
Bài văn phân tích Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu bao gồm dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài văn mẫu xuất sắc nhất, được tuyển chọn từ những bài văn đạt điểm cao của học sinh lớp 12. Mong rằng, với 4 bài phân tích Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu này, các bạn sẽ thấy hứng thú và có thêm động lực để viết văn tốt hơn.
20+ Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu - Phân tích sâu sắc và chi tiết về tinh thần yêu nước trong tác phẩm văn học nổi tiếng của Tố Hữu.
Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu - mẫu 1
Tác phẩm của Tố Hữu thường nhấn mạnh vào tư tưởng cách mạng và những sự kiện lịch sử của dân tộc, đặc biệt là trong tác phẩm Việt Bắc. Tính dân tộc trong tác phẩm này được thể hiện một cách sâu sắc và bền vững, là một phần không thể thiếu trong văn học cách mạng.
Việt Bắc không chỉ là một bài thơ mà còn là một biểu tượng của sự kiên định và đồng lòng của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến giành độc lập và tự do. Tác phẩm tái hiện một cách tinh tế vẻ đẹp của thiên nhiên và tinh thần dân tộc Việt Nam.
Bên cạnh việc phản ánh vẻ đẹp của tự nhiên, tác phẩm cũng nhấn mạnh vào ý nghĩa lịch sử và tinh thần của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và xây dựng đất nước.
'Tả về mình có nhớ ta,
Ta về, mình nhớ hoa cùng người,
Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi,
Đèo cao, nắng ánh, dao cài thắt lưng,
Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón, chuốt từng sợi giang,
Ve kêu, rừng phách đổ vàng,
Nhớ em gái hái măng một mình,
Rừng thu, trăng sáng Hòa Bình,
Người hát tiếng ân tình thủy chung'.
Thiên nhiên ở Việt Bắc thật tuyệt vời, hài hòa và đa dạng, cảnh sắc thiên nhiên thay đổi theo mùa, mỗi mùa lại mang lại vẻ đẹp riêng biệt nhưng vẫn tương đồng. Mùa xuân, mọi thứ khoác lên mình áo choàng trắng tinh khiết của hoa mơ. Hoa mơ mang lại vẻ đẹp thanh nhã, thuần khiết cho không gian mùa xuân, và khi mùa xuân qua, mùa hạ đến, Việt Bắc lại đổi mới với màu vàng của hoa phách, tạo nên vẻ đẹp đặc trưng của mùa thu. Mùa thu ở Việt Bắc là thời điểm mê hoặc, huyền bí với ánh trăng mơ màng, mang theo hi vọng và niềm tin. Mùa đông, rừng Việt Bắc vẫn xanh tươi và sôi động, không lạnh lẽo như mùa đông ở những nơi khác, mà thật ấm áp và đầy sức sống. Đó là điều đặc biệt chỉ có ở Việt Bắc.
Tính dân tộc trong thi phẩm này còn được thể hiện qua việc tác giả ca ngợi lòng tự hào về cuộc chiến tranh của dân tộc. Tố Hữu đã lồng ghép lịch sử hào hùng một cách thực tế và lãng mạn, thể hiện sự tự hào của người Việt Nam về đất nước.
'Đường Việt Bắc, lòng ta nhớ,
Đêm đêm rộn ràng, như đất rung,
Quân đội tiến bước liên tiếp,
Ánh sao soi đầu khẩu súng, bạn đồng chiến hữu cùng áo mũ,
Dân quân bốn phía rực lửa cháy sáng,
Bước chân đạp vỡ đá, lửa bốc lên hàng ngàn,
Đêm đêm sương dày mịt mùng.'
Trên vùng đất núi rừng hùng vĩ, đầy hiểm nguy, quân đội của chúng ta ngày đêm chuẩn bị cho cuộc chiến, những cuộc di chuyển trong bóng tối với sự kiên nhẫn và dũng cảm của quân dân được tái hiện một cách trang trọng, oai nghiêm. Những bước chân của quân đội trở nên mạnh mẽ, có khả năng làm tan nát cả đá, khuấy động không gian. Qua cuộc di chuyển ở Việt Bắc, Tố Hữu ngầm ca ngợi cuộc kháng chiến anh hùng của dân tộc Việt Nam, khơi dậy tinh thần yêu nước, tự hào về đất nước.
Ngoài vẻ đẹp của thiên nhiên, Tố Hữu cũng tôn vinh vẻ đẹp truyền thống của con người Việt Nam. Hình ảnh người mẹ vất vả địu con đi làm nương để nuôi gia đình là hình ảnh rất cảm động, chân thực được Tố Hữu thể hiện qua ngòi bút của mình.
'Nhớ mẹ nắng cháy gáy,
Mang con lên đồng bắp lúa'.
Con người ở đây chân thành, giản dị và phát triển, cuộc sống bình dị nhưng họ luôn yêu lao động, chăm chỉ, kiên nhẫn. 'Nhớ người đan nón từng sợi chỉ', 'Nhớ em gái hái măng một mình', và trong tác phẩm của Tố Hữu, sự thủy chung và tình nghĩa của con người Việt Bắc được thể hiện rõ. Đây cũng là vẻ đẹp truyền thống của con người Việt Nam, khi họ đồng lòng, chia sẻ khó khăn với cách mạng.
'Thương nhau chia xôi nước,
Cơm chén nhỏ bằng chung gối'.
Đó là những ngày tháng dài đầy tình thương, nghĩa cử vững chắc, vững bền.
'Nhớ tiếng hát đầy thủy chung'.
Thêm vào đó, người dân Việt Bắc cũng là những tinh thần lạc quan, yêu đời, 'gian nan cuộc sống vẫn ngân nga nơi núi đèo'. Đối với họ, dù cuộc sống có khó khăn đến đâu, mỗi ngày gắn bó với cách mạng lại là một ngày hạnh phúc. Dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, họ vẫn mạnh mẽ, tin vào một tương lai tươi sáng. Tất cả những phẩm chất, từ chăm chỉ, kiên trì, yêu lao động, đến lòng thủy chung, tinh thần lạc quan của người Việt Bắc hoàn toàn tương đồng với phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam từ xưa đến nay. Điều này chứng tỏ Việt Bắc đã thành công trong việc tái hiện và tôn vinh tinh thần dân tộc, giúp cho tác phẩm trở nên gần gũi hơn với độc giả, từ đó phản ánh rõ nét tính dân tộc sâu sắc.
Về mặt hình thức, Việt Bắc sử dụng thể thơ lục bát, một thể thơ truyền thống của dân tộc, nhưng lục bát ở Việt Bắc gần gũi với lục bát trong ca dao, kết hợp với lối nói tiểu đối để tạo nên bài thơ sâu lắng, da diết, lôi cuốn người đọc. Tố Hữu cũng khéo léo sử dụng cách nói đối đáp, giao duyên phổ biến trong ca dao Việt Nam để thể hiện tư tưởng, tình cảm. Tác giả cũng rất tinh tế khi kết hợp sử dụng các đại từ nhân xưng 'mình, ta', mình ta lúc là hai, lúc là một, thể hiện sự quan tâm, giao lưu của hai bên, làm cho nhịp thơ đầy cảm xúc, ý nghĩa. Ngôn ngữ thơ của Việt Bắc mộc mạc, đơn giản, không cầu kỳ, độc đáo, không phô trương, dễ tiếp nhận. Cách nói như truyện, ca dao, thành ngữ được sử dụng một cách hài hòa, triệt để, tạo ra bản sắc dân tộc sâu sắc cho Việt Bắc, thể hiện cả trên bề mặt và sâu bên trong. Cuối cùng, cách tác giả sử dụng tiếng Việt rất nhạc, các câu thơ phù hợp với tình cảm, nhịp thơ tự do, tha thiết, không gò bó, dễ thuộc, dễ nhớ. Hệ thống từ linh hoạt, độc đáo của tác phẩm là yếu tố quan trọng giúp thơ Việt Bắc không chỉ sinh động mà còn kích thích người đọc.
Nhận định ban đầu về tính dân tộc trong Việt Bắc là hoàn toàn chính xác và có cơ sở. Đó chính là yếu tố giúp Tố Hữu phát triển phong cách sáng tạo riêng, không thể lẫn vào dòng chảy của văn học hiện đại. Đồng thời, nó cũng là sự thể hiện tài năng của Tố Hữu trong việc sử dụng ngôn từ để tái hiện bản sắc dân tộc. Điều này là điều rất ít nhà thơ làm được, và vì vậy, Việt Bắc hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu cao quý trên bảng văn chương Việt Nam.
Tính dân tộc không phải là yếu tố duy nhất quyết định sức sống của một tác phẩm, nhưng có lẽ chỉ tính dân tộc mới có thể giữ cho tác phẩm sống mãi. Nếu tất cả các tác phẩm đều có sự kết hợp sâu sắc của tính dân tộc, sự sáng tạo của tác giả, thì sẽ có nhiều hơn nữa những tác phẩm đẹp, làm cho cuộc sống thêm phong phú, hấp dẫn.
Ý chính về Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
A. Mở đầu:
- Giới thiệu về tác giả Tố Hữu và các tác phẩm của ông.
- Đưa ra nhận định về tính dân tộc trong thơ của Tố Hữu.
B. Phần chính:
Đề cập đến phong cách nghệ thuật và đặc điểm của thơ của Tố Hữu.
1. Ý nghĩa của tính dân tộc trong văn học
- Tính dân tộc là một thuộc tính cũng như là một tiêu chí để đánh giá giá trị của một tác phẩm văn học. Các tác phẩm văn học lớn từ xưa đến nay đều phản ánh được cả tính nhân loại và tính dân tộc sâu sắc.
