1. Bài mẫu số 4
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là một nhà chính trị và quân sự xuất sắc, đã đóng góp to lớn trong việc đánh bại quân Minh, mang lại hòa bình và thịnh vượng cho đất nước. Ông cũng là một nhà văn, nhà thơ vĩ đại với một kho tàng tác phẩm phong phú bằng cả chữ Hán và chữ Nôm, trong đó có các tác phẩm nổi bật như Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập, Quốc Âm thi tập, và Ức Trai thi tập…
Đại cáo bình Ngô được xem là một áng “Thiên cổ hùng văn” bất hủ, là bản tuyên ngôn hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc.
Trong đoạn thứ 3, Nguyễn Trãi đã khắc họa rõ nét cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong giai đoạn đầu. Hình ảnh đầu tiên hiện lên là chủ tướng Lê Lợi:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Việc tự xưng thân mật, xuất thân từ núi rừng, từ nhân dân nhưng vì lòng yêu nước mà đứng lên. Vị lãnh tụ mang trong mình nỗi căm thù sâu sắc với kẻ thù, quyết không chịu khuất phục, dốc lòng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trải qua bao khó khăn, vất vả, người anh hùng đã trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa. Đối diện với quân địch mạnh mẽ, tướng sĩ Lam Sơn ban đầu hoàn toàn yếu thế. Khởi nghĩa diễn ra khi quân thù đang ở đỉnh cao, nhân tài ít ỏi, lương thực, quân tiếp viện cũng khan hiếm. Vậy điều gì đã giúp Lê Lợi và các cộng sự chiến thắng? Chính là:
Tấm lòng cứu nước, luôn kiên trì hướng về phía đông;
Cỗ xe cầu hiền, luôn nhắm về phía tả.
Chủ tướng nhận mệnh trời, vượt qua thử thách để tìm ra con đường chiến thắng. Với tinh thần đoàn kết dân tộc, tướng sĩ một lòng trung thành, kế sách chống lại kẻ mạnh, và trên hết là đại nghĩa và chí nhân để:
Trọn vẹn:
Dùng đại nghĩa để thắng hung tàn,
Dùng chí nhân để thay cường bạo.
Nhờ đó, mỗi ngày lực lượng kháng chiến ngày càng mạnh mẽ, tận dụng thời cơ để mở các chiến dịch phản công và giành thắng lợi.
Trong không gian hạn chế của bài cáo, với tài năng khéo léo, Nguyễn Trãi đã mô tả chân thực và đa chiều cuộc chiến. Những trận đánh liên tiếp và rộng khắp từ Bồ Đằng, Trà Lân, Tây Kinh, đến Đông Đô với các trận Ninh Kiều, Tốt Động bảo vệ Thăng Long. “Thằng nhãi con Tuyên Đức” – vua Minh phải điều binh cứu viện, nhưng nghĩa quân Lam Sơn đã chặn đứng viện binh bằng những trận đánh liên tiếp:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất bại,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng tử trận,
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận,
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cũng cùng kế tự vẫn.
Trong đoạn văn dài, những trận đánh như sấm sét, chớp giật, quân tướng hừng hực khí thế, quyết chiến, quyết thắng:
– Sĩ khí hăng say
Quân lực càng mạnh mẽ
– Sĩ tốt chọn người hùng
Bề tôi chọn kẻ gian ác
Gươm mài đá, đá cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn
Chiến trường hiện ra rõ nét với không khí, cảnh tượng ấn tượng:
Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
Nhìn lại từ đầu cuộc khởi nghĩa là một kỳ tích, sức mạnh phi thường.
Không chỉ ca ngợi chiến thắng, mà còn khắc họa sự thất bại của kẻ thù một cách sống động. Cảnh Lạng Giang, Lạng Sơn đầy xác chết, Xương Giang, Bình Than đỏ máu khiến ta rùng rợn. Kẻ thù liên tục chống trả nhưng chỉ rơi vào thế bị động, tinh thần suy sụp, cuối cùng bị đánh bại nhục nhã.
Tuy nhiên, con đường nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và Lê Lợi vẫn sáng tỏ. Dù chiến thắng nhưng không dồn kẻ thù vào thế tuyệt vọng, mà còn mở ra con đường sống, cho dân tộc thời gian nghỉ ngơi. Chúng ta đã cung cấp phương tiện để kẻ thù rút lui. Thắng lợi của ta là biểu tượng của tinh thần thượng võ, nhân ái. Kẻ thù thua nhưng vẫn phải phục, sẵn sàng đầu hàng, cầu xin sống sót.
