Top 4 văn mẫu lớp 12: Hình ảnh thiên nhiên trong Tràng Giang và Đây thôn Vĩ Dạ được tổng hợp từ những bài văn xuất sắc nhất của học sinh trên khắp đất nước.
Tự nhiên luôn là nguồn cảm hứng cho các nhà văn và nhà thơ. Tràng Giang và Đây thôn Vĩ Dạ là hai bài thơ được tạo ra dựa trên hình ảnh tự nhiên để thể hiện tâm trạng của hai nhà thơ. Dưới đây là 4 bài văn mẫu lớp 12: Hình ảnh thiên nhiên trong Tràng Giang và Đây thôn Vĩ Dạ, mời bạn tham khảo.
Hình ảnh thiên nhiên trong Tràng Giang và Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 1
Thiên nhiên luôn là đề tài bất tận trong văn chương. Những nhà văn và nhà thơ thường dành tình cảm sâu sắc và nhạy cảm cho tự nhiên. Trong thời kỳ Thơ Mới (1930 – 1945), Tràng Giang của Huy Cận và Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử đều phản ánh sâu sắc những cảm xúc với thiên nhiên.
Dù mang vẻ đẹp buồn truyền thống, nhưng thiên nhiên trong Tràng Giang lại tỏ ra hùng vĩ, to lớn như 'bầu trời', 'dòng sông dài”:
'Sóng nước Tràng Giang êm đềm
Thuyền trôi trôi theo dòng nước'
...'Nắng chiếu, trời cao vút lên
Dòng sông dài, bầu trời mênh mông'
Thiên nhiên ở đây rực rỡ sắc màu cổ điển. Dòng sông trải dài mênh mông giữa không gian yên bình, bao la. Những đợt sóng trắng xoá lớp lớp không ngừng lên như nỗi buồn không tan, không dứt. Cùng với thuyền trôi theo dòng, miễn cưỡng chấp nhận số phận, không mong chờ, thể hiện nỗi buồn chia ly, xa cách. Bất kỳ ngả nước nào, cũng chứa đựng nỗi buồn sâu lắng, cảnh vật ở đây rất bi thương: từ 'chiếc thuyền', 'cành cây khô' đến 'dòng nước', 'đợt sóng' và cả 'bờ xanh', 'bãi cát vàng”, 'bến cô liêu' đều phản ánh nỗi buồn lớn. Nỗi 'buồn điệp điệp' tràn lan suốt bài thơ và đỉnh điểm nhất ở hình ảnh cuối cùng:
'Bên trong làng quê, nước lặng trôi
Dù không có khói hoàng hôn, lòng vẫn nhớ nhà'
Nỗi buồn của Huy Cận lan tỏa như dòng nước mênh mông không biên giới, truyền đi xa xôi, đắng cay hơn nhiều so với Thôi Hiệu (Đời Đường – Trung Quốc): 'Trên dòng sông yên bình, lòng người càng buồn bã' (Dọc theo sông êm đềm, lòng ai cũng chứa đựng nỗi buồn?). Từ nỗi buồn sâu sắc đó, vẻ đẹp hiện lên là vẻ đẹp to lớn của mảnh đất và bầu trời. Không gian mở ra vô tận cả về chiều dài – rộng, cao – sâu. Đó là cái đẹp lặng lẽ, rợn ngợp của không gian sông nước thân thuộc, gần gũi được Huy Cận tạo ra bằng những hình ảnh đơn giản, tinh tế, đậm chất cổ điển nhưng vẫn mang tính hiện đại. Tinh thần 'mênh mông như vũ trụ' và một cái gì đó của quá khứ vẫn còn hiện hữu ở bãi sông dài với 'bến cô liêu', 'bèo dạt', 'mây', 'chim hót', 'bóng chiều', cùng với 'khói hoàng hôn' và tình yêu quê hương sâu đậm, da diết đang cháy trong lòng nhà thơ.
