Phân tích bài thơ 'Kiều Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua' được lựa chọn từ những bài văn xuất sắc của học sinh lớp 9 trên toàn quốc, giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn dễ dàng hơn.
5+ Tóm tắt Kiều Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua (hay, súc tích)
Tóm tắt bài thơ 'Kiều Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua' - Mẫu 1
Phần đoạn thơ này ghi lại cảm xúc đau khổ của Nguyệt Nga khi phải đối mặt với nguy hiểm trên con đường cống giặc, đồng thời ca ngợi lòng dũng cảm và trung kiên trong tình yêu của cô.
Nguyệt Nga là một cô gái xinh đẹp với 'Vóc ngọc mình vàng', là thị tì được hầu hạ bởi Kim Liên. Cô sinh ra trong một gia đình quý tộc và có một tấm lòng trung nghĩa cao quý. Trước hành động dũng cảm của Lục Vân Tiên, cô đã diễn đạt:
Cảm thấy rằng cần báo ân cho sự công danh,
Không thể nào hiểu được lòng của anh.
Nguyệt Nga cảm kích trước lòng dũng cảm và lòng nhân ái của người anh hùng xa lạ đã bảo vệ mình khỏi sự tấn công của kẻ cướp. Cô đã ghi nhớ hình ảnh Lục Vân Tiên sâu trong lòng và vẽ bức chân dung của anh, luôn mang theo bên mình. Kiều Công là một cô gái đầy tình cảm và đa dạng. Mối tình đơn phương của cô với Lục Vân Tiên là một biểu hiện của sự đẹp đẽ và lòng trung kiên không biến đổi.
Bị bắt đi vào cống giặc là một thử thách đầy bi kịch. Sau mười ngày, Kiều Nguyệt Nga đã đến ải Đồng, một bên là quê hương của mình, một bên là đất nước của kẻ thù Ô Qua.
Dòng sông rộng lớn 'mênh mông', tiếng sóng vỗ 'đùng đùng', trăng 'vằng vặc', sao 'mờ mờ' xa gần. Bầu trời im lặng như tờ. Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng hình ảnh của sông, nước, trăng, sao để diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều Nguyệt Nga khi đi vào cống; sự yên bình của bên ngoài tương phản với sự cô đơn và đau đớn trong lòng nàng. Sóng vỗ trên dòng sông có lẽ cũng đang vỗ trong tâm trí của cô.
Sau mười ngày đã đến ải Đồng,
Biển rộng mênh mông sóng vỗ đùng đùng.
Mỗi đêm không biết được là đêm nào,
Bóng trăng mờ vằng vặc, sao nhấp nhô.
Trên trời yên bình tựa tờ giấy trắng.
Trước khung cảnh xa lạ, bao la và mờ mịt, Kiều Nguyệt Nga than thở. Cô yêu thương chính bản thân mình cũng như người anh hùng dũng cảm mà cô đã trót mang nặng ân tình sâu đậm; chàng trai hào hiệp mà cô yêu thương sắt son, đã chờ đợi một cách kiên nhẫn:
Than rằng: “Quê hương xa,
Nhưng trong mắt người, con đường về còn xa?”
“Người” mà Kiều Nguyệt Nga nhắc đến là Lục Vân Tiên. Câu hỏi “con đường về còn xa” thể hiện sự đau đớn, cô đơn và sầu tủi của cô.
Khi Nguyễn Du viết về khoảnh khắc Kiều trên sông Tiền Đường, ông dùng hai câu thơ: “Cửa bồng vội mở rèm châu, Trời cao sông rộng một màu bao la”. Ở đây, Nguyễn Đình Chiểu cũng mô tả cảnh tượng đau buồn của Kiều Nguyệt Nga bằng những câu thơ đầy lệ tuôn trào:
Các tướng lĩnh đều đã lâu ngủ say,
Âm thầm, một mình mở bức rèm châu ra.
Người phụ nữ tâm hồn mạnh mẽ tự tiếc thương và tự than thở. Ánh trăng trên cao là bằng chứng cho tình yêu chân thành, cho quyết tâm giữ gìn trái tim của cô gái, bằng cái chết để giữ trọn tấm lòng với người yêu mà cô đã hứa hẹn, đã gìn giữ:
Trăng thanh trải ánh sáng,
Xin gởi chút tình trong trăm năm này về nơi đây.