Giọng điệu hùng hồn, ngôn ngữ giàu hình ảnh, bút pháp tương phản trong Đại cáo bình Ngô đã làm sống lại trang sử hào hùng của dân tộc. Niềm tự hào không chỉ ở chiến công mà còn ở sức mạnh của toàn dân đoàn kết tạo nên chiến thắng vẻ vang.
Cuối cùng, giọng điệu trở nên nhẹ nhàng, vui vẻ khi nhắc đến nền độc lập và cảnh thái bình.
Xã tắc từ đây vững bền
…
Ai nấy đều hay
Từ nay không còn cảnh bạo tàn, đau thương, mà là niềm vui và tự hào cho toàn dân. Dân tộc có thể tự hào, hướng tới tương lai tươi sáng, xây dựng đất nước độc lập, hòa bình.
Sáu trăm năm trôi qua, lịch sử đã lùi vào quá khứ, nhưng Đại cáo bình Ngô vẫn vẹn nguyên sức sống, là bản hùng ca lịch sử, một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Trãi, nguồn cảm hứng vô tận về lòng yêu nước và tinh thần bảo vệ đất nước.
2. Bài tham khảo số 5
Bình Ngô Đại Cáo là một tác phẩm nổi bật của Nguyễn Trãi, được viết vào năm 1428. Tác phẩm này được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc ta, sau bài thơ Sông núi nước Nam của Lý Thường Kiệt. Phần ba mô tả chi tiết quá trình của cuộc khởi nghĩa từ khi bắt đầu đến khi chiến thắng.
Bài cáo được Lê Lợi diễn thuyết: Ta đây, Núi Lam Sơn đó nghĩa… Những lời tự bạch như phải trải lòng mình trước nhân dân: Đau đớn, mệt mỏi, chốc đã mười mấy năm trời – … Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tường tận – Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế suy tính càng kỹ.
Thời kỳ đầu của cuộc khởi nghĩa rất khó khăn: quân giặc mạnh, chúng ta chỉ có ít người, tài năng thiếu thốn như sao buổi sớm, như lá mùa thu. Có lúc bị bao vây, lương thực cạn kiệt, quân sĩ chỉ còn ít ỏi (khi Linh Sơn, lương hết mấy tuần – khi Khôi Huyện quân không có đội nào) … Tuy nhiên, nhờ sự kiên cường, tinh thần chiến đấu không ngừng, nhờ sự đồng lòng của tướng sĩ, nhờ sự đoàn kết của toàn dân và chiến lược đúng đắn…, chúng ta đã dần dần xây dựng được lực lượng mạnh mẽ dẫn đến chiến thắng.
Đoạn tiếp theo, Nguyễn Trãi tập trung tóm tắt quá trình chiến thắng. Điều đáng chú ý, thực tế, từ khi bắt đầu khởi nghĩa đến khi hoàn toàn chiến thắng, nghĩa quân Lam Sơn đã chiến thắng nhiều trận. Nhưng ở đây, Nguyễn Trãi chỉ tập trung vào một số trận quan trọng nhất của từng giai đoạn.
Ở giai đoạn mở màn, tác giả đề cập đến hai trận chiến khốc liệt xảy ra tại Bồ Đằng và Trà Lân. Quân giặc hoàn toàn bất ngờ, thua chạy liểng xiểng; quân ta chiến thắng nhanh chóng. Nguyễn Trãi miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn làm nổi bật được cốt lõi của hai trận đánh là sự bất ngờ trong việc dừng quân. Do đó, giặc hoảng sợ, hoang mang, quân ta càng đánh càng mạnh:
Sĩ khí đã tăng cường
Quân Thanh càng mạnh mẽ
Trần Trí, Sơn Thọ nghe tin mà sợ hãi,
Lí An, Phương Chinh nín thở cầu cứu.
Ở giai đoạn hai, quân ta mở chiến dịch Thanh Nghệ để tiến quân ra Bắc. Nguyễn Trãi nhắc đến hai trận có ý nghĩa chiến lược và diễn ra vô cùng ác liệt là trận Ninh Kiều và trận Tốt Động. Giặc huy động tất cả lực lượng cố thủ, ta quyết chiến quyết thắng; vì thế, trận chiến trở nên cực kỳ dữ dội. Bằng cách phóng đại, Nguyễn Trãi đã tạo ấn tượng sâu sắc về sự khốc liệt của trận chiến và sự thất bại nhục nhã của giặc Minh:
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động xác chết chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Thảm họa của quân giặc: Trần Hiệp bị chặt đầu.
Mọt gian kẻ thù: Lí Lượng cũng bỏ mạng.
