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn còn cay!”
Cảm giác chát đắng, đớn đau của cuộc sống khó khăn, cảm xúc ẩn sau trong xương cốt, trong máu thịt và vẫn hiện hữu cho đến tận bây giờ, hơn mười năm sau khi suy ngẫm lại, cảm giác “cay” ấy vẫn còn đọng lại trong mũi. Vị cay đó lan tỏa, lan rộng trong tâm hồn của người cháu. Như một nỗi đau chua xót, lẫn lộn với tình yêu thương.
Lời thơ đơn giản, sâu lắng. Người đọc như đang bước vào một câu chuyện cổ tích về tuổi thơ của người cháu. Ở đây, bà là một bà tiên, luôn bên cạnh, chăm sóc, bảo vệ về cả tinh thần lẫn vật chất cho cháu. Tình thương yêu của bà, lòng nhân từ của bà như làm tan đi mọi đau khổ, mọi khó khăn của cuộc chiến tranh. Khổ thơ đã trở thành một trong những khổ thơ gây xúc động lòng người trong cả bài thơ.
Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa (mẫu 3)
Tình cảm gia đình, một chủ đề quan trọng trong văn học Việt Nam, đã được nhiều tác giả tài năng khai thác, nhiều tác phẩm xuất sắc viết về gia đình - nguồn gốc, nơi yêu thương trong cuộc sống của mỗi người. Chúng ta đã từng cảm động trước tình yêu của ông Sáu và bé Thu trong Chiếc lược ngà, đã bị rung động bởi tấm lòng của người mẹ trong Con cò của Chế Lan Viên, và chắc chắn chúng ta không thể quên được hình ảnh của một người bà tận tụy, vẫn làm việc từ sáng đến tối, vì con, vì cháu, tràn đầy tình yêu trong Bếp lửa của Bằng Việt.
Bài thơ viết về bà, về những kí ức tuổi thơ gian khổ nhưng ấm áp bên bà, đặc biệt trong khổ thơ thứ 2, tác giả đã tái hiện một cách đầy cảm xúc về những ngày tháng sống bên bà:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn còn cay!”
Khi trưởng thành, những kí ức về những ngày tháng sống bên bà vẫn là những kí ức đẹp đẽ, là “hành trang” ấm áp, có giá trị nhất mà người cháu luôn mang theo bên mình.
“Lên bốn tuổi, đã quen mùi khói.”
Kí ức về năm lên bốn vẫn hiện hữu, mùi khói bếp lửa gợi lại những kỷ niệm về tuổi thơ khó khăn và những nỗi nhớ mãi không phai. Mùi khói từ bếp lửa, biểu tượng của tình thương mỗi ngày cháu được bên cạnh bà.
Trong những năm ấy, bên bếp lửa, cháu và bà chia sẻ những bữa ăn khiêm nhường, mùi khói vẫn vương vấn trong ký ức ấm áp và khó khăn của tuổi thơ. Mùi khói trở nên thân thuộc, trở thành một phần không thể thiếu của tuổi thơ cháu. Mặc dù tuổi thơ không phải là sự hoàn hảo, nhưng vẫn đầy hạnh phúc khi được sống trong tình yêu thương và sự chăm sóc của người bà yêu quý.
“ Năm ấy, đó là năm đói khổ và cơ cực.
Bố đi làm, xe mảnh ngựa gầy.
Hiện thực khắc nghiệt của những năm tháng tuổi thơ được mô tả thông qua lời thơ sâu lắng. Hai câu thơ ngắn gợi lên cảnh đời khốn khó, cảnh giặc đói, cảm giác cơ cực của người dân trong thời kỳ đó. Trong cảnh khốn cùng của nạn đói, người dân phải chịu đựng, ngôi làng của tác giả phải trải qua sự cảm giác “đói mòn”, “đói mỏi” do sự tàn phá của kẻ thù.
Bố phải vất vả kiếm sống, lao động mệt mỏi hàng ngày, cùng với chiếc xe mảnh và ngựa gầy. Sự nghèo đói của quê hương đã in sâu trong tâm trí tác giả từ khi còn là một đứa trẻ 4 tuổi. Đọc những dòng thơ đó, ai cũng cảm thấy xót xa với cuộc sống khó khăn, nhọc nhằn của những người lao động nghèo, đồng cảm với họ.