Thiên nhiên được phản ánh qua lòng tâm sự của Huy Cận, mang nỗi buồn sâu sắc của nhà thơ. Vẻ đẹp thực và ảo của cảnh là niềm đau thầm lặng của tác giả. Nỗi buồn toàn hàm sâu từ hoàn cảnh của nhà thơ gắn liền với thiên nhiên. Trong Tràng Giang, 'nỗi buồn lan tỏa trong từng câu chữ', giống như dòng sông Hồng cuồn cuộn chảy.
Trong Đây Thôn Vĩ Dạ, nỗi buồn lại nhẹ nhàng thoáng qua ý thức bị lãng quên của nhà thơ. Nhưng khác với Tràng Giang, Đây Thôn Vĩ Dạ là một bài thơ 'có sự biến đổi cảm xúc' (Vũ Quần Phương), có sự chuyển đổi cảm xúc nhanh chóng, tinh tế. Bài thơ với ba khổ, mỗi khổ là một câu hỏi liên quan đến tâm trạng khác nhau của Hàn Mặc Tử, kết nối với những vẻ đẹp khác nhau của thiên nhiên ở Huế thơ mộng. Trong khổ thứ nhất, nhà thơ hạnh phúc 'ngắm nắng sớm cao lên', chiêm ngưỡng 'vườn xanh mướt như ngọc' của Thôn Vĩ Giạ, một vẻ đẹp nguyên sơ, thanh tao, tươi mới của Huế hiện lên trong ký ức của Hàn Mặc Tử. Ở khổ thứ hai, cảm xúc của thi nhân chuyển sang một khung cảnh buồn:
'Gió đi theo đám mây lững lờ
Dòng sông buồn rưng rức hoa lay
Thuyền ơi, hãy đậu bên bờ trăng đó
Kịp đưa trăng về trước tối nay'
Tràng Giang nói về nỗi buồn của sự chia xa: 'Thuyền lướt trên dòng nước song hành' mang đậm dấu ấn cổ điển. Và Đây Thôn Vĩ Dạ cũng miêu tả về nỗi buồn lẻ loi, mênh mông: 'Gió đi theo đám mây, dòng sông buồn rưng rức hoa lay' nhưng không chỉ là nỗi buồn đơn thuần mà còn là sự xa cách, bị lãng quên. Dòng sông Hương trôi êm đềm như dòng 'sông trăng' mang theo nỗi buồn nhẹ nhàng, dịu dàng trong tâm trí của con người. Từ vẻ đẹp thiên nhiên nguyên sơ của Huế tươi mới hiện lên, liên tưởng của Hàn Mặc Tử hướng về một vẻ đẹp mơ hồ của cảnh vật trong sự cô lập. Nỗi buồn của Hàn Mặc Tử dịu dàng, nhẹ nhàng hơn rất nhiều so với sóng biển của Huy Cận trong Tràng Giang. Với thể thơ truyền thống, tổng thể, thơ của Huy Cận là nỗi 'buồn điệp điệp', thơ của Hàn Mặc Tử là nỗi 'buồn rưng rức”. Thiên nhiên trong cả ba bài thơ đều đẹp và buồn vì thiếu đi một tình yêu. Tình yêu đó, trong mỗi bài thơ, tác giả nhắc đến để làm dịu đi nỗi buồn bị lãng quên trong Đây Thôn Vĩ Dạ; xóa tan cô đơn, nỗi buồn chật chội trong lòng, tìm kiếm một tình yêu quê hương ấm áp (Tràng Giang). Các nhà thơ đã có cái nhìn nhạy cảm về thiên nhiên và đã thể hiện một cách sâu sắc thế giới tâm trạng, cảm xúc của mình trước vẻ đẹp của thiên nhiên.
Thiên nhiên trong thơ là một sự đóng góp về mặt tư tưởng văn hóa của người Việt Nam. Điều này chứng tỏ một tình yêu sâu đậm với quê hương của các nhà thơ mới nói chung và của Huy Cận và Hàn Mặc Tử nói riêng.