Ở giai đoạn cuối của cuộc chiến, Nguyễn Trãi tập trung miêu tả chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang. Đây là bản anh hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng chiến trường kỳ. Như đã biết, sau một loạt thất bại, giặc Minh phải rút quân, nhưng trái lại, chúng lại cử viện binh mạnh mẽ chia làm nhiều ngả tiến xuống Đại Việt. Hai tên tướng giỏi chỉ huy hai đạo quân mạnh tạo thành thế gọng kìm nhằm đè bẹp quân ta:
Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại,
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Nhưng ta đã có sự bố trí chu đáo. Hai gọng kìm của giặc liên tiếp bị bẻ gãy:
Ta trước tạo phòng thủ vững chắc, chặn mũi tên phong.
Sau đó sai tướng chặn đường, cắt đứt nguồn lương thực.
Sau đó là những chiến thắng liên tiếp. Văn phong hăng hái như nhịp thở của người viết, mạch văn dồn dập theo bước hành quân thần tốc và những đòn tấn công dồn dập của nghĩa quân:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất bại,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng bị chặt đầu.
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hai tám, Thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.
Tiếp theo, bài cáo chuyển sang mô tả cụ thể cảnh trận mạc. Câu văn tóm gọn, đầy hình ảnh phóng đại nhằm thể hiện sức mạnh vĩ đại, khí thế áp đảo của quân ta:
Sĩ tốt mạnh mẽ,
Bề tôi chọn kẻ sắc bén,
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông cạn,
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông
Cơn gió mạnh quét sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt, đê vỡ.
Hình ảnh quân ta càng hùng tráng bao nhiêu, thì hình ảnh quân giặc càng thảm hại bấy nhiêu và từ giọng văn sảng khoái và tự hào, tác giả chuyển sang giọng mỉa mai châm biếm đầy khinh bỉ:
Tướng giặc bị bắt, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng,
Thần vũ không giết hại, lòng trời ta mở đường hiến sinh,
Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể
vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước
mà vẫn tim đập chân run.
Bài cáo kết thúc. Câu văn chuyển sang nhịp khoan thai. Giọng văn hòa nhã tươi vui:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới.
Nhưng niềm vui không ồn ào. Tác giả hiểu hơn ai hết cái giá đắt của chiến thắng, và cái ơn sâu sắc của đồng bào và trời đất tổ tông khôn thiêng đã âm thầm giúp đỡ.
3. Tài liệu tham khảo số 1
Bình Ngô đại cáo không chỉ là một tài liệu tuyên bố độc lập của Đại Việt và quyền sống của con người mà còn là bản anh hùng ca vĩ đại về cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược của nhân dân ta. Nó tái hiện những trận chiến lịch sử, những trận chiến khiến kẻ thù kinh hãi, đồng thời cũng phản ánh tinh thần nhân nghĩa của triều đại nhà Lê.
Nhân vật quan trọng nhất trong cuộc khởi nghĩa là lãnh tụ Lê Lợi, được Nguyễn Trãi miêu tả như một anh hùng yêu nước, với lòng tự hào dân tộc mãnh liệt, thù hận giặc Minh sâu sắc: 'Ngẫm thù lớn há đội trời chung/Căm giặc nước thề không cùng sống.' Điều này đã dẫn đến quyết định của Lê Lợi khởi nghĩa tại Lam Sơn, tận dụng cơ hội để tiêu diệt giặc. Lê Lợi không chỉ có lòng kiên trì bền bỉ và khả năng thu phục nhân tài mà còn quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm, xây dựng tương lai tươi sáng cho dân tộc.
Dù có lãnh tụ tài giỏi, nghĩa quân lúc đó vẫn còn yếu kém so với quân địch: 'Vừa lúc cờ nghĩa dấy lên/Chính là lúc quân thù đương mạnh.' Về sĩ khí ta có thể áp đảo quân thù, nhưng về vật chất và quân số thì ta ở thế yếu, khó khăn chồng chất khi mới khởi nghĩa. Lê Lợi phải đối mặt với sự thiếu hụt nhân tài, binh sĩ và tài nguyên trong khi quân giặc tiếp tục tàn sát và cướp bóc, làm cho tình hình càng thêm căng thẳng.
Nhưng với quyết tâm và lòng căm thù giặc sâu sắc, nghĩa quân đã khắc phục khó khăn ban đầu, đoàn kết và vận dụng mưu lược trong chiến đấu. Những trận đánh oanh liệt đã chứng minh chính nghĩa sẽ thắng gian tà: 'Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/Lấy chí nhân thay cường bạo.' Những chiến thắng đầu tiên như trận Bồ Đằng và miền Trà Lân đã làm cho quân địch hoảng loạn và thất bại liên tiếp. Hình ảnh quân địch tan tác và các trận đánh đẫm máu là minh chứng cho sự anh dũng và lòng kiên cường của nghĩa quân.