Nhớ về những năm tháng xưa, lòng nhà thơ như trào dâng:
“Nhớ mãi mùi khói từng nồng nàn
Nghĩ lại, cay đắng lòng vẫn còn”
Kí ức sâu đậm trong lòng khiến con cháu cảm nhận hết vị cay đắng quen thuộc của mùi khói. Khi nhớ lại, mọi cảm xúc như vỡ òa, khiến “lòng vẫn còn cay”. Những kỷ niệm yêu thương với bà và cả những nỗi đau, cay đắng của cuộc sống khó khăn vẫn luôn hiện hữu.
Với bút pháp tả, kết hợp biểu cảm, ngôn từ thơ mộc mạc, đơn giản nhưng sâu lắng, tác giả đã làm xúc động lòng người chỉ qua năm câu thơ ngắn. Mùi khói từ bếp lửa, từ đôi tay gầy guộc của bà đã thức tỉnh trong lòng con cháu bao nhiêu tình cảm chân thành, hồn hậu và đẹp đẽ. Đọc những dòng thơ này, ta lại càng yêu quý, thêm tự hào về quê hương mình, cảm thấy nghẹn ngào và xúc động với những người bà trân trọng bên cháu:
“Đôi mắt già thấm yêu thương rất sâu
Dù da dẻ già đi tấm lòng vẫn rộng mở
Bà kiên nhẫn, hy vọng mãi không phai
Chỉ ngày qua đi, ít lời hơn nữa”
Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa (mẫu 4)
Gia đình là nơi ấm áp, là mái nhà yên bình, là nơi mỗi người tìm thấy sự chăm sóc và an toàn. Vì thế, tình cảm gia đình luôn là một chủ đề quen thuộc trong văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Như nhiều nhà thơ khác, Bằng Việt đã dũng cảm thể hiện tình cảm chân thành của mình đối với người bà đáng kính qua bài thơ “Bếp lửa”.
Đây là một trong những bài thơ rất hay và cảm động về tình cảm gia đình và những kỷ niệm tuổi thơ sống bên người bà mà khổ thơ thứ hai đã diễn tả. Đọc thơ, ta như được sưởi ấm bên Bằng Việt, với ngọn lửa ấm áp của tình người cao đẹp.
Năm lên bốn, quen khói bếp thơm ngát
Năm ấy, đói khó khăn, đầy bất an
Bố lao động, chiến đấu, đêm ngày mệt mỏi
Mắt cháu cay đắng khói bếp vẫn hiện trong tim
Nhớ lại, sống mũi vẫn còn chát
Bài thơ “Bếp lửa” ra đời năm 1963, khi Bằng Việt đang ở nước ngoài du học luật. Nó là lời thanh minh, biểu lộ lòng của đứa cháu xa quê nhớ nhung gia đình, quê hương với niềm thương tiếc không tận. Sâu trong ký ức tuổi thơ, một tuổi thơ không mấy phú quý, năm lên bốn tuổi:
“Năm lên bốn, quen khói bếp thơm ngát”
Nhớ về năm lên bốn, hình ảnh khói bếp trở nên sống động. Đó là dấu vết về cuộc sống của hai bà cháu trong những ngày xưa. Trong khói bếp, cảm xúc tỏ, mờ dần, với sự cay đắng và đôi khi là mơ hồ. Tuổi thơ không phải là thời kỳ của sự phồn thịnh, mà là thời gian đầy những khó khăn:
“Bố lao động, chiến đấu, đêm ngày mệt mỏi”
Hình ảnh của bố, trụ cột gia đình, hiện ra với nỗi đau: đêm ngày lao động mệt mỏi. Bố cố gắng vất vả để nuôi sống gia đình nhưng vẫn không đủ khả năng chăm sóc đầy đủ cho mọi người. Dường như lời thơ đưa chúng ta về với năm đói 1945. Nỗi đói dai dẳng đã cướp đi sinh mạng của nhiều người. Tuổi thơ, nhà thơ chứng kiến một cảnh bi thương, đầy khổ đau.
