Tổng hợp hơn 30 bài văn Cảm nhận của bạn về 2 khổ thơ cuối trong bài Đoàn thuyền đánh cá, đồng thời cung cấp dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn tốt hơn.
30 Cảm nhận ưu tú về hai khổ thơ cuối trong bài Đoàn thuyền đánh cá (hấp dẫn, ngắn gọn)
Cảm nhận của bạn về hai khổ thơ cuối trong bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 1
Huy Cận là một trong những nhà thơ nổi tiếng của thơ ca hiện đại Việt Nam. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” viết năm 1958, trong thời gian ông ở Hòn Gai – Quảng Ninh, được in trong tập “Trời mỗi ngày mỗi sáng”. Bài thơ đã mô tả nhiều hình ảnh đẹp, thể hiện sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. Điều này được thể hiện rõ qua hai khổ thơ cuối của bài.
Bài thơ ra đời trong thời kỳ miền Bắc nước ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Toàn bộ bài thơ phản ánh âm hưởng mạnh mẽ, hùng dũng, lạc quan, thể hiện rõ sự chuyển biến trong cảm hứng nghệ thuật của nhà thơ Huy Cận.
Cũng như trước đó, sự cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ vẫn là chủ đề chính, nhưng trong bài này, thiên nhiên vũ trụ được miêu tả là tươi sáng, phong phú, gần gũi với con người, mạnh mẽ và tự tin như một vị chủ nhân của biển cả.
Trong không gian biển rộng lớn, sau khi xác định được dòng cá, người dân thợ câu tung lưới, hát vang tiếng gọi cá, chờ đợi, và công việc cuối cùng là kéo lưới:
“Tại sao khúc kéo lưới lại chậm trong bình minh
Tay ta kéo lên, lưới tràn đầy cá nặng”
Câu thơ thứ ba mang màu sắc lãng mạn: “Vảy bạc đuôi vàng lấp lánh giữa bình minh”. Câu thơ này thể hiện những con cá tươi ngon có màu sắc rực rỡ (vảy bạc đuôi vàng) bừng sáng giữa bình minh. Từ “bạc, vàng” tượng trưng cho sự quý giá, giàu có, thể hiện sự giàu có của biển cả, đồng thời cũng thể hiện sự biết ơn của ngư dân trước sự hào phóng, ân cần của biển cả.
Công việc đánh cá kết thúc với việc “xếp lưới, buồm lên”, những con thuyền chuẩn bị quay về. Cụm từ “đón nắng hồng” là biểu tượng của sự hân hoan, hạnh phúc của người dân thợ câu sau khi kéo lên những chùm cá nặng lên thuyền. Họ muốn chia sẻ niềm vui với ánh bình minh rực rỡ.
Sau một đêm đánh cá vất vả, đoàn thuyền trở về vào lúc bình minh:
“Âm nhạc của sóng cùng gió
Đoàn thuyền hòa mình vào bình minh”
Câu thơ “âm nhạc của sóng cùng gió” gần như giữ nguyên câu thơ trong khổ thơ đầu tiên. Đây là lần thứ ba âm thanh vang lên. Âm nhạc biểu hiện niềm vui của người dân thợ câu khi họ nhận được phần thưởng rực rỡ sau một đêm làm việc vất vả. Tiếng hát hùng tráng vang lên khi đoàn thuyền trở về, nhà thơ nhân hóa “đoàn thuyền” cùng “hòa mình vào bình minh”, kết hợp với thời gian.
Hai từ “chạy đua” cho thấy sức mạnh và năng lượng của những người đan chài dù đã làm việc suốt đêm. Huy Cận đã tôn vinh họ lên tầm vóc vũ trụ rộng lớn. Con người xứng đáng với tầm vóc của chủ nhân biển cả, luôn sẵn lòng lao động, cống hiến.
“Mặt trời mọc từ biển, thắp lên màu mới
Mắt cá rực rỡ muôn dặm phơi”.
Bình minh trên biển được miêu tả sinh động qua biện pháp nhân hóa “mặt trời đội biển”, tạo cảm giác thần thoại. Mặt trời có sức mạnh lớn lao, như đang mọc từ biển, mang theo màu hồng bình minh chào đón người lao động. Câu thơ cuối gợi lên hình ảnh đoàn thuyền trở về, mỗi khoang đều đầy ắp cá.
Ánh mặt trời chiếu vào mắt cá khiến chúng lấp lánh như một mặt trời nhỏ. “Mắt cá rực rỡ” là biểu hiện của thành quả lao động, niềm vui và tự hào của những người lao động. Đó là một hình ảnh sáng tạo và lãng mạn.
Dàn ý Cảm nhận về 2 khổ thơ cuối bài Đoàn thuyền đánh cá
I. Giới thiệu về bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
- Phân tích về 2 khổ cuối bài Đoàn thuyền đánh cá.
- Giới thiệu bối cảnh cần phân tích – 2 khổ cuối trong bài Đoàn thuyền đánh cá.
II. Phần thân bài phân tích 2 khổ cuối trong bài Đoàn thuyền đánh cá:
1. Mô tả cảnh kéo lưới vào lúc sáng sớm (khổ 6):
- Khi ra khơi ban đêm, lúc “sao mờ”, gần bình minh là lúc thuyền quay về.
- Đoàn thuyền thu hoạch được nhiều cá: “kéo xoăn tay chùm cá nặng”.
- Thành quả lớn lao, người lao động hân hoan: trên thuyền, đàn cá lung linh dưới ánh bình minh, ngư dân xếp lưới, căng buồm trở về dưới “ánh nắng hồng”.
- Con người luôn khao khát chiến thắng, làm chủ thiên nhiên nhưng cũng biết ơn thiên nhiên: Biển ban cho ta cá như mẹ thương con/ Nuôi ta lớn từ bao đời.
2. Cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh (khổ 7):
- Tiếng hát kết hợp với tiếng gió làm căng cánh buồm, đưa đoàn thuyền trở về.
- Hình ảnh đoàn thuyền “chạy đua cùng mặt trời” gợi lên không khí khẩn trương, tốc độ di chuyển nhanh, mạnh mẽ của đoàn thuyền trên không gian rộng lớn của biển.
- Khi mặt trời mới “đội biển nhô màu mới”, đoàn thuyền đã vượt qua hành trình dài trên biển để trở về bến.
- Hình ảnh con người tự tin, làm chủ cuộc sống trong không gian rộng lớn của thiên nhiên, trở nên đẹp đẽ hơn.
- “Mắt cá rực rỡ muôn dặm phơi” thể hiện niềm vui, sự tự hào của những người ngư dân sau một đêm làm việc vất vả trên biển.
3. Điểm nghệ thuật đặc biệt:
- Sự hăng say lao động được thể hiện qua giọng thơ nhanh, dồn dập.
- Sử dụng nhiều động từ mạnh để thể hiện hình ảnh khỏe mạnh của người lao động.
- Sử dụng nhiều tính từ mô tả màu sắc như vàng, bạc, hồng để gợi lên sự tươi vui, ấm áp.
III. Kết bài phân tích 2 khổ cuối trong bài Đoàn thuyền đánh cá:
- Tóm lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.
- Phân tích cảm nhận cá nhân.
Cảm nhận của em về 2 khổ thơ cuối trong bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 2
Huy Cận là một trong những nhà thơ của phong trào thơ Mới, mang một giọng điệu độc đáo với sự nhấn mạnh vào sự vĩnh cửu của vũ trụ rộng lớn, tràn đầy nhân ái và sự bao dung trong một thế giới kỳ diệu và bí ẩn. Con người, như một phần không thể tách rời, là trung tâm của sự xoay vần vũ trụ cảm hứng trong thơ ông, với những khao khát về cái đẹp và kỳ diệu của cuộc sống, tạo nên một sức hút đặc biệt trong thơ ông.
Đọc thơ của ông, ta được đưa vào thế giới của mây trời và sông nước, và nhận ra tài hoa của ông trong việc chạm khắc ngôn ngữ để làm sống dậy thiên nhiên. “Đoàn thuyền đánh cá” là một ví dụ điển hình. Trong bài thơ, hai khổ thơ cuối làm nổi bật:
“Khi sao mờ, ta kéo lưới kịp trời sáng,
Xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới buồm trên đón nắng hồng.
Câu hát căng buồm cùng gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh “mặt trời xuống biển” và kết thúc bằng “mặt trời đội biển”, thể hiện một đêm lao động trên biển đầy đủ. Các khổ thơ đầu tiên miêu tả cảnh thuyền ra khơi và đánh cá. Hai khổ cuối thể hiện một đêm lao động qua nhanh và đoàn thuyền trở về.
Sau cảnh đánh cá, cảnh kéo lưới khi trời gần sáng xuất hiện rất đẹp và khỏe khoắn:
“Khi sao mờ, ta kéo lưới kịp trời sáng,
Xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới buồm trên đón nắng hồng”
Các ngư dân đồng lòng kéo lưới, kéo ” chùm cá nặng”. Biết bao nhiêu con cá mắc vào lưới như những chùm trái cây treo lủng lẳng. Từng chùm cá được những cánh tay mạnh mẽ kéo lên khỏi mặt nước ” ta kéo xoăn tay”. Thuyền của ngư dân đầy ắp cá. Huy Cận là một nghệ sĩ thực thụ khi ông lột tả hồn của tạo vật: màu vàng của đuôi cá, màu bạc của vẩy cá dưới ánh trăng lúc rạng đông sáng lấp lánh tuyệt đẹp.
Nhà thơ đã sử dụng màu sắc thiên nhiên kỳ diệu để tạo nên màu sắc ấm áp của cuộc sống. Cảnh đánh cá của ngư dân đã cho ta thấy không khí lao động vừa lãng mạn vừa hăng say, lao động thực sự trở thành niềm vui của cuộc sống, những con người mới trong xã hội mới đã biết trân trọng những giá trị của lao động.
Người dân trong bài thơ là hình ảnh thực tế của cuộc sống lao động, mang trong mình phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam. Mặn mà của biển cả mang lại hương vị nồng ấm của cuộc sống. Hình ảnh ” đón nắng hồng” thể hiện niềm tin vào cuộc sống mới, cuộc sống xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Một đêm qua đi khi bình minh ló dạng cũng là lúc một ngày mới bắt đầu. Và lúc đó là khung cảnh trở về của thuyền:
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
Thuyền trở về mang theo trong khoang đầy ắp cá tôm, cũng là lúc ngư dân vang tiếng hát lần thứ ba. Trong bài thơ đã có hai câu hát từ các khổ thơ trước:
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng”
Và:
“Ta hát bài hát gọi cá vào”
Tiếng hát trong khúc thơ cuối phản ánh niềm vui hạnh phúc sau một đêm lao động vất vả. Thuyền và mặt trời, qua sự nhân hóa và cấu trúc song hành, tạo nên không khí khẩn trương hối hả. Hình ảnh mặt trời đội biển tỏa ánh sáng bao trùm đại dương, thuyền phóng như bay về bến mang theo sự hối hả hào hứng không khác lúc ra khơi. Tiếng hát mừng chiến thắng lan tỏa ra khắp không gian mênh mông hòa theo âm vang sóng vỗ tạo nên một khúc ca tuyệt đẹp về cuộc sống.
Niềm hạnh phúc tràn đầy trong lòng những người lao động chân chính. Bằng mồ hôi, xương máu, bằng trí tuệ và nhiệt tình, người dân miền biển đã góp phần vào bản nhạc quê hương một bài hát về cuộc sống. Sự hào hứng chính là niềm hạnh phúc của thành quả lao động mang lại sức sống vĩnh viễn cho người lao động Việt Nam.