- Trong văn học, tính dân tộc được thể hiện cả về nội dung và hình thức nghệ thuật. Về nội dung, một tác phẩm có tính dân tộc phải thể hiện được các vấn đề quan trọng liên quan đến số phận của dân tộc, hiển hiện được lòng yêu nước, tình cảm và ý chí của dân tộc. Về hình thức, tác phẩm đó cần phản ánh tinh hoa văn hóa dân tộc một cách sáng tạo. Nếu nhìn nhận như vậy, thơ của Tố Hữu thực sự mang phong cách nghệ thuật “đậm tính dân tộc”.
2. Các biểu hiện của tính dân tộc trong thơ của Tố Hữu
- Tố Hữu là một nhà thơ có khả năng tài ba trong việc sử dụng các thể loại thơ dân tộc.
+ Trong số các thể loại thơ, lục bát được tác giả sử dụng một cách thành công nhất và được coi là điểm mạnh của Tố Hữu. Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, Tố Hữu đã tạo ra nhiều bài thơ lục bát xuất sắc như: Việt Bắc, Kính gửi cụ Nguyễn Du, Khi con tu hú, Bài ca quê hương.
+ Ngoài việc thành thạo sử dụng lục bát, Tố Hữu cũng thành công trong việc sáng tạo thể loại song thất lục bát. Bài thơ dài Ba mươi năm đời ta có Đảng đã khiến người đọc liên tưởng đến những câu thơ trong Đại Nam quốc sử diễn ca.
+ Không chỉ làm chủ lục bát, Tố Hữu còn thành công trong việc sử dụng các thể thơ khác như thể thơ bảy chữ và thể thơ bốn chữ. Bài thơ Bác ơi! Theo chân Bác và Lượm, Voi là những minh chứng cho điều này.
- Tố Hữu là một nhà thơ có tài năng đặc biệt trong việc sử dụng những hình tượng quen thuộc trong thơ dân tộc.
+ Nhà thơ đã thành công trong việc sử dụng những hình ảnh và tương phản phong cách dân gian:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy đầy cảm xúc và nhiệt huyết.
+ Trong thơ của Tố Hữu, thường xuất hiện những hình ảnh bình dị, đầm ấm của cuộc sống:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
hoặc:
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non.
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
+ Đôi khi, Tố Hữu đã tạo ra những câu thơ lộng lẫy như những bài thơ cổ điển (Việt Bắc, Kính gửi cụ Nguyễn Du). Nếu nói hơi thở của văn học dân gian mang nét tươi mới, gần gũi thì chất lượng của thơ cổ điển đã tạo nên sự trang nhã cho những câu thơ:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.
- Đặc điểm âm nhạc trong thơ
+ Dễ dàng nhận thấy rằng thơ của Tố Hữu vô cùng phong phú về âm nhạc. Đó không chỉ là âm nhạc của từng câu thơ mà còn là âm nhạc của tâm hồn:
Tôi trở về quê hương thân thương
Trưa nắng cháy da, cát trải dài
Gió biển vỗ về, sóng nước đùa nôi
Lòng ta tràn ngập tiếng hát trong lành.
+ Trong thơ của Tố Hữu, ông sử dụng kỹ thuật ngắt nhịp một cách sáng tạo để tạo ra hiệu ứng thẩm mỹ.
+ Cũng có những lúc, Tố Hữu sử dụng vần và từ láy để tạo nên âm nhạc cho thơ:
Nỗi niềm dâng trào ai ở Huế
Khi mưa rơi dày đặc trên đỉnh Thừa Thiên.
+ Khi đọc thơ của Tố Hữu, chúng ta thường cảm nhận được âm điệu ngọt ngào của tiếng Huế. Điều này đã được Hoài Thanh nhận ra từ lâu khi ông mô tả thơ của Tố Hữu như là âm thanh đậm chất “tình thương mến”:
Huế ơi, quê mẹ của chúng ta!
Nhớ từ những ngày xưa, tuổi chín mười
Núi sương mây phủ, chiều buông tĩnh lặng
Mưa rào gió biển, nắng xa xa khơi
C. Tổng kết
- Không một nhà văn, nhà thơ đích thực nào từ bỏ quá khứ, từ bỏ di sản văn hóa của dân tộc vì từ bỏ văn hóa dân tộc cũng là từ bỏ nguồn cảm hứng quý báu nuôi dưỡng tâm hồn thơ. Như nhà thơ Hen-rich Hai-nơ đã nói một cách rất hay, nếu nhà thơ xa rời hiện thực thì anh ta sẽ 'lơ lửng trên không' như Thần Ang-tê bị nhấc khỏi thần Mẹ Đất. Và có thể nói về số phận của nhà thơ như thế nếu từ bỏ truyền thống văn học quý báu của ông cha.
- Trên con đường sáng tạo nghệ thuật, nghệ sĩ luôn được ví như con ong cần mẫn. Tố Hữu đã hòa nhập những giá trị nghệ thuật của dân tộc và sự sáng tạo không ngừng nghỉ. Chế Lan Viên cho rằng, Tố Hữu đã kết hợp 'hơi thở dân tộc' với 'màu sắc hiện đại' để tạo ra một sự kết tinh mới cho thơ ông. Và có thể nói rằng tính dân tộc đã tạo nên một Tố Hữu thành công.
Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu - mẫu 2
“Từ cuộc sống hiện đại, thơ của ông ngày càng trở lại với nguồn cảm hứng cổ điển của dân tộc” - Nguyễn Đình Thi đã nhận xét như vậy về thơ của Tố Hữu. Đọc thơ của Tố Hữu, chúng ta cảm nhận được dân tộc sâu sắc, thấy rõ trong 'tâm hồn' của một thời quá khứ. Việt Bắc là một trong những bài thơ mang tính “cổ điển' nhất như vậy. Đọc Việt Bắc, chúng ta cảm nhận được sức mạnh của bản sắc dân tộc ấy.
Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu thể hiện trước hết ở hình thức biểu hiện. Có thể nói Việt Bắc là bài thơ lục bát tốt nhất của Tố Hữu, trong đó âm điệu lục bát đã trở nên mềm mại, tinh tế, đến mức hoàn hảo:
Về rừng núi, lòng nhớ ai
Trám bùi phai, măng mai già
Đi mãi nhớ nhà, lòng say
Hắt hiu lau xám, lòng son tròn
Nhớ tiếng mõ rừng, chiều buông
Chày nện cối, suối xa hương
Nhớ như nhớ người yêu thương
Trăng soi đỉnh núi, nắng chiếu lưng đồng.
Những dòng thơ lục bát đó có thể được đặt cạnh những câu ca dao dân gian, những dòng lục bát cổ điển tốt nhất của ta. Tiếng Việt trong những câu ấy rất giản dị và chân thành, thật sâu lắng và trong trẻo. Lời thơ kết hợp mềm mại với nhịp điệu mạnh mẽ, như những giai điệu của âm nhạc, những nốt nhạc bằng từ ngữ.
Tuy nhiên, khi nói về Việt Bắc, cái ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng độc giả có lẽ là cấu trúc độc đáo của nó. Tố Hữu đã tạo ra một bức tranh lịch sử hoành tráng kéo dài suốt mười lăm năm (nhớ lại thời kháng chiến Nhật còn Việt Minh) phủ khắp một vùng đất rộng lớn, bao gồm toàn bộ Việt Bắc (từ 'Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào' đến 'Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà'). Bài thơ muốn trở thành một diễn ca lịch sử (giống như 'Ba mươi năm có Đảng' sau này!). Tuy nhiên, nó không phải là một diễn ca hoàn toàn, bởi vì thi sĩ đã lựa chọn một cấu trúc truyền thống của hát giao duyên, cả bài thơ dài như một cuộc hát đối nam nữ. Tựa như những khúc hát tình trong Giã bạn hoặc Tiễn dặn người yêu. Phần lớn bài thơ là lời của hai nhân vật. Người ở lại rừng núi trong khu chiến trường là cô gái Việt Bắc, người trở về là anh cán bộ cách mạng. Tựa như 'liền chị - liền anh' trong hát Quan họ. Cuộc chia tay lớn của cán bộ Đảng và Chính phủ kháng chiến với Việt Bắc được thể hiện qua cuộc chia tay của một cặp trai gái. Nói cách khác, tác giả đã chọn tình yêu của đôi trai gái làm một góc nhìn để mô tả toàn cảnh Việt Bắc, với 'Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng'. Câu chuyện của họ đã trở thành câu chuyện riêng, câu chuyện về cách mạng của dân tộc trở thành câu chuyện tình yêu của họ.
Một sự kiện chính trị đã được biến thành thơ trữ tình - chính trị theo cách tâm tình hóa là đặc điểm của lối thơ của Tố Hữu. Việc 'di dời đô' (Việt Bắc là thủ đô kháng chiến - Tố Hữu gọi là 'Thủ đô gió ngàn') đã trở thành một câu chuyện tình yêu chung thủy giữa người cách mạng với núi rừng chiến khu, với đồng bào, với quá khứ, với chính mình... Cặp trai gái nói theo cách rất dân gian: Ta - mình. Nỗi lo lắng lớn nhất của ta và mình trong cuộc chia tay là tình yêu - sự chung thủy:
Về thành phố xa xôi
Nhà cao còn nhớ núi đồi không?
Phố cao còn nhớ làng quê không?
Bình minh vẫn nhớ ánh trăng giữa rừng
'Mình trở về vẫn nhớ ta' đã thể hiện sự chung thuỷ! Nhưng 'khi mình ra đi mình vẫn nhớ mình” thì tình yêu chung thuỷ đã được đưa lên một tầm cao mới. Khi rời khỏi Việt Bắc, ta rời xa khỏi thời gian cực khổ, nơi đau khổ, có thể ta quên người, phụ người. Nhưng ta có nhớ chính mình không, có tôn trọng bản thân không? Vì quên Người cũng đồng nghĩa với việc quên Bản Thân đó. Những câu hỏi sâu sắc về tình yêu như vậy đã giúp Tố Hữu dân gian hóa, truyền thống hóa một vấn đề của cách mạng, vấn đề của thời đại. Người con trai cũng trả lời, cũng khắc sâu vào tâm hồn với một tinh thần như thế.