Đến đây, giọng thơ như chìm vào sâu thẳm lòng người. Đọc thơ này, người ta cảm thấy xúc động và có thể rơi nước mắt. Tất cả là một nỗi đau, một tuổi thơ đầy những biến động, không hề dễ dàng như mọi người từng nghĩ. Có lẽ ký ức, kỉ niệm quá sâu đậm, khiến cho đến tận bây giờ, khi nhớ lại, người thơ vẫn cảm thấy nghẹn ngào trong lòng:
Nhớ lại, sống mũi vẫn còn đắng
Từ ngôn ngữ thơ mộc mạc, chúng ta cảm nhận được sâu sắc về quãng thời gian đầy khó khăn, vất vả. Mùi khói từ bếp lửa của bà đã thức tỉnh trong lòng người cháu những kỷ niệm khó quên. Mặc dù khó khăn, nhưng đó cũng là thời gian tràn đầy tình yêu thương của bà:
“Đôi mắt càng già càng thấm thía yêu thương
Dù da dẻ khô đi tấm lòng không hẹp lại
Giàu kiên nhẫn bà còn hi vọng mãi
Chỉ mỗi ngày rắn lại ít lời thêm”
Giọng thơ tha thiết, trìu mến, trầm lắng của tác giả đã truyền đạt về kỷ niệm khi lên bốn tuổi cùng những hình ảnh khó quên. Đọc thơ, lòng người không khỏi nghẹn ngào và đau đớn.
Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa (mẫu 5)
Trong cuộc sống, mỗi người đều có những kí ức đẹp đẽ về tuổi thơ trong sáng. Những kí ức đó là nguồn động viên vô cùng quý báu trong cuộc sống. Bằng Việt cũng có kỉ niệm riêng của mình, đó là những ngày sống bên bà, bên bếp lửa thân thương. Bài thơ 'Bếp lửa' không chỉ là hồi tưởng mà còn là biểu hiện của tình cảm sâu đậm giữa hai bà cháu.
Kỷ niệm và suy tưởng của người cháu ở xa về gia đình và quê hương đã gợi lại những cảm xúc về tình thân bà cháu cũng như lòng biết ơn sâu sắc đối với gia đình và quê hương.
Hình ảnh của bếp lửa đánh thức những ký ức tuổi thơ gian khổ của tác giả bên người bà. 'Bếp lửa' đã đánh thức mọi cảm xúc về bà, những kỷ niệm trỗi dậy:
Lên bốn tuổi, cháu đã quen với mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn, đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy.
“Đói mòn, đói mỏi” như một câu tục ngữ, gợi nhớ về nỗi đói cơ bản khiến con người kiệt sức. Những dòng thơ như một bức tranh tái hiện thời kỳ thơ ấu của cháu đầy khó khăn, thiếu thốn, gặp nhiều khó khăn, vất vả, có bóng tối ám ảnh của nạn đói năm 1945. Những kỷ niệm ùa về, làm rung động lòng người:
“Chỉ nhớ khói, mờ mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống, mũi còn cay!”
Mùi khói bếp cay nồng như vừa mới nhen nhóm, tồn tại ngay hôm qua. Nó làm sâu sắc vào tiềm thức của nhà thơ. Đọc thơ, cảm giác cay cay mũi lại trỗi dậy. Từ trong sương khói mịt mờ của tuổi thơ, 'bếp lửa' đã đánh thức kỷ niệm về tuổi thiếu niên trong thời kỳ đất nước đang chịu chiến tranh.
Chính mùi khói đã xua đi cái mùi tử khí khắp nơi. Cũng chính mùi khói ấy đã hòa quện vào tâm hồn của đứa trẻ. Dù thời gian trôi qua, nhưng những ký ức ấy vẫn còn sâu trong lòng đứa cháu, khiến cho khi nhớ lại, cảm giác cay còn vương vấn. Liệu đó có phải là mùi khói làm cay mắt hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt?
Thông qua từng câu trong bài thơ, hình ảnh người bà hiện ra lung linh, đẹp đẽ, đáng quý trọng và đầy tình yêu thương trong trái tim của tác giả. Hình ảnh đó gắn liền với bếp lửa bằng một vẻ đẹp bình dị trong cuộc sống hàng ngày. 'Bếp lửa' là nguồn gốc của những kỷ niệm ấm áp, thắm thiết, rất thiêng liêng, là sự bảo vệ và nuôi dưỡng tâm hồn suốt cuộc đời.
