1. Cadimi (Cd)
Cadimi là một kim loại cực kỳ độc hại đối với cả động vật dưới nước và con người. Khi bị nhiễm độc Cadimi, người ta có thể mắc các bệnh nghiêm trọng như ung thư phổi, thủng vách ngăn mũi, đặc biệt là tổn thương thận dẫn đến protein niệu. Cadimi cũng gây ảnh hưởng xấu đến hệ nội tiết, hệ tuần hoàn, và nhiều cơ quan khác.
Cadimi có mặt trong đất và đá. Đá núi lửa chứa từ 0,1 – 0,3 mg/kg Cd, trong khi các mỏ khai thác quặng như mỏ than, mỏ apatite, và mỏ sulfit có thể chứa tới 5% Cd. Cadimi còn có trong pin, que hàn và được thải ra từ các ngành công nghiệp như sản xuất kim loại không chứa sắt, đốt nhiên liệu hóa thạch, và sản xuất sắt thép, làm Cd phát thải vào khí quyển. Cadimi cũng xuất hiện trong phân bón phosphate, gây ô nhiễm đất nông nghiệp.
Nhiễm độc Cadimi tại Nhật Bản được biết đến với tên gọi bệnh “itai itai” hay “Ouch Ouch”, làm xương trở nên giòn và khi nồng độ cao, Cadimi gây đau thận, thiếu máu và tổn thương tủy xương.
2. Mangan (Mn)
Mangan (Mn) là một nguyên tố vi lượng cần thiết với nhu cầu khoảng 30 – 50 mg/kg trọng lượng cơ thể mỗi ngày. Khi lượng mangan vượt quá mức cho phép, nó có thể gây độc cho cơ thể, ảnh hưởng xấu đến nguyên sinh chất của tế bào, đặc biệt là hệ thần kinh trung ương, gây tổn thương thận, hệ tuần hoàn, phổi, và có thể dẫn đến ngộ độc nghiêm trọng, thậm chí tử vong.
Mangan có thể xâm nhập vào nguồn nước qua quá trình rửa trôi, xói mòn, và từ các chất thải công nghiệp như luyện kim, acqui, và phân bón hóa học.
3. Asen (As)
Asen là một á kim cực kỳ độc hại, được gọi là “Vua của các chất độc” hay “chất độc của các Vua”. Chỉ cần một lượng nhỏ tương đương với nửa hạt ngô (bắp) có thể giết chết ngay một người trưởng thành. Theo PGS.TS.BS Nguyễn Huy Nga, Cục trưởng Cục Quản lý môi trường y tế, Bộ Y tế: “Asen độc gấp bốn lần thủy ngân”; Cơ quan nghiên cứu ung thư quốc tế (IARC) và Liên minh Châu Âu (EU) đã xếp Asen vào nhóm chất gây ung thư loại I. Độc tính của Asen phụ thuộc vào dạng hóa học của nó, với hợp chất hữu cơ ít độc hơn so với hợp chất vô cơ.
Asen không chỉ có trong nước mà còn có trong không khí, đất đai và thực phẩm. Nó và các hợp chất của nó được sử dụng làm thuốc trừ dịch hại, thuốc trừ cỏ, thuốc trừ sâu và trong nhiều loại hợp kim.
Ngộ độc cấp tính do Asen có thể gây ra các triệu chứng như khát nước dữ dội, đau bụng, nôn mửa, tiêu chảy, mạch đập yếu, da mặt nhợt nhạt rồi thâm tím, bí tiểu và tử vong nhanh chóng. Ngộ độc Asen mãn tính với liều lượng nhỏ nhưng kéo dài có thể gây mệt mỏi, buồn nôn, giảm số lượng hồng cầu và bạch cầu, da sạm màu, rụng tóc, sút cân, giảm trí nhớ, tổn thương mạch máu, rối loạn nhịp tim, đau mắt, đau tai, viêm dạ dày và ruột, kiệt sức, ung thư… Người uống nước ô nhiễm Asen lâu ngày có thể xuất hiện các đốm sẫm màu trên cơ thể, đầu các chi, niêm mạc lưỡi hoặc sừng hóa da, gây mất sắc tố và sạm màu, bệnh Bowen (bắt đầu với vùng da đỏ ửng, sau đó chảy nước và lở loét); Bệnh sừng hóa da thường xuất hiện ở tay, chân, lòng bàn tay, gan bàn chân – những vùng tiếp xúc ánh sáng nhiều hoặc cọ xát thường xuyên sẽ hình thành các đinh cứng màu trắng gây đau đớn. Bệnh đen và rụng móng chân có thể dẫn đến hoại tử, làm rụng từng đốt ngón chân.
