Microsoft vẫn chưa đạt được thành công với Windows 2.0, nhưng hệ điều hành này đã để lại nhiều 'gốc rễ' vẫn còn tồn tại đến ngày nay trên Windows.
Ngày nay, Windows là hệ điều hành máy tính phổ biến nhất thế giới, nhưng Microsoft không thành công ngay từ đầu, mà con đường của Windows khá chông gai. Bản Windows đầu tiên không thực sự được đón nhận do có nhiều lỗi và vấn đề. Nhưng khoảng hai năm sau, vào ngày 9 tháng 12 năm 1987, Microsoft đã quay trở lại với Windows 2.0 và phiên bản này là một bước tiến lớn, mang lại sự ổn định và cải tiến hơn cũng như một số tính năng hoàn toàn mới.
Trên thực tế, có đến hai phiên bản Windows 2.0. Lúc này vẫn là thời đại Windows được xây dựng trên nền tảng MS-DOS và có một chút lộn xộn về các bộ xử lý hiện có vào thời điểm đó cũng như kiến trúc mà chúng dựa trên. Vì vậy, một phiên bản được gọi là Windows/286 và cái còn lại là Windows/386, tiên tiến hơn một chút, với tính năng ưu tiên đa nhiệm và bảo mật nâng cao.
Một bước gần hơn đến Windows hiện đại
Windows 2.0 có thể không phải là một cuộc cách mạng lớn, nhưng bản cập nhật này mang đến một cải tiến mà ngày nay chúng ta coi là đương nhiên: các cửa sổ có thể thay đổi kích thước. Phiên bản Windows đầu tiên không cho phép bạn thay đổi kích thước các cửa sổ ứng dụng trên màn hình và trên thực tế, chúng cũng không thể chồng lên nhau. Windows 2.0 cho phép mở nhiều ứng dụng với bất kỳ kích thước nào bạn muốn và bạn có thể kéo ứng dụng này qua ứng dụng khác thay vì hiển thị chúng theo kiểu sắp xếp ô xếp. Bạn có thể bắt đầu thấy một số tính năng mà chúng ta vẫn biết trong Windows 11 ngày nay.
Phiên bản này cũng cho phép di chuyển các biểu tượng ứng dụng đến bất kỳ đâu trên màn hình thay vì giữ chúng ở thanh phía dưới. Tất nhiên là còn có một số cải tiến đáng chú ý hơn, như hỗ trợ đồ họa VGA 16 màu và bộ nhớ EMS.
Trong mặt khác, Windows 2.0 không có nhiều tính năng mới, dù đã tích hợp sẵn một số ứng dụng như Paint, Notepad, Write, Clock và trò chơi Reversi. Đó là thời điểm trước khi có những trò chơi kinh điển như Minesweeper và Solitaire. Thời điểm này cũng là lúc Apple kiện Microsoft về vi phạm bản quyền giao diện của Macintosh, nhưng cuối cùng Apple đã thua kiện trước tòa.
Word và Excel trên Windows
Microsoft đã ra mắt trình xử lý văn bản của riêng mình (tên là Word) hai năm trước khi Windows 1.0 ra mắt, nhưng nó chỉ có sẵn cho các hệ điều hành cạnh tranh trong vài năm và không bao giờ thực sự hỗ trợ Windows 1.0. Chỉ khi Windows 2.0 được phát hành, Microsoft mới đưa Word lên Windows cùng với trình soạn thảo bảng tính Excel, điều này đã bổ sung nhiều cho khả năng của hệ điều hành.
Các phiên bản đầu tiên của Word và Excel rõ ràng bị hạn chế hơn so với những gì chúng ta biết ngày nay, đặc biệt là Word, tiên tiến hơn nhiều so với Notepad hoặc ứng dụng Write có trên Windows, với hỗ trợ văn bản màu, nhiều tùy chọn định dạng và phông chữ hơn. Excel rõ ràng rất hữu ích vì không có trình soạn thảo bảng tính nào được tích hợp trong Windows.
Đó là những ứng dụng Office duy nhất có sẵn vào thời điểm đó vì hầu hết bộ ứng dụng mà chúng ta biết ngày nay đều ra mắt muộn hơn.
Chưa đạt được thành công
Dù Windows 2.0 và bản cập nhật Windows 2.1 tiếp theo mang lại một số cải tiến đáng khen ngợi cho trải nghiệm, nhưng đây vẫn không phải là phiên bản khiến Windows trở nên phổ biến. Ước tính vào tháng 1 năm 1990, trước khi Windows 3.0 ra mắt, tổng doanh số bán Windows là dưới hai triệu bản, bao gồm cả Windows 1.0 và 2.0. Chính Windows 3.0 đã bán được khoảng 4 triệu bản trong năm đầu tiên và ngày nay, Windows 10 và 11 có mặt trên hầu hết các máy tính và laptop hàng đầu trên thị trường.
Mặc dù vậy, Windows 2.0 vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra những tính năng mà ngày nay đã trở thành tiêu chuẩn cho hệ điều hành. Windows đã đi xa, nhưng đồng thời, nhiều yếu tố cơ bản của các phiên bản Windows đầu tiên vẫn tồn tại trong các phiên bản hiện đại.
Tham khảo: XDA-Develpers