Đánh giá và phân tích bài thơ Bếp lửa (mẫu 6)
Nhà thơ Bằng Việt sinh vào ngày 15/06/1941, quê ông tại xã Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội. Bằng Việt là một trong số các nhà thơ thế hệ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của văn học dân tộc với nhiều tác phẩm có giá trị. Thơ của Bằng Việt sâu lắng, mượt mà và tươi trẻ. Nhiều bài thơ đã tận dụng tối đa những ký ức và ước mơ của tuổi trẻ.
Bài thơ Bếp Lửa được viết vào năm 1963 khi Bằng Việt mới 19 tuổi và đang du học ở Liên Xô. Trong niềm nhớ nhà, quê hương và người bà thân yêu, những ý thơ tự nhiên và bình dị đó tuôn trào để tạo nên một tác phẩm đặc biệt. Bài thơ Bếp Lửa đã khơi gợi những kỷ niệm đầy xúc động về tình cảm giữa bà và cháu, về những thời gian khó khăn trong ký ức của nhà thơ, từ đó thể hiện tình yêu quê hương và đất nước một cách tinh tế.
Hình ảnh của bếp lửa quê nhà đã đánh thức cảm xúc, với những kỷ niệm quen thuộc, gần gũi và ấm áp. Trong lúc nhớ nhà, nhớ quê hương đậm đà nơi xa xôi, lòng Bằng Việt tràn đầy tình thương với người bà của mình. Khổ thơ thứ hai là một dòng hồi tưởng về những năm tháng sống bên bà, liên quan chặt chẽ với hình ảnh của bếp lửa.
“Lên bốn tuổi, cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn, đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói, mờ mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống, mũi còn cay!”
Những câu thơ đơn giản, nhẹ nhàng như lời tâm sự. Câu chuyện về tuổi thơ với nhiều kỷ niệm bên bà được kể một cách tự nhiên. Câu chuyện tuổi thơ không chỉ có bà Tiên, không chỉ có những điều kỳ diệu, mà còn là về bà và bếp lửa đong đầy tình thương. Ở đây, chúng ta cảm thấy xúc động biết bao.
Trong những ngày nghèo đói kinh hoàng của năm 1945, khi thời kỳ nghèo đói, khốn khó, bà đã luôn bên cạnh nhà thơ, xua tan bớt nỗi khổ của thời kỳ đó. Mùi khói từ bếp lửa đã trở thành một phần của ký ức của đứa cháu nhỏ. Đứa trẻ ấy đã được sống trong tình yêu thương, sự che chở từ bà. Những kỷ niệm ngọt ngào liên quan đến mùi khói - kỷ niệm có bà, có bếp lửa ấm áp - vẫn đọng mãi trong trái tim.
Với câu thơ “Năm đó là năm đói mòn đói mỏi”, người đọc mới cảm nhận được khó khăn thiếu thốn vào thời điểm ấy. Tất cả những kỷ niệm đó vẫn sống mãi trong trí nhớ của đứa cháu 4 tuổi và cả người con xa nhà. Dù thời gian trôi qua có làm phai nhòa đi chút kỉ niệm, nhưng khi nhớ lại, cảm giác sống mũi vẫn còn cay. Ở đây, có nhớ nhung, có kỷ niệm về mùi khói làm cay mắt cháu hay chính là tấm lòng của người bà dành cho cháu khiến người cháu xúc động?
Bài thơ chính là ký ức của tác giả về người bà yêu quý của mình. Bài thơ giúp người đọc hiểu được sự nhớ nhung sâu sắc của nhà thơ về người bà, về quê hương yêu dấu. Từ đó, chúng ta học cách trân trọng, yêu thương gia đình và người thân hơn.
Phân tích khổ thơ 2 bài thơ Bếp lửa (mẫu 7)
Quê hương, gia đình, làng xóm là những kỷ niệm đẹp đẽ, giản dị và gần gũi với những ai ở xa quê. Đối với nhà thơ Tế Hanh, quê hương là làng chài ven biển “nước bao vây cách biển nửa ngày sông”; với nhà thơ Đỗ Trung Quân thì “Quê hương là chùm khế ngọt”, “là con diều biếc”… Nhưng với Bằng Việt, quê hương của ông được biểu hiện qua một hình ảnh rất quen thuộc, bình dị, mộc mạc – Bếp lửa. Xuất hiện năm 1963, bài thơ “Bếp lửa” cũng là dòng cảm xúc thể hiện lòng kính yêu với bà và niềm nhớ mong về bà của tác giả.