Ta về mình vẫn nhớ mình
Ta về nhớ những hoa cùng Người
Nhớ những cảnh non xanh xa vời
Đường phố đông đúc thúc giục bước chân nhanh
Mình đi vẫn nhớ mình
Bấy nhiêu nước ngọt của tình bấy nhiêu
Kết cấu đối đáp hòa hợp với thể thơ lục bát giàu chất dân gian như vậy đã làm cho bài Việt Bắc của Tố Hữu có dấu ấn của một bài hát giao duyên dân gian được viết theo lối truyền thống. Điều này khiến bài thơ trở nên gần gũi với lòng dân và dễ dàng hòa nhập vào dòng văn hóa dân gian, trở thành những bài hát chỉ có thể trình bày bằng lối diễn xướng dân gian rất phù hợp.
Cần phải nói thêm về sự cổ điển của nó. Đây là một nét truyền thống khác của thơ Tố Hữu. Trong bài 'Kính gửi cụ Nguyễn Du', ta cảm nhận được không khí lục bát trang trọng. Thi sĩ đã sử dụng những vị bài thơ của “truyện Kiều' để tâm tình với tác giả 'Truyện Kiều”. Ông cũng dùng hình thức lấy Kiều, tập Kiều để làm cho bài thơ có phong cách cổ điển. Còn ở đây không thể. Ta đã thấy câu trữ tình của bài thơ, giọng điệu tứ bình của bài thơ có hơi hướng cổ điển. Câu lục bát ở những chỗ ấy thường chặt chẽ hơn, chữ 'đúc' nhiều, chữ 'nước' ít. Hình thức tiểu đối được sử dụng rất phong phú và biến hóa linh hoạt. Nhưng điều đáng lưu ý nhất là cách vẽ thiên nhiên: các câu thơ lục bát ấy. Trong đoạn 'Hoa cùng người', ta có thể thấy thi sĩ vẽ hình theo kiểu xây dựng bức tranh trữ tình - một kỹ thuật phổ biến trong nghệ thuật cổ điển. Hoa và người tương phản, tôn vinh lẫn nhau, bức tranh dường như tái hiện đầy đủ nhịp điệu hoạt động của thiên nhiên và con người Việt Bắc:
Mình về vẫn nhớ mình,
Khi về, nhớ những bông hoa cùng người
Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao, nắng vàng như đeo lưng dao găm
Mùa xuân, rừng mơ khoe áo trắng
Nhớ người, đan nón nhỏ từng sợi giang
Ve râm râm, rừng lặng vàng lá
Nhớ em gái, mình hái măng một mình
Thu trong rừng, trăng soi đường hòa bình
Nhớ người, tiếng hát về ân tình trọn vẹn
Thành công của bài thơ Việt Bắc còn nhiều khía cạnh khác như: ngôn ngữ, nội dung, hình tượng nhân vật trữ tình... Nhưng có thể khẳng định chất dân chất truyền thống sâu sắc đã tạo nên sức sống, sức mạnh thú vị cho thơ. Và Việt Bắc cùng với những bài thơ khác của Tố Hữu đã thể hiện phong cách độc đáo của ông trong quá trình sáng tác: từ hiện đại trở về với cổ điển, trở về với bản sắc dân tộc và truyền thống
Tính bản sắc dân tộc trong thơ Việt Bắc của Tố Hữu - mẫu 3
Thơ như một cây đàn, với điệu nhịp của tâm hồn, của nhịp tim, thơ thành công diễn đạt mọi cung bậc cảm xúc của con người, từ niềm vui đến nỗi buồn, từ sự cô đơn đến tuyệt vọng. Có những cảm xúc của con người chỉ có thể thể hiện qua thơ. Thơ không chỉ làm sáng tỏ lòng mình mà còn thể hiện sự bận rộn, tình nghĩa gắn bó. Bài thơ Việt Bắc chính là một minh chứng cho điều này. Đặc biệt qua đoạn trích 'Việt Bắc', chúng ta cảm nhận được bản sắc dân tộc sâu sắc, đậm đà qua từng câu, từng chữ.
Không sai khi nói rằng với nhà thơ, thơ là một công cụ quan trọng để thể hiện cảm xúc, chỉ có cảm xúc chân thành mới tạo ra một tác phẩm văn học chân chính. Cảm xúc càng mãnh liệt, thơ càng có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến trái tim độc giả. Tố Hữu, một nhà thơ trữ tình, chính trị xuất sắc, mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà thơ. Trong quá trình sáng tạo, ông không ngừng tìm kiếm, sáng tạo và ông đã khẳng định vị thế của mình trong văn học dân tộc. Các tác phẩm của ông luôn phản ánh một cách chân thực quá trình cách mạng. Do đó, khi đọc các tác phẩm đó, ta luôn cảm nhận được bản sắc dân tộc sâu sắc lan tỏa qua từng dòng, từng chữ, thể hiện sứ mệnh văn chương của Tố Hữu. Trong số đó, không thể không kể đến bài thơ Việt Bắc.
Vào tháng 7 năm 1957, sau khi ký kết hiệp định Giơnevơ về Đông Dương, vào tháng 10 năm 1954, Trung ương Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc trở về Hà Nội, và những người cán bộ kháng chiến từ miền núi trở về đồng bằng. Trong bối cảnh đó, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ này. Đó có lẽ là lý do khiến bài thơ Việt Bắc nói chung, và đoạn thơ Việt Bắc nói riêng, phản ánh một cách sâu sắc bản sắc dân tộc. Tính dân tộc của tác phẩm không chỉ được thể hiện qua hình thức lục bát quen thuộc và lối đối đáp 'ta', 'mình', giống như trong ca dao, dân ca, mà còn qua những hình ảnh giản dị về tình nghĩa thủy chung, gắn bó.
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy, tình sâu nồng...
Tiếng ai gọi bên cạnh đảo
Lòng rối bời, bước chân đi lạc
Áo chàm vẫy từ biệt
Điều gì chúng ta nói với nhau hôm nay?
Đó là thời khắc chia tay đầy xúc động, lòng quyến luyến giữa người dân Việt Bắc và cán bộ miền xuôi, niềm tiếc nuối lan tỏa khắp bài thơ 'Mười lăm năm ấy', thời kỳ đầy khó khăn nhưng cũng đầy oai hùng của dân tộc. Ký ức về khoảnh khắc đó gợi lên sự gắn bó mật thiết, tình quân dân, với lối đối đáp 'mình', 'ta', thể hiện rõ bản sắc dân tộc, thấm đượm tâm trạng của người đi và kẻ ở. Đó là cảm giác bối rối, lo lắng nửa muốn rời đi nhưng nửa chưa sẵn lòng. 'Áo chàm' không chỉ là biểu tượng của người dân Việt Bắc mà còn là biểu tượng của sự trung thành, tình cảm trong giờ phút chia tay. Họ đã truyền đạt mọi điều qua cử chỉ cầm tay chặt, biểu tượng cho tình đoàn kết của quân dân. Đó là một tình cảm cao đẹp của dân tộc Việt Nam.
Tính dân tộc hiện lên trong tác phẩm cũng qua việc nhớ lại về thiên nhiên và con người. Trong tác phẩm, thiên nhiên được mô tả ở những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau, có nắng, có mưa, có sương mù... 'Trăng lên núi, nắng chiều lưng nương', tất cả như một bức tranh mộng mơ về thiên nhiên Việt Bắc. Đọc đoạn thơ này, ta không thể không ngạc nhiên trước vẻ đẹp của quê hương, của đất nước, và của con người. Trong ký ức của Tố Hữu, những người dân lao động, với công việc vất vả, hiện lên với lòng thù hận sâu sắc đối với kẻ thù, 'khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh', cùng với lòng trung thành đậm chất dân tộc, với tinh thần lạc quan, 'gian nan đời vẫn ca vang núi đèo'.
Hình ảnh con người trở nên hoàn hảo hơn khi hòa mình vào thiên nhiên qua bức tranh về bốn mùa.
Rừng xanh, hoa chuối đỏ rực
Trên đỉnh núi, ánh nắng mặt trời chói chang
Mùa xuân mơ màng, rừng trắng bóng hoa
Nhớ người phụ nữ đan nón cẩn thận từng sợi tơ
Tiếng ve vang lên, rừng xanh rực vàng
Nhớ cô em gái đơn độc hái măng giữa rừng
Trong rừng thu, ánh trăng chiếu sáng tạo nên không gian bình yên
Nghe tiếng hát ngọt ngào, ân tình thấm đẫm trong lòng
Đã có người cho rằng đoạn thơ này là phần có tính dân tộc nhất trong tác phẩm, và có lẽ đó là đúng vì nó chứa đựng nhiều hình ảnh đẹp về thiên nhiên và con người trong công việc hàng ngày. Để khởi đầu cho bức tranh đó, nhà thơ đã đặt ra một câu hỏi lặng lẽ.
'Ta về mình có nhớ ta,
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người'
Nhà thơ hỏi không phải để được trả lời, nhưng câu hỏi có vẻ như là một cớ hội để thể hiện tâm trạng. Hoa là biểu tượng cho thiên nhiên của Việt Bắc, và người là biểu tượng của con người Việt Bắc. Từ từ 'cùng' đã biến thành một sợi dây nối kết giữa hoa và con người.
Bức tranh của mùa đông mở ra cho bức tranh về bốn mùa, giữa vùng đất bạt ngàn của rừng già, màu đỏ tươi của hoa chuối bỗng chốc trở nên nổi bật, tạo ra một không khí ấm áp, lan tỏa khắp bức tranh nghệ thuật, khiến cho thiên nhiên không còn xa lạ mà trở nên gần gũi hơn với con người. Và trong bức tranh ấy, con người hiện lên với tư thế 'gắn chặt lưng', mạnh mẽ và khỏe khoắn.
