1. Manh Manh (1914 - 1951)
Manh Manh, tên thật Nguyễn Thị Kiêm, sinh năm 1914 tại thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang, trong một gia đình trí thức. Bà từng học tại Trường Nữ Áo Tím ở Sài Gòn (hiện nay là Trường Trung học phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai). Sau khi tốt nghiệp, bà dạy học tại Trường Áo Tím một thời gian trước khi bắt đầu sự nghiệp báo chí, trở thành cộng tác viên của tờ Phụ nữ tân văn và nhiều tờ báo khác như Công luận, Nữ lưu, Việt Nam. Bà tích cực ủng hộ phong trào Thơ mới từ những ngày đầu bằng việc viết bài, diễn thuyết và sáng tác theo phong cách này.
Ngày 19-1-1933, bà công bố bài thơ “Viếng phòng vắng” trên Báo Phụ nữ tân văn, đánh dấu một bước đổi mới trong phong trào thơ với cách viết không theo khuôn mẫu cũ. Bài thơ đã thu hút sự chú ý của độc giả và các nhà văn nghệ:
“Gió lọt phòng không
tạt hơi dông
lạnh như đồng
Ngồi mơ tưởng
Ngày xưa phất phưởng
Dấy động tơ lòng…
Trải đã mấy trăng
Hỡi nhện giăng
Với rêu lan
Tấm vách cũ
Từ khi người chủ
Một giấc lặng trang...”.
Ngày 26-7-1933, tại Hội Khuyến học Sài Gòn, bà phê phán trường phái “thơ cũ” và công bố bài thơ “Canh tàn” để thể hiện sự ủng hộ phong trào Thơ mới. Bài diễn thuyết của bà đã gây tiếng vang lớn, được các nhà thơ trẻ ủng hộ. Bà còn sáng tác nhiều bài thơ khác đăng trên Báo Phụ nữ tân văn và có một cuộc tranh luận nổi bật với Nguyễn Văn Hanh về “thơ cũ” và “thơ mới”. Bà được kính trọng vì sự dũng cảm và những đóng góp cho phong trào văn học. Bà cũng tích cực tham gia Đông Dương Đại hội do Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức và qua đời tại Paris năm 2005.
Sách “Việt Nam thi nhân tiền chiến” (quyển thượng) viết: “Trong giai đoạn phát triển của Thơ mới, nữ thi sĩ Manh Manh là người đầu tiên đáp ứng lời kêu gọi của nhà tiên phong Phan Khôi. Trong khi nền thơ cũ còn vững chãi, Phan Khôi đã khởi xướng một cuộc cách mạng thi ca, và Manh Manh đã đóng góp đáng kể để củng cố nền tảng của Thơ mới.”
Các tác phẩm nổi bật: “Hai cô thiếu nữ”, “Bà La Fugie nhà thám hiểm và họa sĩ”, “Bức thư gửi tất cả ai yêu hay ghét lối thơ mới”


2. Vân Đài (1904 - 1964)
Vân Đài sinh ngày 29 tháng 1 năm 1904 tại Hà Nội, nhưng tổ tiên bà quê ở xã Hà Mô, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Bà là con gái của ông Đào Huống Mai. Sau khi trưởng thành, bà kết hôn với bác sĩ Huỳnh Kim Vinh từ Trà Vinh ra Bắc học, sau đó bà theo chồng về Trà Vinh rồi chuyển đến Sài Gòn để lập nghiệp. Sau khi chồng qua đời, bà trở ra Bắc và tái hôn với kỹ sư viễn thông Nguyễn Văn Tường. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946), bà gia nhập bộ đội và tham gia hoạt động tại chiến khu Việt Bắc, làm Hội trưởng Hội Dục anh và chăm sóc trẻ mồ côi. Sau chiến tranh (1954), bà công tác tại báo Phụ nữ Việt Nam, sau đó chuyển sang báo Văn học và tham gia Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam. Nữ sĩ Vân Đài qua đời vào ngày 31 tháng 12 năm 1964.
Bà là một trong ba nữ thi sĩ nổi bật nhất Hà Nội thời bấy giờ, cùng với Hằng Phương và Mộng Tuyết. Trên thi đàn Việt Nam, bà được đánh giá cao không kém Anh Thơ hay Thu Hồng. Hoài Thanh đã viết trong Thi nhân Việt Nam rằng: “Vân Đài là một sự lựa chọn khó khăn. Mặc dù bài thơ nào của bà cũng không sâu sắc, nhưng lời thơ luôn nhẹ nhàng và êm ái. Vân Đài thường nói về những điều mong manh và bình yên.”