Tóm lại, với hai khúc thơ cuối, Huy Cận đã vẽ ra trước mắt người đọc bức tranh sau một đêm lao động vất vả, người dân cùng nhau kéo lưới về bến. Đồng thời, thông qua đó, thể hiện niềm tin vào cuộc sống mới, người dân hạnh phúc ”đón nắng hồng” trong xã hội chủ nghĩa.
Cảm nhận của tôi về 2 khúc thơ cuối của bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 3
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận ra đời trong một thời kỳ sôi động tại miền Bắc Việt Nam, khi mọi người đang cùng nhau xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội. Nhà thơ viết bài này tại vùng biển Quảng Ninh năm 1958, đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu về đề tài lao động của nhân dân khi họ làm chủ cuộc sống.
Hai khúc thơ cuối là hình ảnh kéo lưới khi sao vẫn mờ sáng và cảnh đoàn thuyền trở về:
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Cảnh kéo cá ra mắt lúc sao vẫn còn mờ, trời vẫn chưa kịp sáng, thể hiện tinh thần khẩn trương và hối hả của ngư dân khi kéo lưới, kèm theo sự hồi hộp và hy vọng. Cá mắc vào lưới thành những “chùm cá nặng” và chắc chắn phải là những ngư dân trai tráng mới có thể “kéo xoăn tay” mạnh mẽ, hình ảnh đó cũng ca tụng vẻ đẹp khỏe mạnh và tươi tắn trong lao động. Tác giả sử dụng từ “chùm” để mô tả về sinh vật tạo nên hình ảnh thơ đầy ấn tượng.
Tác giả đã mô tả những con cá biển tươi ngon mắc vào lưới rực rỡ “Vẩy bạc, đuôi vàng lóe rạng đông”, dưới tia nắng mở đầu “lóe” lên, những con cá nằm đầy trong khoang được phản chiếu bằng màu “vàng”, “bạc” thể hiện niềm vui tươi và phấn khởi của người dân làng chài. Các từ xếp, lên, đón, như mô tả các công việc trên biển được ra mắt một cách tuần tự và nhanh chóng, khẩn trương để trở về.
Ở khúc thơ cuối, chúng ta đã thấy hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về, gió biển thổi căng cánh buồm và đưa câu hát của ngư dân vang xa trên biển:
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Hình ảnh con thuyền “chạy đua” và mặt trời “đội biển”, đoàn thuyền đã lướt nhanh trên sóng như cướp lấy thời gian nhanh chóng trở về bến với gia đình và người thân. Đó là một cảnh tượng tráng lệ, cho thấy nhịp điệu cuộc sống khẩn trương cực kì. Hình ảnh “Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi” là một hình ảnh hoán dụ cực kì đặc sắc, thể hiện bút pháp lãng mạn của nhà thơ.
Muôn triệu mắt cá nhỏ li ti được phản chiếu ánh sáng rạng đông đang lấp lánh trở thành huy hoàng. Cả những dải sóng biển, cát và mắt cá đã tạo ra lấp lánh trải dài, rộng lớn trên “muôn dặm khơi”, câu thơ vừa miêu tả cảnh biển tráng lệ, lại vừa miêu tả cảnh một mùa cá bội thu.
Việc sử dụng màu sắc kết hợp với việc áp dụng các kỹ thuật nghệ thuật, tác giả Huy Cận đã tạo ra nhiều hình ảnh đẹp và ý nghĩa sâu sắc trong bài thơ. Một không gian tráng lệ và ngập tràn niềm vui ca hát, truyền tải thông điệp rằng lao động là niềm vui, làm nổi bật tinh thần hăng say lao động của người dân trong thời kỳ mới.
Cảm nhận của tôi về 2 khổ thơ cuối bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 4
Huy Cận là một nhà thơ nổi tiếng, ông đã sáng tác ra rất nhiều bài thơ hay và ý nghĩa vào năm 1958, tại vùng biển Quảng Ninh bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được ông viết lúc này chính là thời kỳ mà đất nước chúng ta đang xây dựng và phát triển kinh tế văn hóa tại miền Bắc. Bài thơ này được coi là một trong những bài thơ hay nhất ghi lại cảnh người dân ta được lao động tự do, tự do xây dựng cuộc đời mình.
Trong bài thơ, hai khổ thơ cuối chính là cảnh kéo lưới lúc mờ sáng và cảnh đoàn thuyền trở về lúc bình minh, là thành quả của một ngày lao động vất vả đối mặt với sóng to gió lớn để mang về những mẻ cá đầy khoang:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Đó là niềm vui, niềm hạnh phúc của mỗi người ngư dân khi mỗi ngày ra khơi kéo được những chùm cá nặng mang về bán để trang trải cuộc sống ấm no cho gia đình. Việc đánh cá ở ngoài khơi rất nguy hiểm có thể gặp sóng to gió lớn bất cứ lúc nào. Người ngư dân thật là vất vả, nhưng họ rất vui khi được làm công việc của mình.
Tác giả đã sử dụng từ ngữ mềm mại để làm nổi bật những con cá đầy màu sắc. Ngư dân luôn tuân theo lịch trình của bình minh và trở về khi sáng, để kịp thời đưa những con cá tươi ngon vào phiên chợ. Trong khúc thơ này, sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người, niềm vui của lao động được miêu tả qua những câu thơ hay của tác giả.
Khi ánh bình minh hé màu, đoàn thuyền đánh cá trở về, tác giả kết thúc bằng khúc thơ:
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi”
Đoàn thuyền trở về với những câu hát vang lần thứ ba, và tiếng hát cuối này thể hiện sự sung sướng và hạnh phúc của ngư dân sau một đêm lao động vất vả kéo lưới. Khúc thơ cuối rất ý nghĩa, thể hiện vẻ đẹp của biển rạng đông cùng với người lao động khỏe mạnh và tươi mới. Đất nước chúng ta sẽ thành công trong xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa nếu có người lao động nỗ lực như thế này.