Cuối cùng, quân giặc phải xin hàng khi thấy thất bại không thể cứu vãn, với sự phóng đại của hình ảnh 'thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước'. Nguyễn Trãi đã diễn tả sự tàn khốc và hào hùng của cuộc chiến bằng các hình ảnh thiên nhiên mạnh mẽ. Sự nhân nghĩa của nghĩa quân được thể hiện qua việc cho giặc đường lui để bảo vệ sức lực và tránh thêm đổ máu, khẳng định một kế sách hòa hoãn và sáng suốt. Phần ba của Bình Ngô đại cáo tái hiện sống động quá trình khởi nghĩa và khẳng định sức mạnh và chân lý của dân tộc Việt Nam.
4. Tài liệu tham khảo thứ hai
Nguyễn Trãi, một vĩ nhân nổi bật của văn học Việt Nam, với tác phẩm vĩ đại Bình Ngô Đại Cáo, đã để lại một bản anh hùng ca bất hủ cho thế hệ sau. Đặc biệt, đoạn thơ thứ ba là một bản anh hùng ca hào hùng về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
“Ta đây:
Núi Lam Sơn dựng nghĩa
Chốn hoang vu trú ẩn
Ngẫm thù sâu khó đội trời chung
Thề không sống cùng giặc nước
Đau đớn, nhức nhối, mười mấy năm gian khổ
Vượt mật nằm gai, chẳng phải chỉ một hai sớm tối.
Quên ăn vì căm thù, sách lược đã được tinh tường”
Đại từ “ta” mở đầu đoạn thơ như một lời khẳng định mạnh mẽ, thể hiện tâm thế của người lãnh đạo Lê Lợi. Là một vị tướng chiến đấu, ông hiểu rõ nỗi căm thù giặc, khẳng định sự thù hận đến tận xương tủy: không thể chung sống với kẻ thù. Nhưng giữ trong lòng sự căm thù mà không hành động thì sẽ dẫn đến mù quáng. Vì thế, ông không chỉ mang nỗi hận, mà còn chất chứa nhiều suy tư, trăn trở, đến mức “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”, “quên ăn vì giận”, và cả những lo lắng về kế sách quân sự và khó khăn sắp tới. Những khó khăn trong kháng chiến là vô kể, thiếu thốn nhân tài và binh lực, nhưng điều này lại trở thành động lực cho sự kiên cường và quyết tâm của các chiến sĩ. Cuối cùng, sự hy sinh và vất vả của nghĩa quân Lam Sơn đã được đền đáp xứng đáng.
“Gươm mài đá, đá cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.”
Hình ảnh thiên nhiên trong 4 câu thơ này như một cách thể hiện chiến công vĩ đại và hào hùng của nghĩa quân Lam Sơn. Hình ảnh “gươm mài đá” và “voi uống nước” nhấn mạnh tinh thần bền bỉ và kiên trì của các chiến sĩ, đồng thời phản ánh triết lý chiến đấu vì chính nghĩa luôn giành chiến thắng. Các cụm từ “sạch không kình ngạc”, “tan tác chim muông” thể hiện sức mạnh tấn công và tinh thần chiến đấu của quân đội, cho thấy chiến thắng không chỉ vang dội mà còn quét sạch kẻ thù.
“Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam khiếp vía vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh chạy tán loạn.
Suối Lãnh Câu, máu chảy đầy, nước sông tràn ngập tiếng khóc
Thành Đan Xá, xác chết chất thành núi, cỏ phủ đầy máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót không kịp,
Quân giặc các thành rối loạn, tháo giáp đầu hàng
Tướng giặc bị bắt, như hổ đói cầu cứu
Thần vũ không giết, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp năm trăm thuyền, ra biển vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát vài nghìn ngựa, về nước vẫn run rẩy”
Cuối cùng, tác giả kết thúc đoạn ba của bài cáo với một giọng văn đầy tự hào, tái hiện những thắng lợi liên tiếp của nghĩa quân trong cuộc kháng chiến chống quân Minh. Những chiến công này không chỉ được ghi vào sử sách mà còn thể hiện lòng yêu nước bất khuất và quật cường của người Việt Nam. Đoạn thơ liệt kê chiến thắng của quân Lam Sơn, từ Bồ Đằng, Trà Lân đến các vùng Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An, và các chiến công vĩ đại của Lê Lợi:
“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất bại
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng bị chém đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh tự vẫn”
Tóm lại, phần ba của bài cáo chia làm ba phần: mô tả những khó khăn đầu kháng chiến, tự hào về chiến thắng, và kết thúc bằng niềm tin vào một đất nước vững bền và đổi mới. Nguyễn Trãi đã khẳng định Bình Ngô Đại Cáo như một bản tuyên ngôn độc lập lần hai, là tổng kết lịch sử và khúc tráng ca về chiến đấu và chiến công.