Anh Vân Tiên có biết không?
Thiếp đã hứa trọn tấm lòng này với anh.
Có bao nhiêu giọt nước mắt đã rơi? Để giữ cho “trái tim trung thành với người yêu” Kiều Nguyệt Nga đã hành động quyết định:
Than thở sau đó vác tượng vai đi,
Nhắm mắt, nhảy xuống dòng nước cuồn cuộn.
Khi xa nhau, vẽ chân dung người yêu để có thể ôm ấp, ngắm nhìn mọi lúc. Khi đối diện khó khăn, hình ảnh người yêu trở thành nơi nương tựa tinh thần. Khi tự tử bằng cách nhảy sông, Kiều Nguyệt Nga vẫn vác tượng Lục Vân Tiên bước sang thế giới bên kia với tình yêu trung thành không phai. Một câu chuyện bi kịch của một phụ nữ xưa, nhưng mỗi người một số phận. Một cuộc sống “hoa hồng nhan”, “đầy thử thách” nhưng không ai giống ai? Sau khi Từ Hải bị giết vì bị lừa bởi Hồ Tôn Hiến, Kiều phải phục vụ rượu và đánh đàn trong bữa tiệc quan, rồi bị ép lấy viên thổ quan, nàng đã nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn:
Giết chồng nhưng lại có chồng mới,
Mặt nào còn xứng đáng tồn tại trong cuộc sống này?
Thôi thì để một thác cuốn đi,
Tình yêu vượt lên trên mọi gian khó.
Kiều phải kết thúc cuộc đời vì nỗi đau và ân hận. Kiều Nguyệt Nga buộc phải nhảy sông để trao đi một chút tình cảm “với trăng nước”, để duy trì “trái tim trung thành” với Lục Vân Tiên. Tinh thần kiên cường của Kiều Nguyệt Nga tỏa sáng như ánh trăng. Hành động tự tử của Kiều Nguyệt Nga là sự phản kháng với mọi kế sách tàn độc, gian xảo của Thái Sư, một quan trọng trong triều đình.
Đoạn thơ đã phản ánh một cách tinh tế kỹ thuật vẽ cảnh tượng lãng mạn của Nguyễn Đình Chiểu. Sự kết hợp hoàn hảo giữa mô tả, sự chia sẻ bản thân và cảm xúc riêng tư đã thể hiện rõ nét nét tính cách của Kiều Nguyệt Nga: trung thành, kiên cường và tôn trọng bản thân.
Nhân vật Kiều Nguyệt Nga là biểu tượng của tinh thần lương thiện theo Nguyễn Đình Chiểu, người đã tôn vinh sự thanh cao của một người phụ nữ:
Phụ nữ trong thời đại xưa giữ vững phẩm giá của mình.
Giá trị của người phụ nữ trong xã hội cổ đại được thể hiện qua đoạn thơ này vẫn khiến lòng người xúc động.
Phân tích cuộc đời Kiều Nguyệt Nga đối mặt với kẻ thù Ô Qua - mẫu 2
Mười ngày trôi qua, đã đến chốn ải Đồng,
Biển rộng mênh mang, sóng vỗ dồn dập.
Đêm nào cũng giống nhau, không biết đêm này là đêm mấy,
Bóng trăng vàng tỏa sáng, ánh sao nhạt nhòa.
Không gian yên bình như trang giấy trắng,
Nguyệt Nga nhớ về mái tóc mượt mà đã phai màu.
Than rằng: “Ở xa quê hương kia nơi,
Cảnh này thấy đâu, người còn trở về đâu?”
Quân lính đều đã ngủ say từ lâu,
Một mình lặng lẽ mở bức rèm châu:
“Dưới ánh trăng thanh đã vắng lặng,
Hai trăm năm xin gửi chút tình về đây.
Lục Vân Tiên ơi, anh có nghe không?
Thiếp thề trọn một tấm lòng trung thành với chàng”.
Than thở sau đó vác tượng vai đi,
Nhìn thấy dòng nước chảy về phía trước, Kiều Nguyệt Nga liền nhảy ngay.