Bằng cách sử dụng ngôn ngữ đa dạng và phong phú, Huy Cận đã làm nổi bật vẻ đẹp của người lao động biển và cho chúng ta thấy điều tốt đẹp nhất ở vùng biển này. Bài thơ phản ánh tinh thần lạc quan và yêu đời của tác giả.
Cảm nhận của tôi về 2 khúc thơ cuối của bài “Đoàn thuyền đánh cá”
Huy Cận viết bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” vào năm 1958, tại vùng biển Quảng Ninh. Bài thơ được sáng tác trong một thời kỳ sôi động của miền Bắc Việt Nam, khi đất nước đang xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá. Đây là một trong những bài thơ hay nhất về đề tài lao động, mô tả cuộc sống của nhân dân tự lập, tự chủ.
Bài thơ bao gồm bảy khổ thơ ghi lại hành trình của một đoàn thuyền đánh cá: ra khơi khi hoàng hôn, đánh cá trong một đêm trăng trên Hạ Long, và trở về bến khi rạng đông. Hai khổ thơ thứ sáu và thứ bảy miêu tả cảnh kéo lưới vào lúc sáng sớm và cảnh đoàn thuyền buồm căng gió lớn trở về:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
… Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
Việc kéo lưới diễn ra lúc “sao mờ” – khi trời sắp sáng. Từ “kịp” trong câu thơ “Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng” thể hiện sự khẩn trương, hối hả của ngư dân khi kéo lưới. Cảnh cá mắc vào lưới trở thành những “chùm cá nặng” như chùm trái cây treo lủng lẳng. Để có được nhiều cá như vậy, cần phải có những ngư dân trẻ trung, khỏe mạnh với đôi tay rắn chắc, sức khỏe dẻo dai mới có thể “kéo xoăn tay”.
Câu thơ “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng” là một câu thơ đẹp và ý nghĩa: hình ảnh này ca tụng vẻ đẹp của sức khỏe trẻ trung trong lao động. Huy Cận thường sử dụng từ “chùm” để mô tả thế giới của sinh vật, như gà, cá, tạo ra hình ảnh đầy ấn tượng, ngộ nghĩnh.
“Như cây sai mẹ đứng giữa chùm con
Chiều chiều thu vàng rực tâm hồn…”
(Chiều thu quê hương)
Trái cây sáng lấp lánh trong đàn cá biển “lấp lánh đuốc đen hồng cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”, ở khúc thơ thứ tư, còn ở khúc thứ sáu, những con cá biển tươi ngon mắc vào lưới cũng rất rực rỡ “Vẩy bạc, đuôi vàng lóe rạng đông”. Có thể nói rằng, những câu thơ về cá là những câu thơ đẹp nhất, sáng tạo nhất về sắc màu và hình ảnh.
Dưới ánh trăng đầy đẹp “lóe” lên, cá nằm đầy trong khoang thuyền được phản chiếu càng ánh lên màu “vàng”, “bạc”, thể hiện niềm vui tươi sáng trong lao động của ngư dân. Câu thơ “lưới xếp / buồm lên/ đón nắng hồng” với cách ngắt nhịp 2/2/3, với cách sử dụng liên tiếp ba động từ (xếp, lên, đón) diễn tả mọi công việc trên biển diễn ra tuần tự và khẩn trương.
Cuối bài tả đoàn thuyền đánh cá trở về bến. Ở đây, nhà thơ nhắc lại câu hát lần thứ ba. Lần thứ nhất mô tả tiếng hát ra khơi, tiếng hát phấn chấn, hồ hởi lên đường: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Lần thứ hai mô tả tiếng hát khi đánh cá, tiếng hát say mê lao động và ngợi ca biển với bao ân tình sâu nặng thiết tha: “Ta hát bài ca gọi cá vào”.
Lần thứ ba là tiếng hát mừng vui thắng lợi. Niềm vui của người dân chài hòa nhập với thiên nhiên – một rạng đông đẹp tươi, một ngày mới bắt đầu. Thuyền thì “chạy đua…”, mặt trời thì “đội biển”. Đoàn thuyền lướt sóng như cướp lấy thời gian, giành lấy thời gian, để nhanh chóng trở về bến. Cảnh tượng tráng lệ, nhịp điệu cuộc sống khẩn trương vô cùng:
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới…”.
Câu thơ “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” là một câu thơ hay cho thấy bút pháp lãng mạn của Huy Cận trong bài thơ này. Hình ảnh “mắt cá” (ẩn dụ) – muôn triệu mắt cá li ti được phản chiếu ánh rạng đông, càng trở nên huy hoàng. Sóng biển và cát lấp lánh cùng với muôn triệu mắt cá như trải dài, trải rộng trên “muôn dặm phơi”.
Câu thơ vừa tả cảnh biển tráng lệ lúc rạng đông, vừa tả cảnh được mùa cá (thậm xưng) đẹp. Nói rằng lao động là niềm vui sáng tạo. Nói rằng biển quê ta giàu đẹp. Nói rằng khi người lao động làm chủ cuộc đời thì mới có ấm no hạnh phúc. Cả ba điều ấy, Huy Cận đã nói được rất hay trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, đặc biệt trong hai khổ thơ này.