Thiên nhiên trong Tràng Giang và Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 2
Trong những năm đầu của thập kỷ thứ ba của thế kỷ trước, đã xuất hiện một dòng thơ thuộc trường phái lãng mạn, thể hiện lý tưởng thẩm mỹ của tác giả, thẩm mỹ hóa cuộc sống phức tạp của xã hội thời kỳ bán thuộc địa, phong kiến và tâm trạng u uất, lạc lõng giữa vòng xoay cuộc sống. Đó chính là thơ mới, hay còn gọi là thơ lãng mạn. Sự xuất hiện của trào lưu này đã dẫn đến việc ra đời của 'Phong trào thơ mới' từ năm 1932-1945. Hai trong số những tác giả tiêu biểu trong thời kỳ đó không thể không kể đến Hàn Mặc Tử và Huy Cận với hai tác phẩm nổi tiếng ' Đây thôn Vĩ Dạ ' và 'Tràng giang'.
Cả hai tác phẩm này đều mô tả một bức tranh thiên nhiên đẹp mắt nhưng cũng chứa đựng nỗi buồn, cô đơn, và niềm khao khát sống, yêu đời, yêu người của tác giả. Có thể nói, điểm nổi bật nhất ở hai tác phẩm này là đoạn từ khổ 2 'Gió đi theo lối gió' đến 'kịp tối nay ?' của ' Đây thôn Vĩ Dạ' và đoạn từ khổ 4 'Lớp lớp mây cao' đến 'cũng nhớ nhà' của' 'Tràng giang'.
Mặc dù cùng là những tác giả xuất sắc của phong trào thơ mới, nhưng các tác phẩm của Huy Cận và Hàn Mặc Tử vẫn mang những đặc điểm riêng, nét cá nhân độc đáo. Với Hàn Mặc Tử, ông được biết đến là một trong những nhà thơ sáng tạo nhất trong phong trào thơ mới. Tuy nhiên, thơ của ông có phần mơ hồ, bí ẩn và đầy sức hút đến mức Hoài Thanh đã không ngớt lời khen ngợi thơ của ông như 'một nguồn thơ dồi dào và lạ lùng'. Thậm chí, Hoài Thanh đã dành một tháng để nghiên cứu toàn bộ tác phẩm của Hàn Mặc Tử và thừa nhận rằng 'Vườn thơ của Hàn rộng rãi vô tận, khiến ta càng đi xa càng thấy kỳ lạ.'Có lẽ do cuộc đời ông đầy bi thương và định mệnh không may mắn mà thơ của ông luôn thể hiện một tình yêu đau đớn với cuộc sống thế tục như vậy? Và trong số các tác phẩm ấy, có lẽ tác phẩm nổi bật và đậm chất ' Hàn Mặc Tử ' nhất là ' Đây thôn Vĩ Dạ'
Trong khổ 2 của bài 'Đây thôn Vĩ Dạ', Hàn Mặc Tử đã nhấn mạnh vào hình ảnh sinh động của thiên nhiên:
'Gió theo lối gió, mây đường mây'
Hình ảnh gió và mây từ xa xưa đã gắn bó như đôi bạn tri kỷ, không thể tách rời - gió thổi mây bay. Tuy nhiên, thông qua việc sáng tạo nghệ thuật nhân hóa, Hàn Mạc Tử đã tạo ra một sự mâu thuẫn chưa từng có. Ông mô tả một bức tranh thiên nhiên mênh mông: có gió - nhưng 'gió theo lối gió'; cũng có mây, nhưng lại 'mây đường mây'. Mây và gió đi theo hai hướng khác nhau, tạo ra sự chia lìa, cách xa. Ông sử dụng nhịp thơ 4/3 tinh tế, tách thành 2 vế đối nghịch nhau, làm nổi bật sự xa cách. Từ đó, hai người bạn tri kỷ, dường như không thể tách rời, lại 'ngoảnh mặt quay lưng', 'đôi ngả chia ly'. Chỉ có ông mới có thể biến điều phi lý thành hợp lý trong thơ văn.
