Bản phác thảo về việc mô tả cảnh trong Cảnh ngày xuân hay nhất, ngắn gọn được tuyển chọn từ những bài văn xuất sắc của các học sinh trên toàn quốc giúp bạn viết văn tốt hơn.
5+ Gợi ý về việc mô tả cảnh trong Cảnh ngày xuân (vô cùng ấn tượng)
Bản phác thảo về việc mô tả cảnh trong Cảnh ngày xuân
I. Bắt đầu bài
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du, tác phẩm truyện Kiều và đoạn trích Cảnh ngày xuân
- Nghệ thuật mô tả thiên nhiên trong đoạn trích Cảnh ngày xuân thể hiện tình cảm nhân văn cao đẹp của tác giả đối với thiên nhiên và con người
II. Phần Chính
Nghệ thuật sử dụng hình tượng ước lệ cổ điển, lấy cảm hứng từ thơ cổ một cách sáng tạo, bằng cách chấm phá và điểm xuyết tài hoa
1. Bốn dòng đầu: Mô tả cảnh ngày xuân
- Tóm tắt về vẻ đẹp rộn ràng của mùa xuân với hình ảnh chim én liệng trên bầu trời trong veo, đầy ánh sáng rực rỡ của mùa xuân tươi mới ( hai dòng đầu)
- Tác giả thể hiện sự tiếc nuối khi thời gian trôi qua vội vã
- Bức tranh tuyệt vời hiện ra qua hai dòng thơ:
Cỏ non xanh ngắt bên chân trời
Một số bông hoa trắng trên cành lê
+ Cảnh vật đơn giản với cỏ xanh và hoa trắng, nhưng tạo ra không gian rộng lớn, tươi mới và thanh bình
+ Trong khi hai dòng thơ cổ của Trung Quốc nhấn mạnh vào hương thơm của cỏ, Nguyễn Du lại chọn hình ảnh cỏ xanh để tôn vinh sức sống phong phú của mùa xuân
+ Hình ảnh hoa lê đưa ra cảm giác sự tươi mới, tinh khiết và thanh thoát của tự nhiên, được thể hiện trong không gian
→ Hai dòng thơ mô tả vẻ đẹp tự nhiên tinh tế của Nguyễn Du tạo ra bức tranh sống động, ngôn từ giàu biểu cảm. Điều này thể hiện tinh thần hân hoan và sảng khoái của con người khi ngắm nhìn thiên nhiên tươi đẹp
2. Sáu dòng cuối: hình ảnh thiên nhiên phản ánh tâm trạng con người
- Cảnh mang vẻ thanh bình và dịu dàng của mùa xuân: ánh nắng hoàng hôn, dòng suối nhỏ, cây cầu bắc ngang, như một bức tranh sắc màu tâm trạng của con người
+ Buổi chiều tà là không gian quen thuộc trong văn học, khiến con người ngập trong những cảm xúc không thể diễn tả.
+ Cảnh vật dường như chậm lại, yên bình, mọi sự di chuyển dần dần trở nên im lặng
+ Không gian thu hẹp, rút ngắn, phản ánh nỗi buồn của con người
- Các từ thanh thanh, tà tà, nao nao không chỉ mô tả vẻ đẹp của cảnh vật mà còn thể hiện tâm trạng của con người
+ Từ nao nao mang lại nét buồn không lời. Hai từ thẩn thơ đầy sức gợi mở, nhắc nhở về bức tranh buồn của Kiều và chị em khi ra về
→ Bút pháp tả cảnh liên kết với tình, gắn với tâm trạng và tình cảm
III. Kết luận
Với bút pháp tài tình, đoạn trích mô tả thiên nhiên tạo ra bức tranh tươi đẹp của mùa xuân và lễ hội
Đoạn trích thể hiện sự tinh tế của Nguyễn Du trong việc miêu tả cảnh vật và tâm trạng con người
Đoạn trích khẳng định tài năng miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du cũng như tác phẩm kiệt xuất Truyện Kiều
Bức tranh thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - Mẫu 1
Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thành công với nghệ thuật tả cảnh. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” thể hiện rõ tài năng miêu tả cảnh của nhà thơ. Bốn dòng thơ đầu tiên mô tả cảnh ngày xuân như một bức tranh. Nhà thơ đã chọn những chi tiết đặc trưng nhất của mùa xuân để mô tả.