Trong bài thơ, có hai hình ảnh nổi bật, gắn bó mật thiết với nhau, vừa tách biệt, vừa xen lẫn, tỏa sáng cùng nhau. Đó là hình ảnh người bà và bếp lửa. Tại sao trong hồi ức và suy tư của nhà thơ, hai hình ảnh ấy lại luôn liên kết, song hành, hiện diện cùng nhau? Bởi bà luôn ở bên cạnh bếp lửa. Bên bếp lửa là hình bóng của bà. Bà gắn bó với bếp lửa mỗi sáng, mỗi chiều và suốt cả cuộc đời trong mọi hoàn cảnh: từ những ngày khó khăn đến lúc bình yên.
Bếp lửa còn là biểu tượng đầy ý nghĩa: nó thể hiện sự quan tâm, chăm sóc và yêu thương của người bà dành cho cháu con. Bếp lửa là biểu hiện của tình thương bà dành cho cháu. Bếp lửa là tay bà chăm sóc. Bếp lửa gắn bó với những vất vả, cực nhọc của cuộc sống bà. Hằng ngày, bà gắn bếp lửa là hằng ngày đầy sự sống, niềm vui, tình thương, hy vọng cho cháu con, cho mọi người.
Trong khổ thơ đầu tiên, hình ảnh đầu tiên được tác giả tái hiện là hình ảnh một bếp lửa ở làng quê Việt Nam thời thơ ấu:
Một buổi sớm, bếp lửa khói mây len lỏi
Một chiếc bếp lửa âm ấm yêu thương đong đầy
Cháu thương bà biết bao nắng mưa.
Ba câu đầu tiên đã diễn tả cảm xúc và ký ức của tác giả về bếp lửa và người bà, là một sự tóm tắt về tình cảm của người cháu dành cho cuộc sống bận rộn của người bà. Ba từ “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành một điều mở đầu với âm điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh của “bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai nhạt trong tâm trí của nhà thơ. “Bếp lửa khói mây len lỏi” là một hình ảnh quen thuộc đối với mỗi gia đình Việt Nam, mỗi buổi sáng.
Hình ảnh của bếp lửa thực sự ấm áp giữa những cơn sương sớm, thật thân thuộc với những cảm xúc “âm ấm yêu thương đong đầy”. Từ “len lỏi” thực sự thể hiện, gợi lại cảm giác, gợi nhớ đến hình ảnh lung linh, nhấp nhô của ngọn lửa trong ký ức. Từ “âm ấm” mô tả bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và trái tim đầy tình của người làm bếp, lại rất chính xác với công việc nấu nướng cụ thể.
Một cách tự nhiên, hình ảnh của bếp lửa đã làm nảy nở tình cảm: “Cháu thương bà biết bao nắng mưa”. Tình cảm đầy đủ của cháu đã được biểu hiện một cách trực tiếp và đơn giản. Đằng sau sự đơn giản ấy là tấm lòng, sự thấu hiểu đến từng phần nhỏ nhặt của cuộc sống bận rộn, khó khăn của người bà.
Theo dòng ký ức đó, Bằng Việt trở lại với những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn, đầy khó khăn, mùi khói phủ lên mọi ngóc ngách:
Khi chưa đầy bốn tuổi, cháu đã quen với mùi khói
Năm ấy là năm nghèo đói đến tận xương tủy
Bố phải đi làm xe rác, ngựa gầy đói meo
Chỉ biết nhớ mùi khói, cay mắt cháu
Nghĩ lại thấy mũi vẫn còn cay.
Tuổi thơ ấy chứa đựng bóng tối của nạn đói năm 1945. Hơn hai triệu người dân Việt Nam chết đói vì chính sách tàn bạo của giặc Nhật, giặc Pháp. Những người còn sống thì “đau đớn như những bóng ma”. Nạn đói đã chi phối văn chương Việt Nam một thời, đói đến mức phải ăn đất sét (trong văn của Ngô Tất Tố), những lo lắng về đồ ăn luôn ám ảnh tâm trí của Nam Cao… Đến mức nhà thơ Chế Lan Viên từng tóm gọn trong một câu thơ đau lòng: “Cả dân tộc đói nghèo như đám rơm”.