Sau khi miêu tả không gian rừng xanh, tác giả chuyển sang miêu tả về thời gian, 'ngày xuân' tạo ra một bức tranh về mùa xuân với hình ảnh 'mơ màng nở hoa trắng rợp rừng', tạo ra một không gian tinh khiết và nhẹ nhàng. Trái lại, khi thiên nhiên thay đổi thì con người hiện lên với sự tỉ mỉ, 'chăm sóc từng sợi tơ', một chi tiết mà với nhiều người chỉ là điều nhỏ nhặt nhưng với Tố Hữu, nó lại là một hình ảnh đáng nhớ và đã in sâu trong tâm trí ông.
Khác với mùa đông và mùa xuân, bức tranh về mùa hè hiện lên với âm thanh của ve kêu và màu sắc của hoa vàng, đặc biệt là từ 'đổ' tạo ra hiệu ứng như dây chuyền khi ve kêu, rừng hoa cùng nhau 'đổ vàng' làm cho không gian trở nên phấn khích và rực rỡ.
Nhà thơ kết thúc bức tranh tĩnh lặng đó bằng cảnh thu trong tự nhiên và con người. Mùa thu hiện lên không chỉ qua không gian của 'rừng thu' mà còn qua thời gian với 'trăng rọi'. Ánh trăng chiếu sáng xuống làng Việt Bắc có thể hiểu là biểu tượng cho sự yên bình, nhưng cũng có thể hiểu là niềm tin của con người vào cuộc cách mạng, tin rằng sẽ giành chiến thắng. Con người được thể hiện qua tiếng hát 'Ân tình thủy chung', tiếng hát vang lên từ đâu đó trong trẻo, ca ngợi lòng trung hiếu và có lẽ dù đi đến đâu, những người lính kháng chiến sẽ không thể quên được tiếng hát ấy.
Ngoài ra, tính dân tộc trong tác phẩm cũng được thể hiện qua việc tác giả viết về những cuộc hành quân hào hùng của dân tộc, cùng với vai trò của Cách mạng và chiến khu Việt Bắc.
'Những con đường Việt Bắc quen thuộc,
Đêm đêm ầm ĩ như đất rung
Quân đội điều binh, rầm rầm,
Ánh sao bên đầu súng, bạn bè cùng mũ bảo hiểm
Dân quân hào hùng từng đoàn
Bước chân xuyên qua đá vô hình, lửa sáng lung linh.
Với những từ như 'đêm đêm', 'rầm rập', 'điệp điệp', 'trùng trùng' cùng với cách diễn đạt mạnh mẽ trong 'bước chân xuyên qua đá vô hình, lửa sáng lung linh', 'rầm rập như là đất rung', chúng ta thấy được lòng can đảm và kiên định hào hùng của người dân Việt Bắc. Dù biết rằng trước mắt còn nhiều gian khó, họ vẫn sẵn sàng đối mặt, luôn bước đi với niềm tin rằng, dù có 'nghìn đêm thăm thẳm, sương dày', thì 'đèn pha sẽ sáng tỏ như ánh ban mai', biểu trưng cho hy vọng vào một tương lai tươi sáng khi đất nước sẽ giành chiến thắng. Và rồi,
'Niềm vui chiến thắng rộn ràng khắp nơi
Hòa bình tràn về miền Tây Bắc, Điện Biên hân hoan,
Vui từ Đồng Tháp, An Khê,
Vui đến Việt Bắc, qua những con đèo, qua núi Hồng'
Chiến thắng đó là kết quả của sự đoàn kết của toàn dân và sự lãnh đạo thông minh của Đảng và Bác Hồ. Việc viết về chiến thắng ấy, Tố Hữu như đã ngầm ca tụng sự đoàn kết to lớn của dân tộc ta.
Không chỉ được thể hiện qua nội dung mà tinh thần dân tộc trong Việt Bắc còn được thể hiện trong hình thức nghệ thuật, với thể thơ lục bát, thuần Việt, sự đối đáp 'mình, ta' quen thuộc trong ca dao. Sự đối lập giữa các câu trong ca dao khiến cho bài thơ dễ nhớ, dễ thuộc đặc biệt với những hình ảnh giản dị, quen thuộc, từ ngữ trong sáng, tất cả đã làm cho tính dân tộc trở nên đậm đà, nhuần nhuyễn trong từng từ, từng câu của tác phẩm.
Tác phẩm đã khép lại nhưng mỗi khi đọc lại đoạn trích, ta vẫn thấy một Việt Bắc hùng vĩ với tình quân dân gắn bó, đậm đà tình dân tộc và qua đoạn thơ, ta như cảm nhận được sự nhắc nhở nhẹ nhàng từ Tố Hữu. Hãy sống và đóng góp để đất nước trở nên tốt đẹp hơn.
Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu - mẫu 4
Nghĩa là trong niềm vui chiến thắng và niềm hạnh phúc của cuộc sống bình yên, nhà thơ vẫn không quên tình nghĩa gắn bó trong những năm gian khó đã qua và xem đó là nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao cho hiện tại và tương lai. Có thể nói, bài thơ Việt Bắc là bản tình ca và cũng là bản hùng ca, có nguồn gốc sâu xa từ tình yêu quê hương, từ truyền thống ân nghĩa, đạo lý thủy chung của dân tộc.
Trước hết với kiểu cấu trúc đối đáp rất đậm đà tình nghĩa của bài thơ Việt Bắc là tình yêu với thiên nhiên đất nước được biểu hiện cụ thể qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc trong kỷ niệm của người cán bộ sắp về xuôi. Việt Bắc hiện ra với những vẻ đẹp thực tế và lãng mạn, hương vị phong phú làm nổi bật sự độc đáo của Việt Bắc so với nhiều vùng quê khác của đất nước. Việt Bắc là hình ảnh: 'Trăng lên đỉnh núi, nắng chiều ôm ấp', hình ảnh bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa đỏ trong đêm khuya, là những 'rừng thẳm bên bờ tre, cỏ rậm, dòng sông Đáy' là tiếng mõ trâu vang trong rừng chiều, tiếng 'Chày đêm vắt cối đều đều, dòng suối xa'.
Nhưng có lẽ điều nổi bật nhất là kỷ niệm của Tố Hữu về Việt Bắc là sự kết nối với con người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc chăm chỉ trong công việc, trung thành trong tình thân:
Mình về mình có nhớ mình
...
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Qua đó có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện ra với những vẻ đẹp phong phú, đa dạng, thay đổi theo thời tiết, từng mùa. Gắn với cảnh tượng ấy là con người giản dị, người đi làm nương rẫy, người đan nón, người hái măng. Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình họ đã góp phần tạo ra sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Chính tình nghĩa gắn bó và chia sẻ cùng nhau chịu đựng gian khổ thiếu thốn, cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn giữa nhân dân với bộ đội và cán bộ tất cả càng làm cho hình ảnh Việt Bắc sáng ngời trong hồi tưởng của nhà thơ. Việt Bắc - đó là hình ảnh những mái nhà 'Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son', hình ảnh người mẹ 'Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô', là những ngày tháng đồng cam cộng khổ:
Thương nhau chia củ sắn nghiêng
Bát cơm chia nửa, chăn chiếu đắp cùng
Có thể nói âm hưởng trữ tình vang vọng suốt bài thơ tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình yêu đồng chí với đồng bào, của tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu đời.
Theo dòng hồi tưởng của Tố Hữu bài thơ dẫn ta vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với những hình ảnh hào hùng, những hoạt động sôi nổi, những âm thanh náo nức, phấn chấn. Ở đây bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca mang dáng vẻ sử thi hiện đại bởi vì chỉ cần miêu tả khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc, Tố Hữu đã nêu bật khí thế chiến đấu vô cùng mạnh mẽ của dân tộc.
Những con đường Việt Bắc của chúng ta
Đêm đêm rền vang như lòng đất rung
Quân đi rồi điệp rồi, trùng trùng
Ánh sao sáng trên đầu súng, bên cạnh nhau cùng chiếc mũ nan
Dân công cháy lên lửa từng đoàn
Bước chân với đá nát, ngàn lửa bùng cháy bay.
Dân tộc đó đã vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh để tạo nên những kỳ tích, những chiến công lịch sử như Đèo Giàng, Sông Lô, Phố Ràng, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên... Tuy nhiên, Tố Hữu không chỉ miêu tả diễn biến của cuộc kháng chiến mà còn đi sâu vào giải thích những nguồn gốc sức mạnh đã dẫn đến chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù: Miếng cơm chia muối, mối thù gắn bó, sức mạnh của tình nghĩa thủy chung: 'Tôi ở đây, bạn ở đó, đắng cay ngọt ngào' đặc biệt là sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân, của sự hòa quyện gắn bó giữa con người và thiên nhiên. Tất cả tạo nên hình ảnh 'đất nước tỉnh dậy'.
Nhớ khi kẻ thù xâm nhập tìm kiếm
Rừng cây núi đá chúng ta cùng chiến đấu chống lại Tây phương
Núi dựng thành lũy sắt dày đặc
Rừng bao bọc bộ đội, rừng bao vây quân thù
Mênh mông khắp nơi đầy sương mù
Đất và trời, chúng ta cùng chung lòng chiến đấu
Đặc biệt, bằng những lời thơ trang trọng và cảm xúc, Tố Hữu đã nhấn mạnh hình ảnh và vai trò của Việt Bắc như là quê hương của cách mạng, điểm tựa vững chắc trong cuộc kháng chiến. Trước những thời kỳ khó khăn của cách mạng, hình ảnh Việt Bắc đã dần hiện lên từ xa xôi như 'mưa rừng suối lũ, những đám mây mù mịt' cho đến rõ ràng như một chiến khu kiên cường, nơi nuôi dưỡng sức mạnh đấu tranh, nơi tạo ra nhiều địa danh lịch sử của dân tộc.