4. Thủy ngân (Hg)
Thủy ngân là một kim loại cực kỳ độc hại, có thể gây tổn thương nghiêm trọng đến não và gan nếu con người tiếp xúc qua hít thở hoặc ăn phải. Nó có thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương và hệ nội tiết, làm tổn hại miệng, cơ quai hàm, răng và có thể gây khuyết tật cho thai nhi.
Thủy ngân hiện diện trong đất đá và khí quyển. Trong khí quyển, thủy ngân chủ yếu tồn tại dưới dạng hợp chất như HgO và (CH3)2Hg, với thời gian tồn tại khoảng hơn 1 năm. Thủy ngân cũng có mặt trong bùn cống rãnh: theo Andersson (1985), mức 5-10 μg/g Hg là đặc trưng của bùn. Thủy ngân tinh khiết thường tập trung trong khoáng vật đá, việc khai thác mỏ kim loại như Cu và Zn đã giải phóng Hg và gây ô nhiễm đất. Thủy ngân còn có nhiều trong than đá; theo Brosse (1989), khoảng 50% Hg phát ra từ than đá trong quá trình đốt. Quá trình công nghiệp, đặc biệt là sản xuất chlorate kali, cũng liên quan đến Hg, cùng với các ngành luyện kim và chất ăn da Soda. Thủy ngân được sử dụng chủ yếu trong sản xuất hóa chất, kỹ thuật điện và điện tử, và hỗn hống nha khoa. Nó cũng có mặt trong một số nhiệt kế và máy đo huyết áp.
Ngộ độc thủy ngân cấp tính có thể gây ho, khó thở, sốt, buồn nôn, và đau thắt ngực. Bệnh nhân có thể bị rét run, tím tái, và trong trường hợp nặng có thể dẫn đến ngất xỉu và tử vong. Ngộ độc mãn tính có thể gây tổn thương nghiêm trọng đến hệ thần kinh và thận, và về lâu dài có thể dẫn đến ung thư. Thủy ngân vô cơ chủ yếu tác động đến thận, trong khi methyl thủy ngân (CH3)Hg+ ảnh hưởng chính đến hệ thần kinh trung ương. Người bị nhiễm độc dễ bị kích thích, cáu gắt, rối loạn tiêu hóa, rối loạn thần kinh, viêm lợi, và run chân. Ngộ độc nặng có thể gây tử vong và ảnh hưởng đến phân chia tế bào. Động vật ăn thực vật nhiễm thủy ngân có thể bị tổn thương não, cơ bắp suy yếu, và run rẩy.
5. Chì (Pb)
Chì (Pb) là một nguyên tố cực kỳ độc hại đối với sức khỏe con người. Nó có thể gây tổn thương nghiêm trọng cho hệ thần kinh trung ương, hệ thần kinh ngoại biên, và ảnh hưởng đến các enzyme trong cơ thể. Nhiễm độc chì có thể dẫn đến rối loạn sản xuất huyết cầu (tủy xương), đau bụng, đau khớp, viêm thận, cao huyết áp, đột quỵ, và trong trường hợp nặng có thể dẫn đến tử vong. Chì có xu hướng tích tụ trong cơ thể mà không bị đào thải ngay, và gây độc theo thời gian. Chì xâm nhập vào cơ thể qua nước uống, không khí, và thực phẩm nhiễm độc. Nó tích tụ trong xương, làm giảm hiệu quả chuyển hóa canxi bằng cách ức chế sự chuyển hóa vitamin D.
Chì có mặt trong ắc quy ô tô, sơn, và các vật liệu màu đỏ, vàng trong tráng men. Chì cũng được sử dụng trong lưới đánh cá của ngư dân….
Liều 0.5 mg/ngày có thể bắt đầu gây triệu chứng ngộ độc, còn liều 10 mg/ngày có thể dẫn đến ngộ độc nặng sau vài tuần. Liều tử vong có thể là 1 gam chì (tương đương 5% acetat chì) hấp thụ một lần. Lượng chì hàng tuần có thể được chấp nhận tạm thời là 0,025 mg/kg trọng lượng cơ thể.