Hình ảnh “bố đánh xe khô rạc ngựa gầy” cũng phần nào thể hiện được hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của gia đình tác giả trong hoàn cảnh khó khăn chung của những người lao động. “Đói mòn đói mỏi”, “khô rạc ngựa gầy” - những chi tiết thơ thực tế đã tái hiện lại hình ảnh xóm làng xơ xác, tiêu điều cùng với những con người tiều tụy, vật lộn mưu sinh. Không trải qua cái đói quay, đói quắt thì Bằng Việt chẳng thể viết được những câu thơ chân thực như thế!
Ấn tượng nhất đối với cháu trong những năm đói khổ là mùi khói bếp của bà – mùi khói đã hun mắt cháu để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi vẫn còn cay”. Cái cay vì khói bếp của cậu bé bốn tuổi và cái cay bởi xúc động của người cháu đã trưởng thành khi nhớ về bà hòa quyện. Quá khứ và hiện tại đồng hiện trên những dòng thơ. Điều này cho thấy, mùi khói bếp của bà có sức ám ảnh, làm lay động cả thể chất và tâm hồn của cháu.
Trong 2 khổ thơ đầu, Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng “bếp lửa” vừa mang ý nghĩa thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Giọng điệu tâm tình trầm lắng, giàu suy tư đã làm say lòng người đọc. Và bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt như một triết lí thầm kín. Những gì đẹp đẽ của tuổi thơ đáng được trân trọng và nó sẽ nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Bằng Việt đã thể hiện lòng yêu thương, biết ơn bà sâu sắc. Lòng biết ơn chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu quê hương, đất nước khi đã đi xa.
Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa (mẫu 8)
Bài thơ Bếp lửa được sáng tác vào năm 1963 khi Bằng Việt đang du học ở nước ngoài. Đây là một trong những sáng tác đầu tiên của ông nhưng ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến nay “Bếp lửa” vẫn luôn có một vị trí riêng trong nền thi ca Việt Nam. Bài thơ được in trong tập “Hương cây – Bếp lửa” vào năm 1968. Đây cũng được coi là một trong những thi phẩm hay nhất về tình bà cháu trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
Bố cục bài thơ đi theo dòng cảm xúc từ hồi tưởng đến hiện tại, từ ký ức đến những suy ngẫm sâu xa. Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh bếp lửa, gợi nhớ lại những kỷ niệm trong quá khứ để từ đó người cháu trưởng thành hơn, suy ngẫm sâu hơn, thấu hiểu bà hơn để rồi gửi nỗi nhớ mong được gặp bà trong tình cảnh xa xôi.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa quen thuộc của làng quê Việt Nam để từ đó gợi nhớ người cháu về bà. Trong khổ thơ tiếp theo là những ký ức về những năm tháng cháu được sống bên bà. Hằn sâu trong trí nhớ là kỷ niệm của người cháu khi lên bốn tuổi:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Đoạn thơ vừa là ký ức về một tuổi thơ gian khổ của cháu vừa gợi nhắc về nạn đói khủng khiếp năm bốn lăm. Những câu thơ làm ta nhớ đến: “Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” trong “Vợ nhặt” của Kim Lân. Và người cháu đã lớn lên trong tình cảnh như thế.
Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” cùng với hình ảnh tả thực “khô rạc ngựa gầy” đã diễn tả vô cùng chân thực tình cảnh đói khổ, mệt mỏi, kiệt cùng sức lực mà nạn đói đã lấy đi của những con người trong thời kỳ đó. Thế nhưng, còn hơn cả cái đói, cái nghèo, hình ảnh mà người cháu nhớ nhất là khói – khói của những bếp lửa bập bùng, của những kỷ niệm về năm tháng đói khổ, cơ cực mà cháu đã cùng bà trải qua. Và dù cho năm tháng đó có trôi qua từ rất lâu thì những ký ức đó cho đến giờ vẫn khiến cháu cay xè khóe mắt khi nhớ tới.