Nhớ khi trở về, lòng kí ức núi non
Thức tỉnh nhớ những ngày kháng Nhật, thời của Việt Minh
Khi ra đi, trong lòng vẫn khắc ghi kỷ niệm về chính mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa, tất cả đều hiện lên trong ký ức
Trong những năm gian khó khăn của cuộc kháng chiến, Việt Bắc là nơi mà 'cụ Hồ chiếu sáng', nơi Trung ương, Chính phủ thảo luận về các công việc quan trọng, góp phần củng cố niềm tin và lòng yêu mến của toàn dân đối với Việt Bắc. Tố Hữu sử dụng những câu thơ đậm chất ca dao, mang đến những giai điệu của tâm hồn dân tộc.
Ở nơi nào đau đớn, nỗi khổ đau của dân tộc
Nhìn về phía Việt Bắc, là nguồn động viên cho ý chí kiên cường
Mười lăm năm trôi qua không ai quên
Quê hương cách mạng đã khẳng định vị thế của cộng hoà
Ngày mai sẽ sôi động trên những cánh đồng
Con đường mòn uốn khúc, mạng lưới bao trùm khắp nơi
Than Phấn Mễ, thiết Cao Bằng
Các con phố tụ điểm như nấm mọc giữa bầu trời
Những hình ảnh đó là ước mơ, là khát vọng và cũng là lòng biết ơn mà những người cán bộ kháng chiến muốn bày tỏ dành cho nơi đã từng là nguồn cảm hứng của cách mạng, nơi đã che chở, bảo vệ họ trong những thời kỳ đầy gian khổ và hy sinh.
Dấu chấm hết của bài thơ cho ta thấy sự sắc sảo, nhạy bén của Tố Hữu khi nhìn vào tương lai, ông không quên nét đẹp truyền thống của dân tộc là tình nghĩa thủy chung, có mới mà không nới cũ, luôn nghĩ về nhau và vì nhau giữa đất trời xa cách, giữa người cán bộ và nhân dân.
Về phố xá đông đúc xa lạ
Những tòa nhà cao vẫn nhìn thấy núi đồi phía xa?
Trong thành phố ồn ào vẫn còn nhớ về làng quê?
Ánh đèn ban ngày vẫn nhớ bóng trăng giữa rừng?
Đây có thể coi là cảnh báo về sự mất đi khi có sự thay đổi môi trường, khi con người có thể quên mất tình nghĩa ngày xưa chỉ để nghĩ đến bản thân và lợi ích cá nhân. Đến ngày nay, những lời thơ của Tố Hữu vẫn mang giá trị thời sự không bao giờ lỗi thời.
Tính dân tộc là nét đặc trưng nổi bật của Việt Bắc. Đặc điểm này đã làm cho bài thơ thu hút và thành công. Tính dân tộc đã giúp nhà thơ truyền đạt được tư tưởng hiện đại, tiên tiến. Đây có lẽ là tác phẩm nổi bật nhất của Tố Hữu, tôn vinh những ngày hào hùng và vinh quang của dân tộc, những ngày mà toàn dân sôi nổi ra trận, mảnh đất Việt Bắc ghi dấu bằng những chiến công vĩ đại, hạnh phúc của dân tộc… Tất cả được tái hiện qua một hình thức đặc biệt phù hợp mà Tố Hữu đã lựa chọn và sử dụng. Rõ ràng, bài thơ Việt Bắc đã phản ánh tinh thần và tư tưởng của thời đại nhưng vẫn có thể được ca ngợi như những bài ca dao.
Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu - mẫu 5
Tố Hữu là đỉnh cao của thơ trữ tình - chính trị, đậm nét sử thi, lãng mạn và màu sắc dân tộc. 'Việt Bắc' - khúc ca tình yêu đối với quê hương, với nhân dân và cách mạng là một trong những tác phẩm đặc sắc của Tố Hữu. Đọc 'Việt Bắc' chúng ta sẽ cảm nhận được sự hiện diện mạnh mẽ của tính dân tộc.
Tính dân tộc trong bài thơ 'Việt Bắc' của Tố Hữu được thể hiện sâu sắc qua việc mô tả chân thực, giàu cảm xúc về cảnh sắc, phong cảnh quê hương, đất nước và nhân văn Việt Nam. 'Việt Bắc' đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đậm chất dân tộc, với những nét đẹp tự nhiên của quê hương Việt Nam. Những dòng thơ như Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi đã tái hiện sinh động bức tranh Tây Bắc mùa đông.
Rừng rợp hoa chuối đỏ tươi
Chỉ một câu thơ đã đủ để tạo ra một hình ảnh rực rỡ của mùa đông Tây Bắc. Trên nền xanh mướt của rừng, sắc đỏ tươi sáng của hoa chuối rợp trời mang lại sự sống động cho cảnh vật. Sự pha trộn của màu xanh và màu đỏ khiến cho bức tranh trở nên sống động, ấm áp hơn.
Đó là cảnh xuân với hương vị đậm của núi rừng Tây Bắc:
Mùa xuân rộ hoa trắng núi
Dường như trong những ngày xuân, cả một rừng mơ bung nở sắc trắng tinh khôi, trẻ trung và mơ mộng. Sắc trắng ấy trong những ngày xuân cũng chính là vẻ đẹp viên mãn, tràn đầy sức sống và đặc trưng cho mảnh đất nơi này.
Và nếu như sắc trắng làm nên nét đẹp của mùa xuân thì âm thanh của tiếng ve, sắc vàng chính là những nét đẹp riêng mỗi khi hè về:
Ve rền rền rừng phách vàng
Thiên nhiên ở đây được mô tả bằng màu sắc và âm thanh - màu vàng của rừng phách, của nắng hè và âm thanh của tiếng ve. Tất cả những điều đó dường như đang hòa quện, kết hợp vào nhau. Từ 'rền' đến 'vàng' thể hiện sự sống động, phong phú của thiên nhiên và thời gian.
Kết thúc bức tranh tứ bình ấy là một bức tranh mùa thu đẹp đẽ, êm đềm, mơ mộng với ánh trăng vàng - ánh trăng hòa bình chiếu sáng khắp núi rừng.
Mùa thu trăng lung linh vàng
'Việt Bắc' không chỉ thể hiện bức tranh thiên nhiên đậm đà bản sắc dân tộc mà còn vẽ nên hình ảnh của những con người Việt Nam với vẻ đẹp truyền thống từ ngàn xưa. Họ là những người vất vả, chịu thương, chăm chỉ và luôn san sẻ cùng nhau. Những hình ảnh đó thể hiện rõ qua 'câu hát ân tình' và hình ảnh san sẻ cùng nhau trong những năm tháng khó khăn, thiếu thốn:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm chia nửa chăn sui đắp cùng.
Và cuối cùng, tính dân tộc ở phương diện nội dung được thể hiện ở tình nghĩa của cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến - đó cũng chính là mạch cảm xúc xuyên suốt toàn bộ bài thơ.
Cùng với nội dung, tính dân tộc của bài thơ còn được thể hiện rõ nét ở hình thức nghệ thuật. Trước hết, bài thơ được viết theo thể thơ lục bát - một thể thơ truyền thống của dân tộc, điều này đã tạo nên âm hưởng vừa thống nhất vừa biến hóa cho bài thơ, làm cho câu thơ lúc thì dung dị, dân dã, gần với ca dao, lúc lại cân xứng, trau chuốt đến độ nhuần nhị, cổ điển. Đồng thời, bài thơ cũng được viết theo lối kết cấu đối đáp quen thuộc của văn học dân gian với cặp đại từ “mình” - “ta” để ướm hỏi, trả lời, làm cho mạch cảm xúc và sự phát triển của chủ đề bài thơ cũng trên cơ sở ấy. Đặc biệt, tính dân tộc trong hình thức nghệ thuật của bài thơ được thể hiện rõ nét ở ngôn ngữ. Trong bài thơ, tác giả đã rất tài tình khi sử dụng lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân để tái hiện lại cuộc kháng chiến và những con người kháng chiến cũng như vẽ nên khung cảnh về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Đồng thời, ngôn ngữ trong bài thơ rất giàu hình ảnh và nhạc điệu - “người mẹ nắng cháy lưng”, “rừng che bộ đội rừng vây quân thù”, “chày đêm nện cối đều đều suối xa”,... Và đặc biệt, tác giả đã sử dụng cặp đại từ nhân xưng “mình” - “ta” biến hóa linh hoạt với những lối biểu cảm, ngữ nghĩa phong phú vốn có của nó.
Tóm lại, bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu mang tính dân tộc đậm đà, điều đó thể hiện rõ nét trên cả nội dung và hình thức nghệ thuật của bài thơ.
Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu - mẫu 6
Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc. Ông là một tượng đài về thể thơ lục bát. Nhắc tới ông, người đọc liền nghĩ ngay tới “Việt Bắc” - một bản tình ca dạt dào cảm xúc để lại trong lòng người đọc một cảm xúc khó diễn tả được. Mỗi câu thơ như vẽ ra một khung cảnh rất đỗi bình dị của quê hương, đất nước, con người mà nơi ấy ân nghĩa, sự thủy chung như làm điểm nhấn nổi bật trên tất cả. Bài thơ “Việt Bắc” cũng thể hiện tính dân tộc sâu sắc.
“Việt Bắc” được sáng tác vào tháng 10/1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong số những cán bộ kháng chiến từng sống gắn bó nhiều năm với Việt Bắc, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ được viết trong buổi chia tay lưu luyến đó.
Tính dân tộc được thể hiện ở hai phương diện, nội dung và hình thức. Trước hết về mặt nội dung bài thơ thể hiện ở những khía cạnh sau, hình ảnh chiếc “áo chàm” rất đỗi giản dị, tự nhiên:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
“Áo chàm” là hình ảnh hoán dụ cho người dân Việt Bắc anh hùng nhưng chân thực. Câu thơ như đang ca ngợi tình người của con người Việt Nam. Từ những con người xa lạ không quen biết, chiến tranh đã kéo đẩy họ lại gần với nhau để giờ đây kỉ niệm tưởng chừng ngắn ngủi như lại dài đằng đẵng ấy vô thức còn đọng lại trong tâm trí của họ. Bài thơ là cuộc đối thoại “mình - ta” vừa ngọt ngào, vừa sâu lắng:
'Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Khoảng thời gian 15 năm xảy ra biết bao nhiêu biến cố, thăng trầm của lịch sử để cho tình nghĩa giữa chiến sĩ và người dân Việt Bắc ngày một gắn bó keo sơn.