5. Tài liệu tham khảo số 3
Qua hai mươi năm chống quân Minh và hơn mười năm chiến đấu khởi nghĩa Lam Sơn thành công (1416 - 1427), sự xuất hiện của Đại cáo bình Ngô là điều không thể tránh khỏi. Về mặt hành chính, đây là một tài liệu lịch sử công bố rộng rãi nền độc lập dân tộc sau nhiều năm gian khổ, “tướng sĩ một lòng”. Tuy nhiên, đây còn là một tác phẩm văn chương vĩ đại, tập hợp lòng yêu nước của toàn dân tộc, với Nguyễn Trãi là người đã thổi hồn vào từng câu chữ. Đặc biệt, phần ba của tác phẩm làm nổi bật hình ảnh vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn và những khó khăn trong những ngày đầu khởi nghĩa.
Nguyễn Trãi đã khắc họa chính xác giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bằng cách kết hợp giữa kể chuyện và cảm xúc. Tác giả đã thành công trong việc miêu tả hình ảnh Lê Lợi trong thời điểm đầu dấy nghĩa đầy gian nan:
Ta đây:
Núi Lam Sơn nhen nhóm nghĩa khí,
Chốn hoang vu tựa như nơi cư trú.
Hình ảnh Lê Lợi kết hợp hài hòa giữa con người bình thường và vị thủ lĩnh nghĩa quân. Ông là linh hồn của cuộc khởi nghĩa với khả năng tổ chức, tập hợp, đoàn kết mọi người, đồng thời có phẩm chất của một nhà quân sự và chính trị xuất sắc. Lê Lợi căm thù sâu sắc kẻ thù và quyết tâm mạnh mẽ để đẩy lùi giặc ngoại xâm ra khỏi đất nước:
Ngẫm thù sâu đậm không thể cùng trời chung,
Căm giặc nước thề không sống chung.
Đau lòng nhức óc, đã mười mấy năm trời,
Nếm mật nằm gai, không chỉ một sớm một tối.
Quên ăn vì căm giận, sách lược và mưu kế đã tinh tế;
Những trăn trở và lo lắng càng thêm sâu sắc.
Những đêm không ngủ chỉ lo một nỗi đồ hồi.
“Ngẫm thù sâu đậm không thể cùng trời chung, Căm giặc nước thề không sống chung” là sự thể hiện thái độ và quyết tâm của lãnh tụ. Đau lòng nhức óc, nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận… là sự thử thách bản thân từ trái tim đến trí óc. Không phải chỉ một sớm một chiều mà là suốt mười mấy năm. Vì trong tâm trí luôn canh cánh mối lo toan cứu nước, cứu dân, nên Lê Lợi luôn ở trạng thái băn khoăn một nỗi đồ hồi. Qua hình ảnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã làm rõ tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Đầu tiên, khi so sánh lực lượng giữa hai bên, ta thấy ta yếu hơn giặc rất nhiều:
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh mẽ.
Những ngày đầu của cuộc khởi nghĩa đầy khó khăn và thiếu thốn. Lê Lợi và nghĩa quân phải vượt qua vô vàn thử thách: Nhân tài như lá mùa thu, tài giỏi như sao buổi sớm. Thiếu quân, thiếu lương nhưng nhờ lòng yêu nước, nhờ sự đoàn kết của tướng sĩ mà cuộc khởi nghĩa đã vượt qua khó khăn và ngày càng lớn mạnh, đủ sức chiến đấu giành thắng lợi.
Vậy sức mạnh nào giúp nghĩa quân Lam Sơn vượt qua khó khăn? Trước tiên, là sức mạnh từ tư tưởng nhân nghĩa, ý thức dân tộc, và mục tiêu chiến đấu vì hạnh phúc nhân dân, bảo vệ nền độc lập và truyền thống văn hóa của quốc gia Đại Việt. Quan trọng không kém là tài trí mưu lược và phẩm chất anh hùng của Lê Lợi. Ông thể hiện vai trò của một vị minh chủ: căm thù kẻ thù sâu sắc, tự tin và sẵn sàng gánh vác vận mệnh của quốc gia, dân tộc.