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thềm quang chín chục đã ngoài sáu mươi ”.
Giữa bầu trời rộng lớn là những đàn én bay qua, bay lại như những con thoi. Hai từ “đa thoi” rất sinh động và ấn tượng. Chúng vừa mô tả được cảnh én bay rợp trời, vừa thể hiện thời gian mùa xuân trôi nhanh. Nhà thơ sử dụng cách diễn đạt dân dã để nói về thời gian trôi như thoi. Cảnh ngày xuân hiện lên trong thơ vừa bình dị vừa sống động. Sau cánh én đưa thoi là ánh xuân, là “thiều quang” của mùa xuân đã sang tháng ba.
Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của Nguyễn Du mang đặc điểm riêng. Hai từ “Thiều quang” để nói về mùa xuân đã đến tháng ba. Hai từ này đã tạo nên màu hồng của ánh xuân, cái ấm áp của không khí xuân, cái rộng lớn bao la của trời đất. Câu thơ đã thể hiện được không gian mùa xuân trong lành.
Bức tranh mùa xuân còn là sắc xanh của cỏ non trải dài, lan tỏa như thảm tận chân trời:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa ”.
Người đọc cảm nhận được Nguyễn Du đã lấy cảm hứng từ thơ cổ Trung Quốc. “Cỏ thảm liền với trời xanh Trên cành lê có mấy bông hoa”. Nhưng ở đây, Nguyễn Du có sáng tạo riêng. Ông chú trọng vào việc mô tả sắc trắng của hoa. Sử dụng phép đảo ngữ để đặt tính từ “trắng” trước cụm từ “vài bông hoa”, kết hợp với tính từ “xanh” ở câu trên. Câu thơ của Nguyễn Du trở thành bức tranh với gam màu dịu dàng. Trên nền xanh của cỏ, điểm thêm vài bông hoa lê trắng đã tạo nên một bức tranh lãng mạn.
Nghệ thuật phối hợp sắc màu của Nguyễn Du rất tài tình. Sự kết hợp giữa màu xanh và màu trắng mang lại cảm giác mùa xuân mênh mông mà không cô đơn, trong lành mà trẻ trung, nhẹ nhàng mà trong trẻo. Bốn câu thơ đầu tạo nên một bức tranh về mùa xuân bằng ngôn từ. Bức tranh đó đẹp, bình dị và mơ mộng. Đó là bức tranh có sự hòa quyện màu sắc, dịu dàng và tươi tắn. Đó là màu xanh của cỏ và màu trắng của hoa lê. Bức tranh đó có không gian mênh mông và thoáng đãng. Có những đàn én đang bay lượn, có màu hồng của ánh thiều quang.
Việc vẽ bức tranh về mùa xuân với hoa lê như vậy đã thể hiện rõ tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó với cảnh vật ngày xuân của Nguyễn Du. Cảnh ngày xuân trở nên đẹp và sinh động hơn khi nhà thơ miêu tả cảnh lễ hội mùa xuân.
“Lễ như tảo mộ, hội như đạp thanh”.
Điệp từ “lễ như, hội như ”được sử dụng để liệt kê cảnh lễ hội dân gian diễn ra liên tục từ thời xa xưa. Sau đó, nhà thơ mô tả chi tiết cảnh hội chợ sôi động, tưng bừng và sôi nổi.
“Gần xa náo nức, yến anh
Chị em chuẩn bị bộ trang phục để đi chơi xuân
Tài tử, giai nhân dập dìu đi lại
Ngựa xe lượn như nước, áo quần bay như nêm ”.
Trên mọi con đường gần xa, dòng người đông đúc chảy như dòng hội, đón chào mùa xuân với biết bao yến anh, tài tử, giai nhân, vai kề vai, chân nối chân cùng nhịp bước. Dòng người hối hả, xe ngựa cuồn cuộn. Nhà thơ tài tình sử dụng các từ như “nô nức, dập dìu” kết hợp với các từ như “yến anh, tài tử, giai nhân…” và các ẩn dụ, so sánh như “như nước, như nêm” để tả lễ hội mùa xuân đang diễn ra trên khắp quê hương.