Bên cạnh đó, hình ảnh chiến sĩ cách mạng hiện lên cũng rất chân thực, mang đậm tính dân tộc. Trong giờ phút chia ly, họ bịn rịn không nỡ rời xa:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Chỉ một cái “nắm tay” nhưng sao khó diễn đạt nên lời tới vậy. Nắm tay như truyền thêm cả sức mạnh, cả hơi ấm của người ở lại cho người ra đi. Họ một lòng một dạ thủy chung son sắt:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”
Hình ảnh “mình” lặp đi lặp lại mang dụng ý của tác giả. Người chiến sĩ và người dân Việt Bắc họ như hòa quyện lại làm một không phân biệt rạch ròi được. Ân nghĩa sâu nặng giữa họ không thể đong đếm. Rời xa Việt Bắc người chiến sĩ mang trong mình bao nỗi nhớ, nhớ về thiên nhiên hùng vĩ, nhớ về tình người Việt Bắc. Tuy nhiên họ vẫn giữ tinh thần lạc quan, yêu đời.
Song song với hình ảnh con người, hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc cũng hiện lên cũng mang đậm tính dân tộc. Bức tranh tứ bình đã được ngòi bút của Tố Hữu tô vẽ thêm thắt một cách sinh động và hấp dẫn, lôi cuốn:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Con người và thiên nhiên như hòa quyện lại với nhau. Thiên nhiên làm nền cho sự xuất hiện của con người. Nếu như câu lục là thiên nhiên thì câu bát là sự xuất hiện của con người. Tưởng chừng như hai hình ảnh này không liên quan đến nhau nhưng không phải như vậy. Mà con người tô điểm cho thiên nhiên thêm đẹp, thêm rực rỡ hơn. Con người xua đi cái lạnh giá của thiên nhiên, hòa mình vào với thiên nhiên để làm những công việc thường ngày nhưng hết sức đẹp đẽ, nên thơ.
Việt Bắc trong thơ Tố Hữu còn hiện lên với những địa danh lịch sử hào hùng, tráng lệ: Tân Trào, Hồng Thái, Ngòi Thia sông Đáy, sông Lô, Núi Hồng….
Dễ dàng nhận thấy, cảnh vật và con người trong bài thơ Việt Bắc tỏ ra rất gần gũi, giản dị nhưng vẫn phong phú về tình cảm, đậm đà về bản sắc dân tộc.
Tính dân tộc được thể hiện một cách sâu sắc nhất qua mặt hình thức. Một là, thể thơ lục bát truyền thống với cấu trúc lời đối đáp giữa đôi trai gái, giữa người ở lại và người về phương xa. Lục bát là loại thể thơ gần gũi với tất cả người Việt Nam. Trong bài thơ, tác giả sử dụng ngôn từ “mình-ta” để thể hiện mọi tâm tư, tình cảm của mình:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Tính dân tộc còn được thể hiện qua ngôn từ và âm nhạc: Ngôn từ đơn giản, gần gũi với cuộc sống hàng ngày, dễ nhớ và kết hợp với âm nhạc uyển chuyển, nhẹ nhàng, đôi khi tưng tửng, đôi khi trầm mặc, đôi khi ngọt ngào êm dịu.
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Ngoài ra, hình ảnh trong thơ cũng lưu giữ bản sắc dân tộc. Chúng ta đã gặp nhiều hình ảnh giản dị trong thơ của nhiều nhà thơ, nhưng với thơ của Tố Hữu, chúng ta thấy sự tự nhiên, thoải mái và tinh tế: Hình ảnh của “trám bùi”, “măng mai”, “trăng”, “nắng”, “bản” gần gũi và thân thuộc biết bao nhiêu!!
Tóm lại, bài thơ “Việt Bắc” - đỉnh cao của văn học Việt Nam và cũng là tác phẩm bất hủ của Tố Hữu. “Việt Bắc” là một bức tranh về thiên nhiên, về con người Việt Bắc, là tiếng hát về tình thân, tình thương chân thành của người cách mạng với nhân dân Việt Bắc, là tình yêu, tình thương của Tố Hữu dành cho Việt Bắc. Bằng ngôn từ giản dị, gắn bó với cuộc sống hàng ngày kết hợp với các kỹ thuật nghệ thuật như lặp từ, hoán dụ, tác giả đã diễn đạt được nỗi nhớ sâu sắc của mình với mảnh đất đầy kỷ niệm và kỉ niệm. Đồng thời, thể thơ lục bát kết hợp một cách mạch lạc đã đẩy cảm xúc của Tố Hữu lên tới đỉnh cao để tạo ra một bài thơ tuyệt vời như vậy. Và “Việt Bắc” là một bài thơ thể hiện rõ ràng bản sắc dân tộc đậm đà.
Tính bản sắc dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu - mẫu 7
Tố Hữu (1920 - 2002) tên thật Nguyễn Kim Thành, sinh ra tại Thừa Thiên Huế. Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc của thơ ca cách mạng và kháng chiến.
Cuối năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân ta giành thắng lợi. Trung ương Đảng và Chính phủ rời khỏi khu vực chiến trường Việt Bắc để về thủ đô Hà Nội sau chín năm gian khổ, trận trường. Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc để ghi lại tình cảm và mối quan hệ chặt chẽ, tình nghĩa sâu đậm giữa nhân dân Việt Bắc với cán bộ, chiến sĩ cách mạng. Như nhiều bài thơ khác, bài thơ Việt Bắc mang trong mình nét dân tộc sâu sắc. Qua đoạn trích học từ sách giáo khoa Ngữ văn 12, chúng ta sẽ cảm nhận được điều này.
Tính dân tộc chính là tất cả những đặc điểm thuần Việt, gần gũi với tâm hồn của người Việt Nam. Trong bài thơ này, tính dân tộc được thể hiện qua nhiều phương diện như: cấu trúc, hình ảnh, thể loại thơ, cũng như giọng điệu.
Tính dân tộc của bài thơ Việt Bắc thể hiện đầu tiên qua cấu trúc đối đáp kiểu ca dao giao duyên.
Đây là một trong những kiểu cấu trúc phổ biến trong ca dao trữ tình:
- Mình nói với ai mình đây chưa gả
Ta đi ngang ngõ, thấy đứa con bò
- Mình nói với ta mình chưa có chồng
Ta đi ngang ngõ, mình đỡ đứa con ra
Kiểu cấu trúc đối đáp này tạo ra một bức tranh sinh động cho nhân vật trữ tình, cho phép họ diễn đạt cảm xúc và thái độ tình cảm với đối phương hoặc đối tượng mà họ nhắc đến. Đồng thời, đây cũng là cách kết cấu giúp tạo ra sự đa dạng cho nhân vật trữ tình, giúp họ biểu hiện bản thân một cách tự do nhất.
Tố Hữu đã áp dụng kiểu kết cấu tuyệt vời đó trong một bài thơ mà mục đích không phải để thể hiện tình yêu của các cặp đôi, mà là để tôn vinh mối quan hệ chặt chẽ giữa chính phủ cách mạng và quê hương cách mạng với nhân dân Việt Bắc.
Mình về mình có nhớ không
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng?
Ta về mình có nhớ mình
Ta về mình nhớ những hoa cùng người.
Ở đây, 2 từ “mình - ta” biến đổi chỉ là sự phân đôi của một chủ thể. Từ “tôi” trữ tình của nhà thơ tách mình ra, một phần tâm hồn đã “thấm đất Việt Bắc” đang tâm tình với người cán bộ về phương hướng khác. Nhân vật trữ tình bộc lộ tình cảm thương nhớ, tình yêu thủy chung giữa cán bộ cách mạng và mảnh đất Việt Bắc. Mình - ta nhớ về những ngày tháng chung sức cùng nhau: “Bát cơm chia nửa, chăn ấm đắp cùng”, nhớ những ngày tháng vui tươi học đường; nhớ những ngày liên hoan dưới chân núi rừng; nhớ những tiếng chuông rừng chiều, nhớ tiếng gõ cối đêm, nhớ mẹ với vóc dáng bị nắng cháy, em gái hái măng một mình, nhớ người phụ nữ đan nón, nhớ những đoàn quân tiến về chiến trận. Những tiếng mình - ta, những tiếng gọi, hỏi, đáp liên tục, rối ren lên nhau, kéo lên nhau, liên tục như những đợt sóng cảm xúc không ngừng.
Mình về mình có nhớ không
Mình đi có nhớ những ngày
Mình về có nhớ chiến khu
Mình về, rừng núi nhớ ai
Mình đi, có nhớ những nhà
“Mình - ta” xen kẽ tạo ra âm điệu từ những kỷ niệm, những kí ức sống động như vừa mới diễn ra. Tất cả chi tiết, cụ thể đến mức người đọc có thể tưởng tượng và tái hiện từng đường nét, hình dáng của mảnh đất Việt Bắc và con người ở đây.
Kiểu kết cấu đối đáp mình - ta được Tố Hữu áp dụng một cách độc đáo, sáng tạo. Nó tạo nên giọng điệu thâm thúy của lòng ru vỗ lúc như thủ thỉ, lúc tâm trạng sâu trong nỗi nhớ, niềm thương, lúc cảm xúc trào dâng như những đợt sóng cảm xúc mạnh mẽ, dồn dập. Sử dụng kiểu đối đáp trong ca dao, người đọc tự nhiên bước vào tác phẩm mà không gặp trở ngại từ câu chữ, ngữ từ. Giọng điệu thâm thúy của bài thơ tự nhiên khiến hồn người đọc hòa mình vào dòng cảm xúc của “mình-ta” bất kỳ lúc nào.