Với cách sử dụng màu sắc, với cách vận dụng các thủ pháp nghệ thuật như ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa và thậm xưng, Huy Cận đã sáng tạo được nhiều hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa. Một không gian tráng lệ tràn ngập niềm vui câu hát. Một rạng đông trên biển và một rạng đông trong lòng người vì “đất nở hoa’’ và “biển đang hát”…
Cảm nhận của tôi về 2 khổ thơ cuối bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 6
Nhà thơ Huy Cận viết bài thơ Đoàn thuyền đánh cá vào năm 1958, tại vùng biển của Quảng Ninh. Bài thơ ra đời trong giai đoạn miền Bắc nước ta đang tiến bộ về chủ nghĩa xã hội và phát triển về mặt kinh tế văn hóa. Đây được xem là một trong những bài thơ xuất sắc viết về sự khích lệ lao động khi nhân dân làm chủ cuộc sống
Bài thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá bao gồm bảy đoạn thơ mô tả hành trình của đoàn thuyền của ngư dân Quảng Ninh khi ra khơi đánh bắt cá: Mở đầu là sự ra khơi vào lúc hoàng hôn, tiếp theo là cảnh đánh bắt cá trong đêm trăng sáng trên biển Hạ Long và quay về bến vào lúc rạng đông. Hai khổ thơ cuối là cảnh đoàn thuyền trở về dưới ánh bình minh rực rỡ:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay đàn cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Hình ảnh sao mờ là dấu hiệu của thời gian: đêm sắp kết thúc, ban ngày đã đến - thời điểm công việc đánh cá diễn ra khẩn trương để thu hoạch cá. Công việc gần kết thúc, người lao động hạnh phúc với thành quả thu được. Bóng đêm tan dần, ban ngày mới bắt đầu, nhịp độ lao động càng tăng cao. Nhịp thơ 2/2/3 phản ánh sự khẩn trương của đoàn thuyền. Hình ảnh sao mờ giúp ta hiểu được tinh thần yêu lao động của họ. Họ đã thức trắng đêm để kéo lưới.
Hình ảnh lao động vất vả nhưng kiêu hãnh thể hiện qua cách miêu tả độc đáo kéo xoăn tay, chùm cá nặng là một so sánh thú vị, sinh động giúp ta hình dung cá nhiều như thế nào: chúng chật chội như một chùm trái cây. Chùm cá nặng cũng là biểu tượng cho thành công của lao động, nó chứa đựng niềm vui hạnh phúc của ngư dân.
Từ lóe được sử dụng một cách tinh tế và mô tả ánh bình minh đang lên, đồng thời mô tả sự nhảy múa của đàn cá trong lưới. Khi lưới được kéo lên, ánh nắng sớm chiếu trên khoang thuyền đầy ắp cá làm cho chúng lấp lánh, tạo ra vẻ đẹp của vảy bạc và đuôi vàng. Câu thơ đầy màu sắc nhưng điều bất ngờ nhất là hình ảnh lóe rạng đông, đuôi cá vẩy. Khoang thuyền đầy cá.
Nghệ thuật sử dụng màu sắc hài hòa: màu bạc, vàng tạo ra sự hòa quện, tạo ra một bức tranh rực rỡ, lung linh. Tiếng hát vang lên khi thuyền ra khơi, và giờ đây, tiếng hát vẫn vang vọng khi thuyền quay trở về. Trí tưởng tượng đã biến hiện thực trở nên phong phú:
Câu hát căng buồm, gió khơi hòa với sức mạnh biển cả
Thuyền đánh cá dậy sóng, chạy đua với mặt trời
Mặt trời như một vị vua, đội lên biển ánh sáng mới
Mắt cá lấp lánh, khoe vẻ đẹp trên muôn dặm sóng biển
Câu đầu tiên tái hiện câu cuối, tạo ra vòng tuần hoàn: từ việc thuyền ra khơi đến việc thuyền trở về. Lần này, thuyền chạy đua cùng mặt trời, biểu thị sự chiến thắng của con người, khi mặt trời đua biển mang ánh sáng đỏ rực. Sự hòa hợp giữa con người và vũ trụ rõ nét.
Biện pháp hùng biện kết hợp với hình ảnh hoán dụ mắt cá lấp lánh trên biển phơi sáng thành quả lao động và cuộc sống hạnh phúc của người dân. Ánh sáng mặt trời tôn vinh công việc lao động, khiến cho mắt cá tỏa sáng như những ánh nắng. Thuyền và con người trở nên đặc biệt trong vũ trụ rộng lớn này.
2 đoạn cuối thể hiện cảnh biển đẹp và tráng lệ, biểu hiện sự quan sát sắc bén và sự sáng tạo của nhà thơ. Công việc đánh cá vất vả, nhưng đem lại cuộc sống hạnh phúc. Niềm vui của ngư dân là dấu hiệu của sự phát triển mới.
Hai khổ thơ cuối tôn vinh vẻ đẹp của biển, của lao động, là niềm vui của con người làm chủ cuộc sống. Đoạn thơ ca ngợi biển rộng lớn và những người lao động gan dạ, đang góp phần làm giàu cho đất nước. Chúng ta cùng mừng vui với nhà thơ và những người lao động, những người đang tiến lên tương lai tươi sáng.
Cảm nhận về 2 khổ thơ cuối bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 7
Trước cách mạng tháng Tám, Huy Cận viết về sự cô đơn và đau khổ, nhưng sau cách mạng, ông viết về sự hòa hợp và niềm vui, thể hiện sự hòa nhập với cuộc sống mới. Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh miền Bắc giải phóng và xây dựng Chủ nghĩa xã hội, trong không khí phấn khởi và hứng khởi.
Bên cạnh vẻ đẹp tự nhiên và thơ mộng của biển, bài thơ cũng thành công trong việc mô tả hình ảnh ngư dân làm việc, tràn đầy sức sống, khỏe mạnh và nhiệt huyết. Tác phẩm thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ thông qua sự liên tưởng phong phú và hấp dẫn. Toàn bộ bài thơ mang lại cảm giác mạnh mẽ, lạc quan và hùng hồn.