Các tác phẩm nổi bật: “Hương Xuân” (tập thơ chung với Hằng Phương, Anh Thơ và Mộng Tuyết, Nhà xuất bản Nguyễn Du, 1943); “Về quê Mẹ”

3. Anh Thơ (1918 - 2005)
Anh Thơ (25 tháng 1 năm 1918 - 14 tháng 3 năm 2005), tên thật là Vương Kiều Ân, cũng được biết đến với các bút danh khác như Hồng Anh, Tuyết Anh, Hồng Minh; bà là một trong những nhà thơ nữ nổi bật của Việt Nam. Anh Thơ được sinh ra tại thị trấn Ninh Giang, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, và quê quán là thị xã Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Cha bà là một nhà nho đỗ tú tài và làm việc cho chính quyền Pháp, dẫn đến việc gia đình phải di chuyển nhiều nơi. Anh Thơ cũng phải thay đổi trường học từ Hải Dương sang Thái Bình rồi lại trở về Bắc Giang mà chưa hoàn tất bậc tiểu học. Ban đầu, bà sử dụng bút danh Hồng Anh, sau đó đổi thành Anh Thơ.
Anh Thơ bắt đầu sáng tác từ khi còn trẻ. Ở tuổi 17, bà đã có tập thơ Bức tranh quê và nhận giải khuyến khích từ Tự Lực Văn Đoàn. Sau đó, bà tham gia viết cho báo Đông Tây và một số tờ báo khác. Dù không được học nhiều tại trường, bà luôn đam mê văn học từ sớm và chịu ảnh hưởng từ gia đình bên ngoại - một gia đình Nho giáo, trong khi cuộc sống của bà lại đầy buồn tẻ và hạn chế trong khuôn khổ gia đình Nho phong. Trong thời kỳ “Thơ mới” sôi động, Anh Thơ tìm đến thơ như một cách giải thoát và khẳng định giá trị của phụ nữ trong xã hội đương thời. Kể từ năm 1931, thơ của bà đã được đăng trên báo. Tập thơ đầu tiên của bà, Bức tranh quê (in 1941), gồm 45 bài, miêu tả cảnh nông thôn qua bốn mùa với sự quan sát tinh tế. Đây là một bước mở đầu cho một xu hướng mới trong phong trào Thơ mới: tập trung vào vẻ đẹp của nông thôn và làm nổi bật sự khao khát sống và yêu đương của một thiếu nữ trong bối cảnh xã hội khó khăn. Trước năm 1945, bà cũng đã viết một tiểu thuyết về thân phận phụ nữ (Răng đen, 1943) và hai tập thơ chung với các tác giả khác (Xưa - 1943 và Hương xuân - 1944).
Bà là một trong những hội viên sáng lập của Hội Nhà văn Việt Nam (1957) và là ủy viên Ban chấp hành trong hai khóa đầu tiên. Từ năm 1971 đến 1975, bà làm biên tập viên cho tạp chí Tác phẩm mới và cũng là ủy viên Thường vụ Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Anh Thơ qua đời tại Hà Nội do bệnh ung thư phổi và được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật vào năm 2007.
Các tác phẩm nổi tiếng: 'Bức tranh quê', 'Xưa'...


4. Hằng Phương (1908 - 1983)
Hằng Phương, một trong những nữ tác giả tiên phong của văn học Việt Nam hiện đại, đã để lại dấu ấn sâu đậm với những tác phẩm thi ca quý giá. Cùng với các nhà thơ nữ nổi bật khác trong phong trào Thơ mới như Anh Thơ, Mộng Tuyết, Vân Đài, Mộng Sơn, Ngân Giang, Thu Hồng, Cẩm Lai, Nguyễn Thị Manh Manh, Hằng Phương (1908 - 1983) được xem là một trong những nhà thơ nữ đầu tiên của thơ Việt Nam hiện đại. Bà có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của thơ Việt giai đoạn 1932 - 1945.
Nhà thơ Hằng Phương, tên thật là Lê Hằng Phương, sinh ra tại Gò Nổi (làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) trong một gia đình trí thức nổi tiếng. Cha bà, nhà văn và nhà nghiên cứu Hán Nôm Sở Cường Lê Dư, là một nhân vật đáng kính. Bà kết hôn với nhà văn Vũ Ngọc Phan năm 1925, và cùng ông vượt qua những biến động của thời gian, đồng hành trong sự nghiệp văn hóa và học thuật, đóng góp cho nền văn học dân tộc những tác phẩm giá trị. Sự hi sinh lặng lẽ của bà chính là động lực lớn giúp Vũ Ngọc Phan hoàn thành những công trình văn học sử nổi bật.