Không thể mua chuộc, ép buộc Kiều Nguyệt Nga lấy con trai của quan thái sư, kẻ trả thù một cách xảo quyệt và hèn hạ. Ăn không được thì phải đạp đổ. Kiều Nguyệt Nga trở thành nạn nhân của âm mưu. Người đẹp biến thành cống phẩm dâng chúa Ô Qua để giúp đỡ binh lính chống giặc.
Đoạn thơ ghi lại nỗi đau khổ trong lòng của Nguyệt Nga khi đi cống giặc và ca ngợi tấm lòng son sắt, trung thành trong tình yêu của nàng.
Nguyệt Nga là một cô gái xinh đẹp “Vóc ngọc mình vàng” được thị tì Kim Liên hầu hạ. Nàng thuộc tầng lớp quý tộc, là “con quan của tri phủ ở miền Hà Khê”. Nguyệt Nga là người có lòng trung hiếu; trước hành động cao cả của Lục Vân Tiên, nàng đã nói:
Nhấn mạnh việc trả thù đúng đắn, báo đáp công ơn,
Vì sao phải làm giả dối với tấm lòng của bạn.
Ngưỡng mộ trước sự dũng cảm và cao thượng của chàng trai xa lạ đã giúp cô thoát khỏi kẻ cướp, Kiều Nguyệt Nga đã khắc sâu hình ảnh Lục Vân Tiên trong trái tim mình, và nàng đã vẽ bức hình của chàng, luôn mang theo bên mình. Con gái của Kiều Công thật sự là một cô gái nhiều cảm xúc, nhiều tình cảm. Mối tình đơn phương đó thật đẹp và trung thành.
Bị bắt đi cống giặc là một thử thách đầy bi kịch. Đã mười ngày trôi qua, Kiều Nguyệt Nga đã đến ải Đồng, phía này là quê hương của nàng, phía kia là xứ người, là đất của giặc Ô Qua.
Dòng sông rộng lớn “mênh mông”, tiếng sóng vỗ “đùng đùng”, trăng “vằng vặc”, sao “mờ mờ” gần xa. Cả bầu trời “lặng lẽ như tờ”. Nguyễn Đinh Chiểu đã sử dụng cảnh sông, nước, trăng, sao để diễn tả tâm trạng cô đơn của người đẹp trên đường đi cống; sử dụng tĩnh để mô tả động, trời thì “lặng lẽ” nhưng trong lòng kẻ bạc mệnh thì đau đớn và cô đơn. Sóng vỗ trên sông hay trong lòng nàng?
Mười ngày đã trôi qua, đã đến chốn ải Đồng,
Biển rộng mênh mông, sóng vỗ dồn dập đùng đùng.
Mỗi đêm đều giống nhau, không biết hôm nay là đêm mấy,
Bóng trăng tỏa sáng, ánh sao nhạt nhòa.
Trời lặng lẽ như tờ giấy.
Trước cảnh vật xa lạ, bao la và mịt mờ ấy, Kiều Nguyệt Nga trải lòng. Yêu mình, yêu người anh hùng mà đã chịu nhiều ân nặng; người đàn ông dũng cảm mà nàng đã yêu thương sâu sắc, đã trung thành chờ đợi:
Than rằng: “Nơi xa kia non nước,
Trước cảnh vật ấy, người còn trở về đâu?
“Người” mà Kiều Nguyệt Nga nhắc đến là Lục Vân Tiên. Câu hỏi “người còn trở về đâu” chứa đựng tâm trạng đau đớn, cô đơn và buồn bã.
Nếu Nguyễn Du đã sử dụng hai câu thơ để miêu tả khoảnh khắc quyết định tự tử của Kiều trên sông Tiền Đường: “Cửa bồng vội mở rèm châu- Trời cao sông rộng một màu bao la” thì ở đây, Nguyễn Đình Chiểu cũng đã diễn đạt phút giây đau đớn ấy của Kiều Nguyệt Nga bằng những câu thơ đầy nước mắt:
Tất cả quân hầu đã ngủ say,
Lẻn ra mở màn rèm đầy châu, một mình.