Có thể nói, đối đáp đã trở thành một kiểu kết cấu mở, có khả năng hiện lên, kêu gọi cảm xúc từ tầng này đến tầng khác một cách liên tục. Đây là kiểu kết cấu giúp nhân vật trữ tình có không gian rộng để bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của mình. Và với mỗi người Việt, họ luôn thấy mối quan hệ rất gần gũi khi gặp kiểu kết cấu đối đáp này khi thưởng thức bài thơ Việt Bắc như trong những bài ca dao xưa kia.
Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc cũng được thể hiện qua thể loại thơ lục bát và điệu nhẹ nhàng, nhịp nhàng của câu thơ.
Thể thơ lục bát là loại thể thơ mà dân tộc Việt Nam ưa chuộng và sử dụng phổ biến nhất. Loại thể thơ này thường được sử dụng để diễn tả những tình cảm sâu sắc, những kỷ niệm dai dẳng và khiến cho nghĩa tình giữa các đối tượng và chủ thể trở nên rất sâu đậm. Không có gì lạ khi ca dao, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm đều đạt được thành công lớn khi sử dụng thể thơ này.
Tố Hữu đã sử dụng thể thơ lục bát một cách tài tình, đặc biệt là khi muốn diễn tả mối quan hệ sâu sắc giữa cán bộ cách mạng và quê hương kháng chiến. Nếu Tố Hữu sử dụng thể thơ ngũ ngôn, lục ngôn, hoặc thơ tám chữ trong bài thơ này, thì sẽ khó có thể thể hiện được sự đậm đà và ngọt ngào của tình nghĩa con người Việt Bắc, sự đằm thắm của những kỷ niệm và sự nhớ thương.
Người đọc cảm nhận được sự xúc động chân thành của 'người đi - kẻ ở':
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta xưa trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”.
Những câu thơ lục bát có nhịp nhàng đã có tác dụng đặc biệt trong việc kích thích cảm xúc của người đọc. Người đọc tự nhiên đồng điệu với tâm trạng của nhân vật trữ tình, sống và cảm nhận cùng với nó. Từ rừng nứa, bờ tre, mái đình, cây đa; từ hoa chuối, hoa mơ, Ngòi Thia, sông Đáy đến Phủ Thông, đèo Giàng, tất cả đã khiến con người nhớ mãi. Những hình ảnh này đã thấm vào tâm hồn, trở thành những 'cõi nhớ' trong lòng mỗi người, luôn gắn liền với Việt Bắc.
Chính thể thơ lục bát đã ảnh hưởng đến giọng điệu và nhịp nhàng của bài thơ. Mỗi câu thơ trong Việt Bắc được viết theo nhịp nhàng, thường là 2/2/2; 3/3; 2/2/2/2; 4/4. Ví dụ:
- Ở đâu u ám quân thù (2/2/2)
Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi (4/4)
- Mình đi mình lại nhớ mình (2/2/2)
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu (4/4)
Nhịp thơ là nhịp điệu cảm xúc, khiến những kỷ niệm sống lại, vang mãi trong lòng người. Cặp lục bát bắt vần, thả nhịp đều đặn, mỗi cặp lục bát như một nốt nhạc cảm xúc 'có nhớ'. Tiếng ấy liên tục xô đuổi như những đợt sóng thương nhớ cồn cào:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Việt Bắc hiện ra trong bức tranh toàn cảnh: con người, không gian, thời gian, núi rừng. Mỗi cặp lục bát như một bức tranh 'hoa cùng người'. Bốn cặp lục bát tạo thành bức tranh tự nhiên cân bằng, hài hòa.
Bức tranh thiên nhiên được dệt bằng nỗi nhớ, sắc màu của núi rừng. Con người và hoa hòa quyện, tô điểm cho cảnh sắc thêm phần sinh động. Thông qua thể thơ lục bát, linh hồn của bức tranh được hiện lên rõ ràng. Bức tranh mùa đông với hoa chuối đỏ, mặt trời sáng lấp lánh, bóng dáng người với nét đặc trưng của vùng cao. Mùa xuân với thảm hoa mơ, dáng người đan nón mềm mại. Mùa hạ với tiếng ve và hình ảnh cô em gái hái măng một mình. Mùa thu rực rỡ với ánh trăng và tiếng hát ân tình thủy chung.
Cấu trúc tiểu đối đồng loạt tạo ra bè trầm âm hưởng thương nhớ. Cấu tạo đối vừa tô điểm ý cho từng vế vừa mở ra ý ngoài lời. Những câu thơ cùng tiết tấu đã tạo ra ý nghĩa ở giữa các từ, các câu.
Tính dân tộc là điểm nổi bật của Việt Bắc, tạo nên sức hút của bài thơ. Tính dân tộc giúp nhà thơ chuyển tải tư tưởng hiện đại, tiên tiến. Đây là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Tố Hữu, ngợi ca những ngày hào hùng của dân tộc, khi mảnh đất Việt Bắc chứa đựng những chiến công hào hùng, tươi đẹp của dân tộc. Bài thơ Việt Bắc đã gửi gắm tinh thần và tư tưởng của thời đại một cách xuất sắc, đúng như những bài ca dao.
Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu - mẫu 8
Thơ như là cây đàn, biểu hiện mọi cung bậc cảm xúc của con người, từ niềm vui, nỗi buồn đến cô đơn tuyệt vọng. Bài thơ Việt Bắc thể hiện sâu sắc tính dân tộc qua từng câu, từng chữ.
Cảm xúc chân thật tạo nên tác phẩm văn học chân chính. Tác phẩm của Tố Hữu luôn phản ánh chân thực quá trình cách mạng, thể hiện sâu sắc tính dân tộc. Có thể kể đến bài thơ Việt Bắc.
Bài thơ Việt Bắc thể hiện tính dân tộc qua thể thơ lục bát quen thuộc, lối đối đáp 'ta', 'mình', cũng như qua những hình ảnh giản dị tình nghĩa thủy chung gắn bó.
Mình về mình có nhớ ta
...........
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
Bức tranh chia tay đầy bịn rịn, quyến luyến của người dân Việt Bắc và cán bộ miền xuôi, thể hiện tình quân dân gắn bó qua cầm tay chặt. Đó là một tình cảm cao đẹp của dân tộc Việt Nam.
Tính dân tộc hiện lên qua những hoài niệm về thiên nhiên và con người. Trong tác phẩm, thiên nhiên và con người hiện lên với vẻ đẹp mộng mơ, đậm đà lòng son sắc với tinh thần lạc quan.
Hình ảnh của con người đẹp hơn khi hòa hợp với thiên nhiên qua bức tranh thiên nhiên bốn mùa.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
.......
Nhờ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Đoạn thơ này thể hiện tính dân tộc sâu sắc nhất trong tác phẩm, với những hình ảnh đẹp về thiên nhiên và con người. Tác giả mở đầu với câu hỏi tu từ.
“Ta về mình có nhớ ta,
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Nhà thơ sử dụng câu hỏi để thể hiện tâm trạng và kết nối giữa hoa và con người, tạo ra sự gắn kết giữa hai yếu tố đó.
Bức tranh mùa đông mở đầu cho bức tranh về bốn mùa, với hình ảnh hoa chuối đỏ tươi nổi bật giữa rừng xanh, tượng trưng cho sự ấm áp và gắn kết của con người với thiên nhiên.
Tác giả chuyển từ miêu tả không gian sang thời gian, tạo ra hình ảnh mùa xuân tinh khiết và mùa hè sôi động, với tiếng ve ngân và màu sắc rực rỡ của hoa.
Mỗi mùa trong bức tranh thể hiện sự thay đổi của thiên nhiên và tư thế tỉ mỉ của con người, tạo ra một khung cảnh sống động và đáng nhớ.
Tố Hữu kết thúc bức tranh với một cảnh thu, thể hiện sự kết hợp giữa thiên nhiên và con người. Bức tranh thu mang lại cảm giác bình yên và niềm tin vào tương lai của con người Việt Bắc.
Tác phẩm cũng thể hiện tính dân tộc khi miêu tả về các cuộc hành quân hào hùng của dân tộc và vai trò của Cách mạng và chiến khu Việt Bắc.
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp, trùng trùng,
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay'
Với từ ngữ mạnh mẽ như “đêm đêm”, “rầm rập”, “điệp điệp”, “trùng trùng” và hình ảnh bước chân “nát đá muôn tàn lửa bay”, tác giả thể hiện sự anh dũng và niềm tin của con người Việt Bắc trong cuộc chiến.
“Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa bình tây bắc Điện Biên vui về,
Vui từ Đồng Tháp, An Khê,
Vui lên Việt bắc, đèo de núi Hồng”
Chiến thắng đạt được nhờ sự đoàn kết của dân tộc và sự lãnh đạo của Đảng. Tố Hữu đã diễn tả về sự đoàn kết to lớn của dân tộc Việt Nam trong chiến thắng đó.
Tính dân tộc không chỉ được thể hiện qua nội dung mà còn qua hình thức nghệ thuật, với thể thơ lục bát, sự đối đáp “mình, ta” trong ca dao, tất cả tạo nên một tác phẩm đậm chất dân tộc.
Mỗi khi đọc lại đoạn trích, ta vẫn cảm nhận được vẻ hào hùng của Việt Bắc, sự gắn bó chặt chẽ của quân dân, và tinh thần dân tộc sâu sắc qua bài thơ của Tố Hữu. Hãy sống và hy sinh để đất nước trở nên tốt đẹp hơn.
Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu - mẫu 9
Tố Hữu được biết đến như là lá cờ đầu của thơ cách mạng Việt Nam, tác phẩm của ông phản ánh sự phát triển của dân tộc. Mỗi tập thơ của ông là một bức tranh sống động về lịch sử dân tộc Việt Nam.