Tuy nhiên... mọi thứ ông nhân hóa không chỉ để diễn tả cảnh gió, cảnh mây! Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều: 'Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'. Hàn Mạc Tử cũng vậy! Ông buồn vì căn bệnh nặng, buồn vì luyến tiếc những cảnh vật thơ mộng và buồn vì tình yêu đơn phương. Nhưng trên hết, ông sợ mất đi. Ông... sợ xa cách!
Có lẽ vì buồn, vì sợ mà cảnh Huế thơ mộng, trữ tình dần chuyển thành bi ai đến lòng:
'Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay'
Sông Hương, từ lâu đã được biết đến như một biểu tượng của xứ Huế, với vẻ đẹp tinh khôi, dịu dàng. Trong thơ của Nguyễn Trọng Tạo, sông Hương không chỉ là nơi của tình yêu nồng nàn mà còn là biểu tượng của sự cháy bỏng.
'Sông Hương hóa rượu ta đến uống
Ta tỉnh, đền đài ngả nghiêng say...'
Trong bài hát 'Ai ra xứ Huế' của nhạc sỹ Duy Khánh, sông Hương được ca ngợi là biểu tượng của xứ Huế, nơi vẫn còn đọng lại hình ảnh thơ mộng.
' Ai ra xứ Huế thì ra
Ai về là về núi Ngự
Ai về là về sông Hương
Nước sông Hương còn vương chưa cạn
Chim núi Ngự tìm bạn bay về'
Dưới nét bút tài tình của Hàn Mặc Tử, sông Hương hiện lên với vẻ u sầu, ảo mịt. Sự buồn thiu, nhè nhẹ nhưng dai dẳng, len lỏi vào tâm hồn thi nhân và lan tỏa sang cả thiên nhiên, khiến nỗi buồn trở nên cô đơn và u sầu hơn.
Buồn bã, cô đơn vẫn hiện hữu. Nhưng khi trời chiếu ánh trăng, không chỉ cảnh vật, mà cả tâm trạng, tình cảm con người cũng thay đổi:
'Thuyền ai đậu bến sông trăng đó'
Câu thơ này mang theo khung cảnh tràn ngập ánh trăng – người bạn thân thiết của tác giả. Trăng hiện diện khắp nơi: trên con thuyền đơn độc đậu bên bờ; phủ vàng trên bến đò rộng lớn; hòa quyện vào dòng sông Hương trôi lặng lẽ. Chỉ những người đam mê trăng, mê mải đến mức điên dại mới có thể tưởng tượng ra 'bến sông trăng' độc đáo này! Trước đây, trong thơ Trương Kế thời Đường chỉ có 'Thuyền ai đậu bến Cô Tô'; trong 'Xuân giang hoa nguyệt dạ' của Trương Nhược Hư, 1300 năm về trước chỉ có 'Sông xuân đâu chẳng sáng ngời trăng'. Hàn Mặc Tử đã biến hình ảnh 'sông trăng' thành điều đặc sắc và tinh tế!
Với sự tinh tế và sáng tạo đó, thuyền đã từ hiện thực đi vào thế giới mơ mộng dưới ánh trăng. Liệu có phải Hàn Mặc Tử đã sử dụng sự huyền bí, mơ mộng của vầng trăng để che giấu nỗi đau và buồn phiền hiện tại? Với quan niệm thơ đầy kỳ lạ: 'Thơ là tiếng kêu rên thảm thiết của 1 linh hồn thương nhớ ước ao trở lại trời xưa'. Trăng luôn gắn liền với thơ của ông một cách đặc biệt.