Tiếp tục đọc đoạn thơ, ta còn thấy Nguyễn Du tường trình về đời sống tinh thần, văn hóa dân gian trong lễ tảo mộ.
“Gò đống ngổn ngang kéo lên
Thoi vàng vó rơi rắc tro tiền giấy bay”.
Câu thơ có ý nghĩa sâu sắc trong việc tạo hình. Nhà thơ đã sử dụng phép đảo ngữ để mô tả những gò đống ngổn ngang của các mộ liền kề nhau. Cả thế giới âm và dương, những người sống và những người đã khuất, hiện tại và quá khứ, đều hiện hữu trong những gò đống ngổn ngang trong lễ tảo mộ. “Thoi vàng vó” được rắc ra, tiền vàng bay như tro bay, tạo nên không gian tràn ngập niềm tin và lòng hiếu kính. Các tài tử, giai nhân và ba chị em Kiều không chỉ cầu mong cho linh hồn đã khuất mà còn truyền đi niềm tin và những ước mơ về tương lai, hạnh phúc trong mùa xuân ấm áp.
Giá trị nhân văn của những câu thơ đã khiến người đọc cảm động. Sáu câu thơ cuối ghi lại hình ảnh chị em Thuý Kiều trở về sau khi đi tảo mộ. Lúc này, mặt trời đã dần gác lại núi, ngày hội, niềm vui dần trôi qua.
“Bóng tà tà dần ngả về phía tây”
Chị em thong thả đan tay về
Nhịp thơ trôi êm đềm, miêu tả cuộc sống như dừng lại. Tâm trạng của chị em Thuý Kiều thong thả, cử động nhẹ nhàng, bước chân di chuyển từ từ, không gian yên bình, trầm lắng. Công việc lúc hoàng hôn hiện lên trước mắt của chị em Thuý Kiều như trở nên nhỏ nhắn hơn.
Bước từ từ theo dòng suối nhỏ
Nhìn phong cảnh mênh mông thanh thanh
Nhấp nhô dòng nước uốn quanh
Dưới cầu nhỏ nhắn cuối triền đá
Khe suối chỉ là “ngọn suối nhỏ”, phong cảnh thanh thanh, dòng nước “nhấp nhô uốn quanh”. “Dưới cầu nhỏ nhắn cuối triền đá”. Nhà thơ đã khéo léo sử dụng các từ ngữ để diễn đạt những cảnh vật nhỏ bé, êm đềm. Sự nhấp nhô của dòng nước uốn quanh không chỉ thể hiện sự nhẹ nhàng, mềm mại của dòng nước mà còn diễn đạt tâm trạng bâng khuâng, hoài niệm, sự xao xuyến của tâm hồn người phụ nữ khi lễ hội tan, ngày tàn.
Do đó, đoạn thơ được cấu trúc theo thứ tự thời gian, bốn câu đầu miêu tả khung cảnh ngày xuân. Tám câu tiếp theo là về khung cảnh lễ hội. Sáu câu cuối là về cảnh du xuân trở về. Cấu trúc này phản ánh diễn biến tâm trạng của nhân vật trong cảnh ngày xuân, cũng dễ dàng theo dõi. Qua đó, chúng ta cảm nhận được bức tranh thiên nhiên tươi đẹp là một nét đẹp truyền thống của văn hóa dân tộc.
Nghệ thuật miêu tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 2
Khi nhắc đến bút pháp trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, thường nhắc đến cách ông miêu tả nội tâm nhân vật. Tuy nhiên, khi đọc đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, ta không khỏi ngưỡng mộ cách ông miêu tả cảnh thiên nhiên sống động, tươi đẹp, trong sáng. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân dưới bút tài hoa của Nguyễn Du thật sự tuyệt vời.