Tính dân tộc được thể hiện rõ trong từng tập thơ của Tố Hữu, đặc biệt là trong bài thơ “Việt Bắc”, một tác phẩm tiêu biểu cho thơ ca kháng chiến chống Pháp.
“Nhớ ông cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường”
Tố Hữu gọi Bác là “Ông cụ” để tôn kính và thể hiện tình cảm thân thiết. Hình ảnh của Bác với chiếc áo nâu và túi vải tươi thường ngày là hình ảnh gần gũi và quen thuộc với người dân Việt Nam.
“Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi”
Trong việc sáng tác bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu không chỉ thể hiện lòng biết ơn của nhân dân đối với Đảng và Bác Hồ mà còn thể hiện sự gắn bó sâu sắc với nhân dân của Việt Bắc. Trong lòng người ra về, hình ảnh áo chàm giản dị và thủy chung vẫn còn đọng mãi. Trong suốt 15 năm chiến đấu, nhân dân và chiến sĩ cách mạng của Việt Bắc đã vượt qua mọi gian khó để đem cuộc kháng chiến chống Pháp đến thành công.
“Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng lên cộng hòa”
Tố Hữu ca ngợi tình cảm thủy chung và sự đoàn kết của nhân dân và chiến sĩ cách mạng Việt Bắc, đó là biểu hiện của truyền thống “uống nước nhớ nguồn” và truyền thống đánh giặc giữ nước. Bài thơ thể hiện tính toàn dân toàn diện của cuộc kháng chiến, với sự tham gia đồng lòng của mọi lớp nhân dân. Đoàn quân ra trận được đồng hành bởi đoàn dân công, đóng góp lương thực và đạn dược cho chiến trường.
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”
Tinh thần của cả dân tộc khi ra trận là mãnh liệt và hào hùng, không ai có thể ngăn cản được. Họ ra trận với niềm tin vững chắc vào ngày mai thắng lợi.
Bài thơ “Việt Bắc” là minh chứng cho sự thành công của Tố Hữu không chỉ trong mặt nội dung mà còn trong mặt nghệ thuật, với thể thơ lục bát, ngôn từ sâu sắc và hình ảnh sinh động. Tố Hữu, người con Huế, đã kết hợp những làn điệu dân ca vào tác phẩm của mình. Bài thơ được viết theo hình thức lục bát, với cấu trúc đối đáp như một câu chuyện tình yêu, thể hiện tình cảm chân thành giữa người cách mạng và Việt Bắc.
“Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”
Khi đọc thơ của Tố Hữu, ta ấn tượng với cách sử dụng cặp đại từ “mình”, “ta” giống như trong ca dao xưa. Người cách mạng và người dân Việt Bắc đã coi nhau như những người bạn tri kỉ trong suốt 15 năm. Vì thế, đại từ “mình” và “ta” được nhà thơ vận dụng rất linh hoạt, có lúc phân định rõ nhưng cũng có lúc hòa làm một. Điều này thể hiện sự gắn bó sâu nặng giữa quê hương Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến.
Bài thơ của Tố Hữu thể hiện tính dân tộc qua âm điệu. Bài thơ rất giàu nhạc điệu với hệ thống từ láy như “rầm rập”, những từ như “nhớ”, “vui”… tạo tính cân xứng cho câu thơ.
Nhà thơ Chế Lan Viên đã nhận xét về thơ của Tố Hữu: “Tố Hữu có một bút pháp quần chúng trong hình ảnh’’. Khi đọc bài thơ Việt Bắc, ta thấy những hình ảnh như “củ khoai”, “củ sắn”, “bờ lau” rất bình dị nhưng lại trở thành biểu tượng cho cuộc sống khó khăn của đồng bào Việt Bắc, của toàn dân tộc trong những ngày đầu của cuộc chiến chống Pháp.
Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu thể hiện tấm lòng chân thành dành cho Đảng, cho cách mạng, cho nhân dân. Bài thơ giúp ta cảm nhận được nhiều phẩm chất đáng quý của con người Việt Nam: yêu nước, tương thân tương ái, đoàn kết, lạc quan, thủy chung; thấy được bản sắc văn hóa dân tộc. Đọc thơ Tố Hữu, ta thêm yêu quê hương, Tổ quốc mình. Bài thơ này xứng đáng là một kiệt tác của văn học cách mạng Việt Nam.
Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu - mẫu 10
Gớt từng nói: “Một nghệ sĩ có thể coi là nhà văn mẫu mực của dân tộc nếu tác phẩm của anh ta thấm nhân tính dân tộc”. Khi tính dân tộc thấm sâu vào từng yếu tố của tác phẩm, bạn sẽ thấy màu xanh của lá, mùi của đất, tiếng chim hót trên cành, hương của hoa… Đọc “Việt Bắc” của Tố Hữu, bạn sẽ thấy lịch sử, tình yêu, núi rừng, ca dao dân ca của Việt Nam nhưng lại được thể hiện bằng giọng điệu rất riêng. Tác phẩm này thể hiện tính dân tộc ở cả nội dung và hình thức nghệ thuật.
Tính dân tộc là phản ánh của bản sắc dân tộc qua cả nội dung và hình thức nghệ thuật trong một tác phẩm văn học. Tính dân tộc cũng là đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của thơ Tố Hữu. Nhà thơ luôn thể hiện tính bản sắc dân tộc trong từng tác phẩm mà “Việt Bắc” là một minh chứng rõ nét.
Tố Hữu đã thể hiện những đặc điểm độc đáo của văn hóa Việt Nam trong nội dung của mình.
“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bở tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê tràn đầy”
Tác giả cũng thể hiện tinh thần quân dân cả nước mặn nồng và truyền thống “uống nước nhớ nguồn”.
Về mặt nghệ thuật, Tố Hữu đã sáng tạo thành công hình ảnh người đi và người ở trong ca dao, dân ca. Trong ca dao, dân ca, mình – ta, người đi – người ở thường dùng để diễn đạt tình cảm riêng tư, tình cảm đôi lứa. Tuy nhiên, trong bài thơ, sự đối đáp này thể hiện tình yêu nước, tình yêu cách mạng của tất cả mọi người.
“Ta về ta có nhớ mình
Mười lăm năm ấy trân trọng và mãnh liệt”
Đọc hai dòng thơ này có vẻ như nói về tình yêu đôi lứa, nhưng khi đọc tiếp ở những dòng thơ sau, đặc biệt là hai dòng
“Áo chàm đưa chia ly ngày
Nắm tay nhau không biết nói gì hôm nay”
mới nhận ra đó là cuộc chia tay giữa đồng bào và chiến sĩ. Vậy, tuy nội dung là tình cảm chung, nhưng hình thức lại là tình yêu đôi. Câu chuyện về tình yêu quê hương, tình yêu cách mạng đến với người đọc qua lối viết của tình yêu đôi, tạo nên một sức cuốn hút sâu sắc và cũng là sự sáng tạo của tác giả.
Trong nghệ thuật đặc sắc, Tố Hữu còn sử dụng đại từ mình – ta một cách sáng tạo. Cặp đại từ này được sử dụng không chỉ mộc mạc, bình dị mà còn gần gũi, thân thiết như trong ca dao, dân ca:
“Ta và mình, mình và ta
Trái tim ta vững vàng trước màn mà đinh ninh”
Có những câu thơ, cặp đại từ được sáng tạo để diễn đạt tình cảm giữa nhân dân và cách mạng. Trong tiếng Việt, “mình” thường được sử dụng ở ngôi thứ nhất, nhưng trong bài thơ “Việt Bắc”, cặp mình – ta được sử dụng một cách độc đáo. Từ “mình” thường chỉ đối tượng ở ngôi thứ hai:
“Mình về mình có nhớ ta”
Cũng có khi từ “mình” đồng thời nói về bản thân và đối tượng
“Mình đi mình lại nhớ mình”
Với biện pháp nghệ thuật này, Tố Hữu đã diễn đạt sự gắn bó giữa “mình” với “ta”, trong “mình” có “ta” và trong “ta” có “mình”, cũng như sự gắn bó giữa nhân dân với cách mạng, trong cách mạng có nhân dân và trong nhân dân có cách mạng.
Tính dân tộc trong đặc sắc nghệ thuật còn thể hiện ở việc tác giả đã sử dụng một cách sáng tạo và thành công thể thơ lục bát của dân tộc. Thành công bởi Tố Hữu đã tạo ra những câu thơ lục bát đẹp như ca dao dân ca:
“Nhớ như nhớ người yêu
Trăng lên cao, núi chiều nắng rọi lưng nương
Nhớ từng bản khói, từng sương
Sớm chiều, bếp lửa, người thương đi về”
Những câu thơ lục bát của Tố Hữu mẫu mực và điêu luyện, đạt đến trình độ cao. Để thể hiện vẻ đẹp chuẩn mực này, Tố Hữu đã sử dụng những câu thơ một cách nhịp nhàng cân xứng bằng nghệ thuật tiểu đối
“Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
“Lòng Bâng Khuâng dạ / bồn chồn bước chân”
“Mưa nguồn suối, lũ / mây mù đan chặt”
“Miếng cơm, giọt muối / mối thùng gánh vai”
Ngoài nghệ thuật tiểu đối, tác giả còn sử dụng bình đối để tạo vẻ đẹp cân xứng. Đặc biệt trong đoạn thơ mô tả vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc như một bức tranh tứ bình, mỗi câu sáu chữ tả thiên nhiên lại đi kèm với câu tám chữ khắc họa hình ảnh con người, tạo nên âm điệu du dương, trầm bổng, sâu nặng và ngân nga vang lên trong lòng người đọc.
“Việt Bắc” của Tố Hữu sẽ mãi tồn tại trong tâm trí bạn đọc qua các thế hệ, với tính dân tộc đậm đà thấm nhuần trong từng dòng thơ. Không thể phủ nhận bài thơ như một tác phẩm văn học mẫu mực của dân tộc.