Dưới đây là 5 hệ điều hành Windows tồi tệ nhất mọi thời mà có thể bạn chưa biết.
Hệ điều hành Windows của Microsoft là một trong những hệ điều hành phổ biến nhất mọi thời đại. Sự phổ biến của hệ điều hành Windows không phải là ngẫu nhiên khi nó chiếm vị trí thống trị về thị phần trên thị trường hiện nay.
Tuy nhiên, đằng sau sự thành công của Microsoft, một số hệ điều hành đã gặp phải tranh cãi vì thiếu các tính năng quan trọng, trong khi một số phiên bản khác có nhiều tính năng vô dụng và không ổn định.
Windows 1.0
Windows 1.0 được công bố vào năm 1983 nhưng mãi đến khi HĐH mới chính thức ra mắt. Windows 1.0 được cho là cạnh tranh với hệ điều hành của Apple nhưng lại ít phổ biến hơn. Windows 1.0 thành công nhờ vào MS-DOS, nhưng nỗ lực đầu tiên của họ đã để lại nhiều điều không như mong đợi.
Tuy nhiên, HĐH đầu tiên của Windows thiếu một số ứng dụng quan trọng, làm cho hệ điều hành trở nên không hấp dẫn và cấu trúc của nó hơi lộn xộn và quá cơ bản. Bạn thậm chí không thể mở các tab lên nhau, khiến mọi thứ trông giống như một bảng tính. Bên cạnh đó, Windows 1.0 thường kém hiệu suất và không tương thích với các chương trình mà người dùng Macintosh đã quen thuộc.
Windows Millennium Edition
Windows Millennium Edition, viết tắt là ME, là hệ điều hành Windows cuối cùng dựa trên MS-DOS, được phát hành vào đầu thế kỷ 21. Microsoft đã dự định chuyển sang nhân Windows NT sau Windows 98, nhưng họ cần thêm thời gian để phát triển hệ điều hành mới của họ, vì vậy Windows ME đã được phát hành để thu hút người dùng. Thật không may, việc phát hành bản sửa lỗi gấp rút này đã gây ra nhiều vấn đề cho người dùng khi cài đặt.
Windows ME là một trong những phiên bản Windows không ổn định nhất cho đến nay. Cho dù bạn đang duyệt web, cài đặt phần mềm hay thậm chí chỉ khởi động, bạn sẽ gặp khó khăn. Theo ghi nhận, ME là phiên bản Windows đầu tiên cung cấp tính năng System Restore quan trọng và sẽ rất hữu ích nếu bạn có thể sử dụng nó mà không gặp sự cố.
Windows Vista
Là hệ điều hành đầu tiên dựa trên nhân Windows NT, Windows XP là một thành công lớn, mang lại sự ổn định và tiện lợi ngang nhau. Thành công đó đã thúc đẩy Microsoft tiến lên, họ cần một phiên bản Windows tiếp theo lớn hơn và tốt hơn. Tuy nhiên, Windows Vista chính thức bị khai tử vào năm 2006 vì dung lượng lớn, đòi hỏi cấu hình cao đi bên cạnh giá bản quyền cũng không nhỏ và một rừng lỗi khó khắc phục.
Windows 8
Sau thành công của Windows 7, Microsoft tìm cách đổi mới và đưa lĩnh vực PC sang một hướng mới đầy thách thức. Sau thành công của iPad của Apple, kế hoạch lớn tiếp theo của Microsoft là một hệ điều hành có thể được sử dụng trên cả PC và máy tính bảng. Kết quả vào năm 2012 là Windows 8, một hệ điều hành được xây dựng cho cả hai nền tảng nhưng không hoạt động tốt trên cả hai.
Windows 8 được phát triển cho các thiết bị cảm ứng đầu tiên và thứ hai là PC, điều này không phù hợp với người dùng máy tính để bàn Windows lâu năm. Windows 8 đã buộc người dùng từ bỏ giao diện truyền thống để chuyển sang menu cảm ứng xấu xí và cồng kềnh. Windows 8 cũng đánh dấu sự ra đời của Windows Store và định dạng ứng dụng UWP, cả hai đều là điểm phiền toái cho người dùng Windows cho đến ngày nay.
Windows RT
Bên cạnh Windows 8, Microsoft cần phát triển một phiên bản Windows đặc biệt dành cho nền tảng di động, một phiên bản có thể sử dụng HĐH mà không cần nhiều tài nguyên. Kết quả là Windows RT, phiên bản dựa trên ARM đầu tiên, thiết kế để làm việc hiệu quả mà không cần tài nguyên nhiều.
Tuy nhiên, Windows RT có một điểm yếu lớn là không thể chạy các ứng dụng x86, định dạng được sử dụng cho hầu hết các ứng dụng của bên thứ ba trên Windows. Thực tế, HĐH không thể chạy bất kỳ ứng dụng bên thứ ba nào, kể cả khi chúng có sẵn trên Windows Store, đa phần là những ứng dụng không được người dùng ưa chuộng.