Trong 'Đây thôn Vĩ Dạ', hình ảnh vầng trăng đậm chất trữ tình hơn, đằm thắm hơn:
'Trăng có về kịp tối nay không?'
Câu hỏi này được thốt lên đầy nỗi lo âu, bất an của nhà thơ. Ông hiểu rõ về căn bệnh của mình và ý nghĩa của mỗi khoảnh khắc trên cõi đời này. Trong lòng ông trỗi dậy một khát khao nhỏ bé – gặp trăng trong đêm nay để san sẻ nỗi buồn, cô đơn cùng với vầng trăng ấy! Vầng trăng như một tia hy vọng nhỏ, mong manh chỉ còn le lói ánh sáng cuối cùng trong đêm tối u ám. Hàn Mặc Tử lo lắng liệu chiếc thuyền, con đò có 'kịp' đưa trăng về cùng ông trong 'tối nay' không?
Bốn câu thơ ngắn gọn, súc tích này đầy tượng trưng, giàu hình ảnh, gợi cảm. Nhờ vào các biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, câu hỏi tu từ, tả cảnh ngụ tình... được sử dụng một cách điêu luyện và tuyệt vời. Đoạn thơ này không chỉ hiểu về tâm trạng của một nhà thơ trước ngưỡng cửa chết, mà còn thể hiện tài năng và tình yêu với cuộc sống, với quê hương đất nước.
Thiên nhiên trong Tràng Giang và Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 3
Thời kỳ thơ mới những năm 40 của thế kỷ 20 chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của khuynh hướng lãng mạn. Hàn Mặc Tử và Huy Cận là hai nhà thơ nổi bật, miêu tả thiên nhiên đẹp nhưng u buồn. Hai khổ thơ trên là minh chứng cho điều đó.
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ với lối thơ sâu sắc và sáng tạo, đặc biệt nổi bật trong phong trào thơ mới. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” trong tập “Thơ điên” được coi là dễ hiểu nhất trong tác phẩm của ông. Đoạn trích này là khổ thơ thứ hai trong bài, với hình ảnh nội tâm, gợi tả sinh động, và ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng. Bài thơ là một bức tranh tuyệt vời về cuộc sống và con người.
Huy Cận, một nhà thơ chịu ảnh hưởng nhiều từ văn học Pháp, mặc dù yêu thích thơ Việt và Đường. Bài thơ “Tràng giang” trong tập “Lửa thiêng” được đánh giá cao, với đoạn thơ cuối cùng thể hiện sự cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn.
Hàn Mặc Tử vẽ lên bức tranh sinh động của sông nước xứ Huế trong một đêm trăng đẹp. Bức tranh này không chỉ thể hiện vẻ đẹp tự nhiên mà còn chứa đựng tình người sâu sắc. Thi nhân đã tinh tế trong việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, câu hỏi tu từ, và nhịp thơ 4/3 để nhấn mạnh tình yêu thiên nhiên và xứ Huế thơ mộng.
Mây cao, núi bạc, cánh chim mỏi, và con nước dợn dợn là những hình ảnh trong đoạn thơ của Huy Cận, thể hiện tâm trạng riêng tư trước cảnh đẹp của chiều tà. Huy Cận sử dụng ý thơ của Thôi Hiệu để thể hiện nỗi nhớ quê hương của mình, từ “dợn dợn” là một từ mới phản ánh tâm trạng trước cảnh mây nước chiều tà.
Cả hai đoạn thơ đều vẽ lên một bức tranh thiên nhiên sinh động và làm lộ tâm trạng của người ngắm cảnh. Về mặt nghệ thuật, cả Hàn Mặc Tử và Huy Cận đều chọn thể thơ bảy chữ và bút pháp tả cảnh ngụ tình để khắc họa suy tư của mình.