Nguyễn Du được xem là đại thi hào của Việt Nam với kiệt tác Truyện Kiều. Một điểm đặc biệt của tác phẩm này là:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh rợn chân trời
Một vài bông hoa trắng trên cành lê.
Trong đoạn thơ, có một bức tranh về thiên nhiên mùa xuân tươi sáng và rất lãng mạn. Nguyễn Du đã thành công trong việc sử dụng tu từ nhân hóa để làm cho cảnh vật trở nên sống động hơn. Mùa xuân được mô tả bằng cách cánh én chao lượn trên bầu trời, tạo nên cảm giác nhẹ nhàng, đều đặn. Đặc biệt, cách Nguyễn Du tả cỏ xuân thật đặc sắc:
“Cỏ non mọc um tùm, màu xanh lan tỏa đến chân trời.”
Trong thơ Việt, có nhiều câu thơ tả cỏ rất đẹp: “Cỏ xanh như sương sớm trên bến sông.”
(Bến sông xuân rợp mát – Nguyễn Trãi)
hay:
“Bờ đê tràn ngập cỏ non xanh mướt.”
(Buổi chiều mùa xuân – Anh Thơ,)
Cách Nguyễn Du mô tả cỏ mang đậm dấu ấn riêng, tạo nên một vẻ đẹp độc đáo. “Xanh rợn” là một cách mô tả tinh tế, khiến cho người đọc cảm nhận được sự mênh mông của màu xanh trong không gian. Nhà thơ đã sử dụng tài nghệ để làm nổi bật vẻ đẹp vô tận trong hữu hạn. Trong màu xanh ấy, ta cảm nhận được hương vị ngọt ngào của mưa xuân, mặc dù không được đề cập trực tiếp trong câu thơ, đó là tài năng của Nguyễn Du. Trong bức tranh thiên nhiên mùa xuân, chúng ta còn nhìn thấy hình ảnh của những cành hoa lê:
“Trên cành lê, vài bông hoa trắng tinh khôi.”
Mùa xuân tạo ra một vẻ đẹp trắng tinh khôi cho những bông hoa. Chúng ta nhìn thấy những đốm trắng xinh đẹp, lấp lánh trên cành lê, tạo cảm giác như ai đó đã vô tình để lại những bông hoa ấy trên cành. Ngoài những bức tranh về thiên nhiên mùa xuân, trong Truyện Kiều cũng có hình ảnh của thiên nhiên mùa hạ:
“Dưới ánh trăng hạ, gió reo đã gọi hè
Bên bờ lửa lựu, ánh sáng phản chiếu rực rỡ.
Thiên nhiên được cảm nhận qua những khoảnh khắc đặc biệt trong đêm trăng. Tiếng chim reo vang lên trong đêm trăng mang một sự say đắm, kích động. Mùa hè đến từ từ, đầy nồng nàn làm cho không gian thay đổi. Nguyễn Du mô tả mùa hè bằng những tín hiệu đặc trưng và quen thuộc của nó. Ngoài tiếng chim hót, chúng ta cũng nhìn thấy hình ảnh của những bông lựu đỏ:
“Ánh sáng trăng soi lấp lánh trên bông lựu đỏ.”
Bốn âm tiếng kết hợp nhau tạo nên âm điệu nhịp nhàng cho câu thơ. Bông lựu đỏ dưới ánh trăng trở nên lung linh, được so sánh như những đốm lửa hồng sáng rực. Những đốm lửa lấp lánh trên cành cây, tạo nên cảnh tượng ảo diệu, lôi cuốn. Mùa hè đã đến, thắp lên trên bầu trời những đốm lửa nhỏ, tạo nên một bức tranh sinh động. Ngôn ngữ tả của Nguyễn Du gợi lên trong tâm trí người đọc nhiều hình ảnh sâu sắc hơn.
Bằng tài nghệ của mình, Nguyễn Du đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên mùa xuân tuyệt vời trong tiết Thanh minh. Đoạn trích này được kết cấu hợp lý với phần mở đầu, diễn biến và kết thúc, với việc sử dụng các phương tiện nghệ thuật như tả cảnh, chấm phá, lấy điểm tả diện... Đây không chỉ là một bức tranh thiên nhiên mùa xuân, mà còn là cảm xúc, tự sự và dự cảm về số phận của con người. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một trong những miêu tả thiên nhiên tinh tế và lôi cuốn nhất của Nguyễn Du.