Vẫn là hình ảnh bếp lửa, bếp lửa mờ mờ khói nhưng đã khơi lên biết bao cảm xúc chân thật, bao tình cảm, bao nhớ thương và cả những giọt nước mắt nơi người đọc. Thơ là phải đi từ trái tim đến trái tim và tôi tin rằng những câu thơ này của Bằng Việt đã làm được điều đó.
Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến tận hôm nay “Bếp lửa” vẫn luôn có chỗ đứng riêng của nó. Bằng những hình ảnh chân thực cùng tất cả tình cảm chân thành Bằng Việt đã thật sự chạm đến trái tim người đọc qua từng câu, từng chữ của mình.
Phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa (mẫu 9)
Tình yêu thương, lòng biết ơn và ký ức tuổi thơ luôn là hành trang quý giá nâng bước chân ta vào đời. Ai cũng có thể cảm nhận được niềm hạnh phúc trong vòng tay che chở của mẹ, sự ấm áp của tình cha. Nhưng, cuộc sống của chúng ta sẽ trọn vẹn và giàu ý nghĩa hơn nếu tuổi thơ chúng ta có một người bà để yêu quý bà và được bà yêu quý.
Bắt nguồn từ cảm xúc đó, bài thơ Bếp lửa được viết ra khi nhà thơ Bằng Việt vẫn là sinh viên đang du học tại Liên Xô. Bài thơ là một dòng chảy của kỷ niệm về người bà yêu quý, về những kỷ niệm ngọt ngào của tuổi thơ. Nhớ mong đã khiến cho những dòng hồi tưởng trỗi dậy, mở ra một dãy ký ức đẹp về một thời thơ ấu qua từng câu thơ.
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Bốn tuổi là độ tuổi nhỏ bé, chưa bước chân vào trường mầm non, nhưng trong tâm trí non nớt, cháu đã có hình ảnh của bà. Mùi khói không chỉ là hơi khói từ bếp cơm, mà còn là hơi thở của bà, làm cho nó trở thành một phần không thể thiếu trong ký ức của cháu.
Chao ôi, tuổi thơ của cháu thật sự đầy ý nghĩa với sự hiện diện của bà, dù trong bóng tối của nạn đói năm 1945. Nhưng câu thơ đầy ám ảnh:
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Cụm từ 'đói mòn đói mỏi' không chỉ tường thuật về cảnh khó khăn, thiếu thốn, mà còn thể hiện sự kiên nhẫn, sức mạnh vượt qua của con người. Hình ảnh con ngựa gầy mòn mỏi, đòi hỏi sự biết ơn và sự thông cảm của người đọc. Sức mạnh của con ngựa biểu hiện sức mạnh và sự kiên trì của con người, nhấn mạnh rằng trong hoàn cảnh khó khăn nhất, con người vẫn giữ vững bản lĩnh và lòng can đảm.
Cháu nhớ tất cả, nhưng tại sao chỉ nhớ về khói? :
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Sức trai tráng của bố dường như đã cạn kiệt, huống chi bà già yếu, mong manh? Có lẽ bà đã chịu đựng nhiều, yêu thương nhiều, khổ cực nhiều! Tác giả không đề cập đến những gian khổ, nhọc nhằn. Chỉ biết ký ức ấy không bao giờ phai nhạt, khiến cho lòng đau xót mỗi khi nhớ lại. Trong gia đình ba thế hệ ấy, bà có lẽ là người yếu đuối nhất nhưng cũng là mạnh mẽ nhất, quan trọng nhất. Dường như bà không bao giờ gục ngã, vì thế con cháu cũng không thể. Bà của cháu là biểu hiện của sự kiên cường và nhẫn nại!
Bài thơ được sáng tác khi tác giả đang học tại Liên Xô, nơi có nhiều bếp ga, bếp điện. Nhưng người cháu không quên hình ảnh bếp lửa ấm áp ở quê nhà. Nhớ về bếp lửa cũng là nhớ về bà, là nhớ về quê hương, nơi mà trái tim hòa mình trong tình yêu Tổ quốc! Bà không chỉ là biểu tượng của quê hương mà còn là biểu tượng của Tổ quốc! Tình thương và lòng biết ơn đối với bà là biểu hiện sâu sắc của tình yêu gia đình và đất nước. Đó cũng là khởi đầu của tình yêu với đất nước và nhân dân.