Tuy nhiên, có những điểm khác biệt giữa hai đoạn thơ mà ta có thể dễ dàng nhận ra. Về nội dung, Hàn Mặc Tử viết về Huế và con sông cụ thể, trong khi “Tràng giang” của Huy Cận lại nói về một con sông chung, một biểu tượng của nỗi nhớ quê hương. Thêm vào đó, thơ của Hàn Mặc Tử thể hiện sự khao khát sống và trải nghiệm cuộc sống, trong khi thơ của Huy Cận lại tập trung vào việc gợi lên ký ức về quê hương và những tình cảm riêng tư.
Hai nhà thơ này xuất hiện trong cùng một thời đại, đều học từ truyền thống và sáng tạo theo hướng phương Tây, vì vậy họ có những điểm tương đồng trong sáng tác và ý tưởng truyền đạt cho người đọc. Tuy nhiên, nghệ sĩ luôn cần có phong cách và suy nghĩ riêng để tạo ra những tác phẩm mang đậm cá tính cá nhân, điều này làm nên sự độc đáo của mỗi tác phẩm.
Cả hai đoạn thơ đều mang lại cho người đọc những cảm xúc và tâm trạng đặc biệt. Không chỉ vậy, các tác giả còn vẽ nên một bức tranh về thiên nhiên thơ mộng và đầy cảm xúc, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Chính vì thế, họ xứng đáng với vị trí hàng đầu trong phong trào thơ mới của Việt Nam.
Thiên nhiên trong Tràng Giang và Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 4
Nhà phê bình nổi tiếng Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam đã sử dụng những từ trang trọng nhất để mô tả phong trào Thơ mới (1932-1945), gồm các nhà thơ nổi tiếng như Xuân Diệu, Huy Cận và Hàn Mặc Tử. Đó là những tác phẩm độc đáo, đặc sắc trong thơ ca Việt Nam. Hình ảnh thiên nhiên trong các tác phẩm này thật đẹp và gợi cảm, nhưng cũng đầy buồn bã, do hoàn cảnh đất nước lúc đó đang chịu sự áp bức của thực dân phương Tây. Có thể thấy rõ điều này khi đọc lại các bài thơ như Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Đây mùa thu tới của Xuân Diệu và Tràng giang của Huy Cận.
Thơ của Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu và Huy Cậu, ba nhà thơ nổi tiếng của Thơ mới, đều thể hiện tình yêu thiên nhiên một cách sâu sắc và mãnh liệt. Bằng sự lãng mạn và tài nghệ, họ đã vẽ nên trong thơ những bức tranh về thiên nhiên đẹp đẽ và gợi cảm. Tuy nhiên, trong vẻ đẹp ấy cũng ẩn chứa nỗi buồn, là biểu tượng cho nỗi buồn sâu thẳm trong tâm hồn của nhà thơ và cả của một thế hệ đang chịu đựng những gánh nặng của thời kỳ Pháp thuộc.
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử là một ví dụ rõ ràng về vẻ đẹp tự nhiên của xứ Huế. Qua ánh sáng ban mai, cảnh thiên nhiên như hiện lên rạng ngời với sự tươi mới và rạng rỡ. Bức tranh thơ mộng này với cây xanh và lá trúc tạo nên một không gian trong lành và mê hoặc:
Nhìn nắng trong veo, cây xanh rợp bóng
Lá trúc che mát, điểm thêm vẻ mênh mang.
Bằng sự mê hoặc và kỳ ảo, bài thơ dẫn dắt người đọc vào một thế giới của sự huyền bí, với trăng, gió, mây và dòng sông Huế:
Gió bay theo lối mây điểm mây
Dòng nước êm đềm, hoa lay bắp trên bờ
Thuyền đậu bến sông dưới ánh trăng kia
Chở trăng về, liệu tối nay kịp không?