Đặc biệt, hình ảnh người lao động sống động trở thành trung tâm của bức tranh tự nhiên, với những nét phác hoạ rõ ràng và mạnh mẽ trong việc kéo lưới khi bình minh bắt đầu ló dạng:
Khi ánh sáng dần chiếu xuống, ta kéo lên những đợt cá nặng trĩu
Vảy cá vàng bạc lấp lánh dưới ánh bình minh
Lưới trải mở như cánh buồm đón ánh nắng ấm
“Khi ánh sáng dần chiếu xuống” đánh dấu thời điểm ngư dân phải làm việc cật lực để thu hoạch cá khi mặt trời bắt đầu lên. Hình ảnh người lao động sống động như một bức tranh rõ nét, với những đường nét khỏe mạnh, rõ ràng, tập trung vào con người.
Từ “kéo lên những đợt cá” không chỉ mô tả sự thu hoạch đầy thành công mà còn tạo ra hình ảnh mạnh mẽ về vẻ đẹp của ngư dân trẻ đầy năng động khi họ kéo cá lên thuyền. Điều này gợi nhớ đến hình ảnh của ngư dân trong bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh:
Ngư dân với làn da nâu bóng bẩy dưới ánh nắng mặt trời
Cả hình dáng mạnh mẽ, đầy nhiệt huyết, nô đùa của họ.
Ánh nắng bình minh hòa quyện với sắc màu của cá: “vàng”, “bạc” nhấn mạnh sự quý giá và giàu có của biển cả mà thiên nhiên ban tặng. “Lưới trải mở như cánh buồm đón ánh nắng ấm” mô tả hình ảnh ngư dân làm việc cần cù, hòa hợp với vũ trụ.
Khi mắt lưới vươn cao, bóng thuyền bước vào vịnh cảng, là lúc ánh binh minh chào đón, kết thúc một ngày làm việc chăm chỉ, mệt mỏi. Hình ảnh 'ánh hồng' ở cuối cùng của bài thơ là biểu tượng cho niềm vui, niềm tin và lòng biết ơn của người lao động trước thành quả mà họ đã đạt được. Và ngư dân càng hiểu rõ hơn niềm vui và lòng biết ơn đối với mẹ thiên nhiên:
Biển dạy ta như một người mẹ
Nuôi lớn con từ ngày bé.
Sự kỳ diệu của so sánh và nhân hóa không chỉ thể hiện sự yêu thương rộng lớn, vĩ đại và cao quý của mẹ biển tự nhiên, mà còn bộc lộ sự biết ơn sâu sắc của con người đối với mẹ thiên nhiên, vũ trụ.
Bài ca lao động kết thúc với hình ảnh đoàn thuyền về bến trong niềm vui lúc bình minh. Lúc này, con người lao động hòa mình vào tự nhiên: phấn khởi, hạnh phúc trong niềm vui chiến thắng sau một đêm làm việc gian khổ kéo lưới:
Câu cao vút cùng gió biển
Thuyền chạy đua cùng nắng mai
Nắng mai đổ lên biển thẳm
Hình ảnh cá lấp lánh xa xôi.
Bài thơ mở đầu với hình ảnh ra khơi bắt cá là một bản hát và kết thúc với hình ảnh đoàn thuyền trở về bến cũng là một bản hát của con người lao động ngư dân, thể hiện rằng hành trình đánh bắt cá của họ đã trở thành một bài ca lao động.
Nếu bản hát mở đầu khi ra khơi là biểu tượng cho tinh thần lạc quan, hy vọng, niềm tin để sau đó khi trở về có thể bắt được nhiều cá tôm, làm giàu cho đất nước, thì bản hát ở cuối bài thơ lại là biểu tượng cho niềm vui, hạnh phúc trước thành quả lao động mà họ đã đạt được sau một đêm làm việc gian khổ kéo lưới. Hình ảnh của mặt trời cũng được lặp lại ở đầu và cuối bài thơ.
Mở đầu là bức tranh của mặt trời rơi vào biển, kết thúc bài thơ là mặt trời trỗi dậy giữa biển cả muôn trùng sóng. Điều này thể hiện sự thay đổi của thời gian và công việc lao động của con người đã hoàn thành. Tuy nhiên, ý nghĩa qua mỗi lần hình ảnh “mặt trời” xuất hiện lại khác nhau.
Nếu mặt trời ở khổ đầu báo hiệu thời điểm của hoàng hôn, đêm tối và công việc lao động của ngư dân bắt đầu, thì “mặt trời” ở khổ cuối lại là biểu tượng cho thời điểm của một ngày mới bắt đầu, ánh sáng mới, cuộc sống mới, mang theo niềm vui, hạnh phúc của con người sau chuyến hành trình lao động gian khổ.
Trong bức tranh đó, con người ngư dân xuất hiện bên cạnh mặt trời, thiên nhiên, vũ trụ: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Từ “với”, “cùng” đã thể hiện sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người lao động. Nếu trước đây con người thường nhường nhịn trước thiên nhiên, thì dưới cái nhìn của người chiến sĩ cách mạng trong thời đại mới, con người tự tin, mạnh mẽ trong tư thế “chạy đua” với vũ trụ, thiên nhiên.
Và con người đã chiến thắng. Khi mặt trời mọc, đoàn thuyền đã trở về bến. Ánh sáng mặt trời tôn vinh thành quả lao động. Mặt trời chiếu sáng vào mắt cá, khiến cho hàng ngàn mắt cá như hàng ngàn mặt trời tỏa sáng. Khổ thơ cuối đã thành công vẽ nên hình ảnh đoàn thuyền và con người ngư dân, thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc trong thành quả lao động, niềm tin vào cuộc sống mới.
Nét nghệ thuật đặc sắc của 2 khổ thơ cuối là hình ảnh thơ. Những câu thơ đầy hình ảnh, đa dạng, tinh tế với nhiều màu sắc. Mỗi khổ thơ đều có những hình ảnh độc đáo, mới mẻ. Nhà thơ đã tạo ra hình ảnh từ sự quan sát, cảm nhận chính xác về sự vật kết hợp với trí tưởng tượng mạnh mẽ.