Khi kết thúc đoạn trích, người đọc không thể không ngạc nhiên trước bức tranh thiên nhiên mùa xuân được Nguyễn Du vẽ bằng những dòng thơ tuyệt vời. Chỉ qua đoạn trích này, Nguyễn Du đã khẳng định được tài năng và bút pháp của một nhà thơ xuất sắc của dân tộc. Và 'Cảnh ngày xuân' cùng với Truyện Kiều sẽ luôn là những tác phẩm nổi bật nhất trong văn học Việt Nam.
Nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 3
Đoạn trích “Cảnh ngày xuân’’ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, miêu tả cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh và cảnh du xuân của chị em Kiều.
Đoạn thơ miêu tả không gian và thời gian với những đặc điểm của thi pháp cổ điển, chấm phá, tả ít nhưng gợi nhiều.
Ngày xuân, én thong thả đưa thoi,
Thiều quang đã vượt sáu mươi chín,
Cỏ non xanh rì, tận chân trời,
Cành lê trắng khoe vẻ tinh khôi.
Ngày xuân vội vã trôi qua, giữa tiết trời chuyển sang tháng ba, đàn én hân hoan bay lượn như thoi thúc. Thảm cỏ non trải dài đến chân trời, trên bức tranh xanh mướt ấy, vài bông hoa lê trắng như điểm sáng. Miêu tả vẻ đẹp mới mẻ, tràn đầy sức sống (cỏ non), tươi tắn (xanh rì), nhẹ nhàng, trong trẻo (trắng khoe vẻ tinh khôi).
Thanh minh, tiết tháng ba tới,
Lễ tảo mộ, hội đạp thanh rộn.
Xôn xao, náo nức khắp nơi yến anh,
Chị em sắm sửa chuẩn bị bộ đồ xuân
Điệu đà tài tử, quý phái giai nhân,
Ngựa xe như sóng nước, áo quần như nên.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rơi, tiền giấy bay lượn
Cảnh vui tưng bừng của lễ hội được mô tả qua sự kết hợp của nhiều từ ghép, từ láy: xôn xao, yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, náo nhiệt sắm sửa, điệu đà… tạo ra hình ảnh đông đúc, sôi động, và sự náo nhiệt của những người tham gia hội chợ, đặc biệt là những tài tử và quý phái giai nhân. Truyền thống văn hóa lễ hội từ xưa được miêu tả: mọi người sắm sửa đồ dùng cúng tế đi tảo mộ, chuẩn bị trang phục đi tham gia lễ hội ở quê, rải rác thoi vàng vó, tiền giấy bay lơ lửng để tưởng nhớ người đã khuất.
Trong tiết Thanh Minh của tháng ba,
Lễ là để tảo mộ, hội là để vui vẻ.
Khắp nơi rộn ràng với yến anh,
Chị em sắm sửa chuẩn bị trang phục xuân
Tài tử và giai nhân điệu đà dập dìu,
Ngựa xe như sóng nước, áo quần như nêm.
Gò đống kéo lên rối rít khắp nẻo,
Rắc thoi vàng vó, tiền giấy bay tro
Ánh nắng nhạt, mặt trời dần lùi về phía tây, phong cảnh dịu dàng thanh tịnh, bước chân nhẹ nhàng theo nhịp của cây cầu nhỏ cuối con đường, dòng nước uốn quanh. Những từ ngữ tà tà, thanh thanh, nao nao không chỉ mô tả màu sắc của cảnh vật mà còn thể hiện tâm trạng lắng đọng, xao xuyến về một ngày vui sắp tàn và linh cảm về điều sắp xảy ra.
Bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng trong đoạn thơ Cảnh ngày xuân được tạo ra thông qua sự sắc nét của từ ngữ, bút pháp mô tả phong phú, phản ánh sự tài hoa trong việc biểu đạt của văn học phong kiến.