Đây là cảnh sông nước, mây trời huyền ảo của Huế trong đêm trăng yên bình. Dù có gió nhẹ nhàng, chỉ đủ để làm lay nhẹ những bông hoa bắp, nhưng không đủ để làm mây trôi. Trong không gian yên bình đó, có một chiếc thuyền đậu bên bờ vắng, làm cho cảnh vật trở nên huyền bí hơn. Đặc biệt, bến sông giờ đây đã trở thành bến của trăng, và chiếc thuyền cũng trở thành phương tiện chở đầy ánh trăng. Đó là một không gian mơ mộng với “sương khói mờ nhân ảnh”.
Thiên nhiên ở đây thật đẹp và quyến rũ, nhưng cũng mang theo nỗi buồn, một nỗi buồn dịu dàng nhưng lan tỏa rộng lớn. Có lẽ đó cũng là tâm trạng của nhà thơ, một chút lạc lõng, thất vọng trước sự tan vỡ và một nỗi hoài nghi về tình yêu: “Gió đi theo lối gió, mây theo đường mây” và câu hỏi: Ai hiểu được lòng của ai?...
Sau đó, trong bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, thiên nhiên trở nên u buồn và phai nhạt. Nhà thơ mở đầu tác phẩm bằng những hàng liễu u ám:
Những cây liễu rủ xuống u sầu
Tóc buông bên mái, nước mắt đầy hàng.
Những chiếc lá liễu dài rủ xuống, dưới con mắt của thi nhân, trở thành mái tóc của một cô gái với nước mắt rơi như những sợi tóc, “buông bên mái, đầy hàng nước mắt”.
Nhà thơ nhìn lá vàng rơi từng chiếc, thấy đó như là một bộ áo mùa thu đẹp, nên đã reo lên đón chào:
Đây mùa thu về - mùa thu về
Với bộ áo vàng phai dệt từ lá.
Vẻ đẹp của mùa thu ở đây là vẻ đẹp của sự tàn phai, héo úa, khô gầy:
Hơn cả loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rực màu xanh
Những dải run rẩy rung rinh lá...
Cành cây khô gầy xương mỏng manh.
Nỗi buồn mùa thu từ hoa rụng lá úa ở hai câu đầu của khổ thơ đã lan tỏa, thấm sâu vào các nhánh cây trơ trụi. Cành cây khô gầy xương mỏng manh ở hai câu sau khiến cái rét thấu xương từng hơi gió lạnh đã làm run rẩy rung rinh cả những chiếc lá thu còn sót lại.
Nỗi buồn ấy, cái rét ấy càng dễ cảm nhận ở những nơi hoang vắng, ở những bến đò. Mặc dù đây là nơi có gió lộng nhưng lại đông người, nhưng chính cảm giác rét thấu xương kia khiến người ta e ngại, ít muốn băng qua sông.
Đã nghe rét ướt luồn trong gió
Đã vắng bóng người trên chuyến đò
Nỗi buồn mùa thu còn lan tỏa đến cả bầu trời, tạo nên một không khí u uất đầy hận thù với những hình ảnh chim bay về phương xa để tránh cái rét:
Mây vẫn bay, chim vẫn không đi
Khí trời ảm đạm, nỗi hận chia ly
Tất cả các chi tiết trong bức tranh thiên nhiên này đều gợi lên một cảm xúc xa xăm, nhớ nhung buồn lặng. Cuối cùng, trên bức tranh thơ hiện lên hình bóng con người:
Một số thiếu nữ buồn không từ bày tỏ
Dựa vào cửa, nhìn xa, nghĩ về điều gì?
Thật đúng là hình ảnh của những cô gái với gương mặt buồn, ánh mắt nhìn về xa xăm, không tập trung vào điều gì cụ thể mà như đắm chìm trong nỗi buồn và cô đơn, mơ màng.
Kế đến, trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận, phác họa thiên nhiên là hình ảnh của dòng sông thấm đượm một nỗi nhớ sâu thẳm “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài'. Khởi đầu bài thơ là khung cảnh thiên nhiên yên bình:
Sóng gợn trên dòng sông buồn hiu hắt
Thuyền trôi theo dòng nước song song
Thuyền đi về phía sông lại u buồn vô vàn
Một cành củi khô lạc trôi mấy dòng.