Phương thức nghệ thuật chủ yếu để xây dựng hình ảnh trong bài thơ là so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, phóng đại, khoa trương. Lời thơ, nhịp điệu, vần… tạo ra âm hưởng khỏe khoắn, tơi vui, mạnh mẽ… tạo nên một bức tranh lao động sống động.
Tóm lại, với cảm hứng lãng mạn, nhà thơ đã mô tả thành công niềm vui phấn khởi của con người trong cuộc sống mới. Bài thơ có thể coi là một bản tráng ca anh hùng lao động, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước sự hồi sinh của đất nước và cuộc sống mới.
Cảm nhận cá nhân về 2 khổ thơ cuối của bài thơ Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 8
Ra đời vào năm 1958 sau chuyến đi thực tế tại vùng mỏ Quảng Ninh, bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là một trong những biểu hiện tiêu biểu của thơ Huy Cận sau cách mạng tháng Tám 1945. Bức tranh thiên nhiên biển cả tươi đẹp, phong phú không chỉ là nét đặc trưng của bài thơ mà còn là nét văn hóa về người lao động mới - những người dân chài với tinh thần lao động sôi nổi, tràn đầy sức sống và khỏe mạnh.
Những con người lao động mới được vẽ nên trên nền thiên nhiên mênh mông, rộng lớn và trước hết, họ là những người có tâm hồn rộng lớn, yêu công việc và luôn kỳ vọng, mong chờ bắt được nhiều hải sản. Khổ thơ thứ 6 mô tả cảnh kéo lưới trong mùa cá bội thu rất sống động:
Trời sáng lên, mây mờ màng kịp bước
Tay ta kéo lưới, đầy chứa cá lớn
Vẩy bạc, đuôi vàng lung linh ánh bình minh
Thuyền xếp lưới, chờ đón ánh nắng hồng.
Tác giả sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo, cuốn hút và giàu ý nghĩa như “kéo lưới”, “thuyền xếp”, “chờ đón” để tái hiện công việc kéo lưới của người dân chài một cách chân thực. Bằng cách ẩn dụ “tay ta kéo lưới, đầy chứa cá lớn” tác giả tạo ra hình ảnh mạnh mẽ, rõ ràng về sức mạnh, sự cứng cỏi của người dân làng chài.
Ngoài ra, các hình ảnh như “vẩy bạc”, “đuôi vàng” không chỉ thể hiện sự giàu có của biển, sự phong phú của chuyến ra khơi mà còn thể hiện niềm vui, sự phấn khởi của người lao động.
Trong khổ thơ trên, hình ảnh người lao động hiện lên với sự hăng say, nhiệt huyết trong công việc của họ. Trong khi đó, trong khổ thơ kết thúc bài thơ, người lao động được mô tả với niềm vui, sự hạnh phúc khi được làm chủ của đất trời, thiên nhiên bao la, rộng lớn:
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua với mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Nếu câu hát khi ra khơi là “căng buồm cùng gió khơi” thì khi trở về lại là “căng buồm với gió khơi”, tác giả đã thay đổi từ “cùng” thành “với”, thể hiện niềm vui phơi phới của người dân chài khi quay trở lại với một thuyền đầy ắp cá sau một chuyến đi thành công.
Đặc biệt, hình ảnh nhân hóa “đoàn thuyền chạy đua với mặt trời” cho thấy như đoàn thuyền trở thành một sinh vật sống để cạnh tranh với thiên nhiên. Điều đó nâng cao tầm vóc của đoàn thuyền, của con người ngang hàng với vũ trụ, thiên nhiên, thể hiện tư thế hào hùng, khẩn trương giành thời gian lao động của những người dân chài.
Tóm lại, với bút pháp tài hoa, cảm hứng về vũ trụ, 2 khổ cuối của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh người lao động mới, với vẻ đẹp đáng quý, tầm vóc lớn trên nền thiên nhiên bao la.
Cảm nhận về 2 khổ thơ cuối của bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 9
Năm 1958, sau khi hoà bình được thiết lập ở miền Bắc, Huy Cận đã trải qua một chuyến đi thực tế tại Hòn Gai. Trong chuyến đi đó, ông đã chứng kiến tinh thần lao động, sự hăng say và niềm vui của con người trong công cuộc xây dựng đất nước. Đó là nguồn cảm hứng để ông viết bài thơ Đoàn thuyền đánh cá.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận được viết trong thời kì xây dựng mới ở miền Bắc với niềm vui, niềm hào hứng của những người lao động kiên trì. Tại Hòn Gai, những người ngư dân đã hòa mình vào niềm vui đó, hăng say ra khơi. Quá trình ra khơi đánh bắt cá của họ được tóm gọn trong 2 khổ thơ cuối, hoàn chỉnh tinh thần của bài thơ.
Khi bình minh ập đến, là lúc ngư dân bắt đầu thu lưới:
“Bình minh rực, kéo lưới nhanh
Tay ta xoăn, chằm chằm cá nặng
Vảy bạc, đuôi vàng, rực rỡ ánh sáng
Lưới buông, mặt trời chào hồng.”
Hình ảnh “kéo xoăn tay” thể hiện sức mạnh của ngư dân trên biển. Họ đua với mặt trời để trở về bến sau một đêm làm việc vất vả. Mùa cá bội thu là thành quả xứng đáng cho công sức họ bỏ ra. Dưới ánh bình minh hồng rực, từng đàn cá với “vảy bạc, đuôi vàng” lấp lánh dưới ánh nắng ban mai.
Hình ảnh cuối cùng là ngư dân trên thuyền trở về sau đêm dài làm việc:
“Hò hát, buồm căng gió khơi
Thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời chạy, biển đổi màu
Cá sáng huy hoàng, muôn dặm phơi.”
