
Niềm tin cần được coi là một dạng tín ngưỡng... chúng ta cần nhận ra rằng chúng ta là những sinh vật tâm linh sống trong một thế giới tâm linh, đồng thời là những sinh vật vật chất với cơ thể và bộ não sống trong một thế giới vật chất.
Sir John C. Eccles (1903-1997)
Nếu nhắc đến trải nghiệm gần chết, có ba phái nguyên đối lập. Những ai tin: đã từng trải qua, hoặc chấp nhận dễ dàng. Tiếp theo là những người kiên quyết không tin (như tôi trước đây). Dù vậy, họ thường không tự cho mình là không tin. Họ chỉ đơn giản “hiểu” rằng bộ não tạo ra ý thức và không muốn nghe những ý tưởng về tâm trí bên ngoài cơ thể (trừ khi muốn an ủi ai đó).
Nhóm trung lập bao gồm những người đã nghe về trải nghiệm gần chết qua nhiều nguồn khác nhau, qua sách báo, tài liệu hoặc từ người thân đã trải qua. Những người ở nhóm này có thể thấu hiểu câu chuyện của tôi. Hiểu biết từ trải nghiệm gần chết có thể thay đổi cuộc sống. Nhưng khi một người sẵn lòng lắng nghe chia sẻ từ một bác sĩ hoặc nhà nghiên cứu, thì họ thường nhận được câu trả lời rằng trải nghiệm gần chết chỉ là ảo tưởng: là sản phẩm của bộ não cố gắng giữ lấy sự sống, không có gì khác.
Là một bác sĩ đã trải qua những gì mình đã trải, tôi cảm thấy có trách nhiệm kể lại câu chuyện của mình.
Tôi xem xét các giả thuyết mà đồng nghiệp và bản thân trước đây đã đề xuất để “giải thích” những gì đã xảy ra với tôi.
Liệu trải nghiệm của tôi có phải là một cơ chế của bộ não nhằm giảm bớt cảm giác đau và khổ sở trong những phút cuối cùng? Tôi loại bỏ ngay giả thuyết này. Trải nghiệm của tôi, với sự tinh tế của thính giác và thị giác, cùng với khả năng lĩnh hội ý nghĩa ở mức độ cao, không thể là kết quả của bộ não bò sát bên trong tôi.
Có lẽ đó là những ký ức đánh lạc từ những phần sâu hơn của hệ limbic - phần của não tạo ra cảm xúc của tôi? Một lần nữa, câu trả lời vẫn là không nếu không có phần vỏ não mới đang hoạt động, hệ thống thần kinh của não không thể tạo ra những hình ảnh rõ ràng và logic như những gì tôi đã trải qua.
Liệu trải nghiệm của tôi có thể là một hình ảo do một số loại thuốc (trong nhiều loại) mà tôi đã sử dụng? Giả thuyết này cũng không đúng - tất cả các loại thuốc này tác động vào vỏ não mới. Và nếu vỏ não mới không hoạt động, thì không có cơ sở nào để thuốc có thể phát huy tác dụng.
Còn giả thuyết về giấc ngủ REM thì sao? REM là một hội chứng khi giấc mơ xuất hiện. Nhưng giả thuyết này cũng không đúng. Giấc ngủ REM chỉ xảy ra khi có vỏ não mới hoạt động, mà trong trường hợp của tôi lúc đó thì không.
Có thể là giả thuyết về “nhiễm DMT”. DMT giống serotonin và có thể tạo ra một trạng thái phiêu diêu. Tuy nhiên, vỏ não mới của tôi không hoạt động vào thời điểm đó để bị ảnh hưởng bởi DMT.
Tuy vậy, DMT không có ảnh hưởng đến vỏ não mới trong trường hợp của tôi. Do đó, giả thuyết nhiễm DMT không đủ căn cứ để giải thích những gì đã xảy ra với tôi.
Giả thuyết cuối cùng mà tôi xem xét là “hiện tượng khởi động lại'. Hiện tượng này giải thích trải nghiệm của tôi như là một tập hợp những ký ức và suy nghĩ cơ bản là rời rạc còn sót lại trước khi vỏ não của tôi hoàn toàn sụp đổ. Tôi hiểu được tại sao rất nhiều nội dung viết về khía cạnh tâm linh lại có vẻ lệch lạc hay đơn giản là phi lý khi nhìn từ quan điểm thế gian của chúng ta.
Trong những thế giới khác, thời gian không vận hành giống như ở đây. Một khoảnh khắc có thể kéo dài như cả một đời, và một vài kiếp sống có thể chỉ như một khoảnh khắc.
Dù thời gian không vận hành theo cách thông thường trong những thế giới khác, nhưng những ký ức của tôi từ khi tôi rơi vào hôn mê vẫn rất rõ ràng [...].
Đọc những lý giải “có cơ sở khoa học” về trải nghiệm cận tử, tôi sốc bởi sự hời hợt rõ ràng của chúng. Những lý lẽ này chính xác là những gì mà “tôi” trước đây đã viện đến nếu có ai đó nhờ tôi “giải thích” trải nghiệm cận tử là gì.
Những người không phải là bác sĩ không thể hiểu được điều này. Nếu những chuyện xảy ra với tôi lại xảy ra với một người nào khác - bất kỳ người nào - thì trải nghiệm đó cũng đáng suy ngẫm.