Ngoài những hình ảnh như “dòng sóng”, “thuyền” quen thuộc, những đoạn văn từ thời xa xưa đã trở thành cổ điển, trong khổ thơ này còn có một yếu tố sáng tạo không ngờ: “Một cành củi khô lạc trôi mấy dòng”. Một cành củi khô trôi dạt không mục đích trên dòng sông đại diện cho sự lạc lõng, lạc loài. Cách sử dụng từ “Một cành củi khô” càng làm nổi bật thêm sự cô đơn, lạc loài và buồn bã.
Chuyển sang khổ thơ tiếp theo, nỗi buồn càng thấm sâu hơn vào cảnh vật:
Lơ thơ cồn nhỏ gió hiu quạnh
Chợ chiều xa vắng không tiếng vang
Nắng ngả, trời cao sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bức tranh thiên nhiên với cơn gió hiu quạnh thổi qua mảnh đất lơ thơ giữa dòng sông dài vắng vẻ, tĩnh lặng buồn. Thậm chí cả tiếng ve kêu chiều từ một làng nào đó cũng đã không còn. Không gian tiếp theo được mở rộng và nâng cao trong hai câu cuối của khổ thơ, với “nắng ngả trời cao sâu chót vót”. Nhưng tuyệt vời hơn cả là nhà thơ đã miêu tả chiều sâu trong bầu trời. “Nắng ngả trời cao sâu chót vót”.
Cảnh vật tiếp tục mở ra trong khổ thơ thứ ba với cả “bờ xanh nối bãi vàng” và những đám bèo trôi dạt “hàng nối hàng” không biết sẽ đi về đâu. Khung cảnh của dòng sông rộng lớn đó lại vô cùng quạnh vắng, thiếu hẳn bóng người. Không có một chiếc đò ngang hoặc một cái cầu để “gợi chút niềm thân mật”. Trong ánh mắt của thi nhân, thiên nhiên dù hoang vắng nhưng vẫn sáng sủa và sống động. Chính cảnh đó đã ấn định trong tâm trí quê hương trong khổ kết bài thơ:
Trái tim quê hương bồi hồi bên dòng nước
Dù hoàng hôn buông, cảnh nhớ nhà vẫn hiện hữu
Tại đây, con người mới phát hiện ra sâu thẳm tâm trạng của mình giữa thiên nhiên. Càng đau lòng hơn, nhà thơ đứng trên quê hương mình mà nhớ quê hương mình, có thể nói là cảm thấy lạc loài ngay trên quê tự nhiên đẹp đến kì lạ. 'Lớp mây cao đầy núi bạc. Chim nhỏ gập cánh về phía chiều tà.” Cả một cảm xúc 'Sông dài trời rộng bến cô liêu' đã lan tỏa suốt bài thơ, đồng thời hiện ra một nỗi nhớ quê hương sâu sắc. Ngày trước, Thôi Hiệu đứng trên Hoàng Hạc lâu, nhìn xa về bên kia sóng chiều mà đau lòng nhớ quê hương. Ở đây, Huy Cận :
“Dù không có khói hoàng hôn, lòng vẫn nhớ nhà”.
Tóm lại, cả bài thơ Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử và Tràng Giang của Huy Cận đều là những bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Tuy nhiên, cả hai cũng mang trong lòng nỗi buồn riêng. Nỗi buồn trong những bài thơ này cũng giống như nhiều nỗi buồn của các nhà thơ Mới khác, là của một thế hệ, của dân tộc chúng ta trong những năm phải trải qua cảm giác tủi nhục và u ám dưới sự chi phối của bọn thực dân phong kiến thời đó. Điều này cũng là một trong những giá trị tư tưởng chính của Thơ Mới trong thời kỳ 1930. Thơ ca lãng mạn của các tác giả trên thể hiện lòng yêu nước bí mật.