Câu hát vang lên trong niềm phấn khích, thuyền đua với mặt trời trở về bến. Con người nâng cao tầm vóc, sánh với vũ trụ mênh mông. Một khoang thuyền đầy cá là một chiến công, kỳ tích với ngư dân khi họ bước vào thời kỳ xây dựng đất nước. Đây cũng là niềm hạnh phúc khi họ được kiểm soát cuộc sống của mình.
Không chỉ thế, âm điệu, nhịp điệu của lời thơ cũng tạo nên một bản tráng ca không lối thoát. Nhịp điệu nhanh, mạnh mẽ, hấp dẫn đã biến bài thơ thành một khúc ca vang vọng trong lòng mỗi người. Đặc biệt, Huy Cận sử dụng nhiều từ “hát” như để thể hiện niềm vui tươi sáng, yêu đời, lạc quan và tình yêu cuộc sống của mình.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá kết thúc nhưng tiếng vọng của nó vẫn vang mãi trong lòng chúng ta. Bởi đó là câu chuyện về chiến công của những người dũng cảm trên biển, những con người sẵn sàng đối diện với tự nhiên để tạo ra những kỳ tích tuyệt vời.
Cảm nhận của tôi về 2 khổ thơ cuối bài Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 10
Huy Cận là một trong những nhà văn có tài năng sáng tạo trong phong trào Thơ mới ở Việt Nam. Thơ của ông phản ánh sự thay đổi, phát triển qua từng giai đoạn, nếu trước cách mạng tháng Tám, thơ của Huy Cận chứa đựng nỗi đau bi thương sâu sắc, theo nhận định của nhà phê bình Hoài Thanh thì đó là “một dòng sầu mãi mãi trong lòng đất nước này.”
Sau Cách mạng, thơ của Huy Cận có sự biến đổi lớn cả về tư duy và cảm xúc, ông dùng bút khám phá cuộc sống lao động mới qua những câu thơ tươi sáng, niềm tin vững chắc vào tương lai.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là biểu tượng tiêu biểu nhất cho phong cách sáng tạo của Huy Cận sau Cách mạng. Viết về cuộc sống lao động trên biển của ngư dân, đặc biệt trong ba khổ thơ cuối cùng của bài thơ, nhà thơ tập trung miêu tả hình ảnh đánh bắt cá trên biển và vẻ đẹp hài hòa của con người lao động trong không gian mênh mông của biển cả.
Nếu trong những khổ thơ đầu tiên, Huy Cận đã mở ra trước mắt người đọc cảnh tượng ra khơi đầy phấn khởi, hân hoan khi hoàng hôn buông xuống, thì hai khổ thơ cuối cùng là bức tranh rực rỡ, lộng lẫy của đoàn thuyền khi trở về đất liền. Sau một đêm làm việc trên biển, ngư dân hồ hởi thu hoạch những mẻ cá phong phú, không khí hào hứng, náo nhiệt:
“Kéo lưới kịp bình minh sáng
Tay ta xoăn, chầm chậm cá nặng
Vảy bạc, đuôi vàng, lóe sáng bình minh
Lưới buông, nắng hồng tươi tắn.”
Khi bóng đêm sắp tan, bình minh mới nổi lên là lúc ngư dân thu hoạch trái ngọt của một đêm lao động mệt mỏi để trở về đất liền. Mọi hành động diễn ra tự nhiên, khẩn trương “Kéo lưới kịp bình minh”. Cử động “xoăn tay” vừa tôn lên sức khỏe, vững vàng của việc kéo lưới, vừa biểu hiện thành quả đáng tự hào với “chùm cá nặng”. Hình ảnh thu lưới nhìn từ góc nhìn lãng mạn, bay bổng của thi sĩ nên những công việc lao động nhàn nhạt, bình thường cũng trở nên đậm chất thơ.
Từ “lóe” kích thích nhiều trí tưởng tượng, không chỉ tạo ra vẻ đẹp dịu dàng của những con cá “vảy bạc đuôi vàng” mà còn mở ra không gian của một ngày mới, khi ánh nắng đầu tiên bắt đầu xuất hiện. Công việc hoàn thành, tấm lưới được gọn gàng, buồm được căng mình đón gió để đưa đoàn thuyền trở về trong ánh “nắng hồng” ấm áp, rực rỡ “Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”. Khung cảnh thật huy hoàng, tráng lệ làm sao!
Trong bài thơ có 3 lần tiếng hát được vang lên, đó là tiếng hát ca ngợi sự giàu có của biển khi đoàn thuyền ra khơi (khổ 2), tiếng hát gọi cá trong đêm tối (khổ 5) và tiếng hát lại một lần nữa vang lên khi đoàn thuyền trở về:
Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Tiếng hát hòa cùng tiếng gió để làm căng cánh buồm, đưa đoàn thuyền trở về. Hình ảnh đoàn thuyền “chạy đua cùng mặt trời” vô cùng lãng mạn và cuốn hút. Sự kết hợp độc đáo đã gợi ra không khí khẩn trương, nhịp điệu nhanh, mạnh mẽ của đoàn thuyền trên không gian mênh mông, rộng lớn của biển cả. Khi mặt trời vừa “đội biển nhô màu mới” thì cũng là lúc đoàn thuyền vượt qua hành trình dài trên biển để trở về bến.
Bức tranh lao động mang cảm giác vũ trụ khi sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Hình ảnh con người tự tin, làm chủ cuộc sống trở nên đẹp đẽ hơn trong không gian bao la của thiên nhiên. “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” thể hiện niềm vui, sự tự hào của những ngư dân sau một đêm lao động trên biển cả, đó là cảnh tượng huy hoàng, tráng lệ khép lại bức tranh thơ.
Thay vì sử dụng từ ngữ phong phú kết hợp với các kỹ thuật nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa và lãng mạn, nhà thơ Huy Cận đã đem đến cho người đọc những trải nghiệm chân thực về cảnh làm việc trên biển, về vẻ đẹp của con người lao động trong công việc bình dị nhưng đầy ý nghĩa.