Nữ sĩ Hằng Phương bắt đầu xuất hiện từ rất sớm trong phong trào Thơ mới. Bài thơ đầu tiên của bà, Nhớ con nhỏ Bội Trinh, được đăng trên báo Phụ nữ tân văn năm 1929. Trước năm 1945, bà đã có thơ xuất hiện trên nhiều báo ở cả Nam và Bắc như Đàn bà, Tri tân, Ngày nay, Trung Bắc tân văn, Hà Nội trung văn (ở Hà Nội), Trung lập, Phụ nữ tân văn (ở Sài Gòn). Năm 1943, Hằng Phương cùng Vân Đài, Mộng Tuyết, Anh Thơ đã cho ra mắt tập thơ chung mang tên Hương xuân. Tập thơ này, bao gồm các bài như Tết xưa, Trăng lên, Trên đò suối, Tư cố hương, Bình minh, Tịch mịch, Nhớ mẹ, Chiều hè đứng bên sông, Phật tụng, Thu nhớ quê nhà, được in tại Hà Nội và do nhà Nguyễn Du xuất bản. Trang bìa in rõ 'Hương xuân - những vần thơ hay của mấy nữ thi sĩ Vân Đài – Hằng Phương – Mộng Tuyết – Anh Thơ'. Tập thơ này được coi là tuyển tập thơ nữ đầu tiên bằng chữ quốc ngữ ở Việt Nam. Mặc dù xuất hiện khi phong trào Thơ mới đã qua thời kỳ đỉnh cao, tập thơ Hương xuân vẫn gây tiếng vang lớn trong giới văn học lúc bấy giờ. Nó không chỉ khẳng định sự góp mặt của các nhà thơ nữ mà còn chứng minh tiếng thơ riêng của những nhà thơ nữ tiêu biểu trong dòng chảy của Thơ mới. Sự xuất hiện sớm và vị trí quan trọng của Hằng Phương trong phong trào Thơ mới đã được ghi nhận bởi Hoài Thanh và Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam.
Tác phẩm nổi bật: Hương xuân, Mùa gặt, Hương đất nước, Lòng quê


5. Mộng Tuyết (1914 - 2007)
Nữ thi sĩ Mộng Tuyết (9/1/1914 – 1/7/2007), tên thật là Thái Thị Úc (Út, Sửu); bà còn được biết đến với các bút danh như Hà Tiên Cô, Thất Tiểu Muội, Nàng Út, Bách Thảo Sương, Bân Bân nữ sĩ. Bà sinh ra tại làng Mỹ Đức (Hà Tiên), nay thuộc tỉnh Kiên Giang. Trong thời kỳ Thơ mới (1932 - 1945), bà là một thành viên của nhóm “Hà Tiên tứ tuyệt” cùng với Đông Hồ, Lư Khê, Trúc Hà; là vợ của nhà thơ Đông Hồ; và đã cộng tác với nhiều báo ở cả Nam và Bắc như Nam phong tạp chí, Phụ nữ tân văn, Tiểu thuyết thứ Năm, Hà Nội báo, Đông Tây, Con Ong, Sống, Trung Bắc Chủ nhật, Tri tân…Bà cũng đã đóng góp vào các tập thơ như Lời hoa (1934, in chung), Phấn hương rừng (được Tự lực văn đoàn khen tặng, 1939), và Hương xuân (1943, tập thơ nữ đầu tiên ở Việt Nam, in chung với Vân Đài, Hằng Phương, Anh Thơ)…
Trong thời kỳ Thơ mới, thơ Mộng Tuyết đã được nhiều nhà phê bình nổi tiếng như Mộc Khuê (Kiều Thanh Quế), Hoài Thanh – Hoài Chân, L.H.V (Lê Huy Vân), Ái Lang… quan tâm và giới thiệu. Vào những năm 50, bà cùng chồng là thi sĩ Đông Hồ đã mở nhà sách và nhà xuất bản Bốn Phương, Yiễm Yiễm thư trang tại Sài Gòn. Tháng 3 năm 1969, sau khi chồng qua đời, bà sống ẩn dật tại quận Tân Bình. Sau năm 1995, bà chuyển đến sống tại Nhà lưu niệm thi sĩ Đông Hồ ở thị xã Hà Tiên (nay thuộc Thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang) cho đến khi qua đời. Mộng Tuyết qua đời ngày 1 tháng 7 năm 2007 tại Bệnh viện Đa khoa Kiên Giang.
Tác phẩm nổi bật: 'Phấn hương rừng', 'Hương Xuân'...