Giai nhân nghĩa bạc tự cảm thương và tự than thở. Ánh trăng trên cao là bằng chứng cho lời thề trung thành, cho quyết tâm “giữ ngọc gìn vàng” của cô gái, 'thúc thủ' bằng cái chết để giữ trọn “một tấm lòng ngay” với người yêu mà cô đã từng tôn thờ, đã từng ôm ấp:
Vắng người, ánh trăng thanh vẫn hiện hình,
Trăm năm sau, xin gửi chút tình về đây.
Anh Vân Tiên hỡi, anh có biết không?
Thiếp thề với một trái tim trung thành với chàng.
Bao nhiêu giọt nước mắt đã rơi xuống? Để giữ trọn “một tấm lòng ngay với chàng” Kiều Nguyệt Nga đã hành động một cách quyết định:
Than thở xong, cầm tượng vai đi,
Nhìn dòng nước chảy về phía trước, nhảy ngay.
Khi xa cách, vẽ chân dung người yêu để sớm tối được ôm ấp, ngắm nhìn. Khi sống trong những khó khăn, hình ảnh của người yêu là nơi nương tựa tinh thần. Khi nhảy xuống sông tự tử, Kiều Nguyệt Nga vẫn mang theo tượng Lục Vân Tiên đi vào thế giới bên kia với lời nguyền trung thành. Đây cũng là câu chuyện bi kịch của các giai nhân xưa, nhưng mỗi người có một số phận khác nhau. Cũng là “phận hồng nhan”, “chốn đoạn trường” nhưng không ai giống ai. Sau khi bị giết vì bị lừa dối bởi Hồ Tôn Hiến, Kiều phải làm nô lệ đánh đàn trong bữa tiệc quan, rồi bị ép lấy viên thổ quan, cuối cùng nàng đã tự vẫn bằng cách nhảy xuống sông Tiền Đường:
Giết chồng nhưng lại kết hôn lại,
Mặt nào còn đáng sống trong cuộc đời này?
Thôi thì một phen rơi xuống thác,
Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông.
Kiều phải tự tử vì đau khổ và ân hận. Kiều Nguyệt Nga buộc phải nhảy xuống sông để gửi chút tình với trăng nước, để giữ tròn “tấm lòng ngay” với Lục Vân Tiên. Tiết hạnh của Kiều Nguyệt Nga vững vàng như trăng sao. Hành động tự tử của Kiều Nguyệt Nga là để thủ tiết với Lục Vân Tiên, là để đối mặt mọi âm mưu hèn hạ, xảo quyệt của tên Thái Sư, vị quan tham lam đầu triều.
Đoạn thơ đã thể hiện bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Đình Chiểu. Sự kết hợp hài hòa giữa miêu tả, tự sự và độc thoại trữ tình đã làm nổi bật tính cách Kiều Nguyệt Nga: son sắt, trung thành và tiết hạnh.
Nhân vật Kiều Nguyệt Nga là một hình mẫu nhân văn của Nguyễn Đình Chiểu, đã ca tụng tấm gương tiết hạnh của một phụ nữ quý tộc:
Con gái thời xưa trau trồng phẩm giá là điều quan trọng.
Đoạn thơ này vẫn làm ta xúc động khi thể hiện phẩm giá của phụ nữ trong xã hội xưa.
Phân tích Kiều Nguyệt Nga đi cống giặc Ô Qua - mẫu 3
Không thể mua chuộc, ép buộc Kiều Nguyệt Nga kết hôn với con trai của quan thái sư, động lực của quan thái sư là trả thù một cách tinh vi, đê tiện. Khi không thể đạt được, hắn đã phá hoại. Kiều Nguyệt Nga trở thành nạn nhân của một cuộc âm mưu. Người đẹp trở thành cống phẩm để bảo vệ đất nước khỏi giặc địch.
Đoạn thơ này ghi lại tâm trạng đau khổ của Nguyệt Nga trên đường đi cống giặc và ca ngợi lòng son sắt thủy chung trong tình yêu của nàng.
Nguyệt Nga là một cô gái xinh đẹp 'Vóc ngọc mình vàng' có thị tì Kim Liên phục vụ. Nàng sinh ra trong một gia đình quý tộc, là 'con quan tri phủ ở miền Hà Khê'. Nguyệt Nga là người giàu lòng trung nghĩa; khi Lục Vân Tiên thể hiện lòng nghĩa hiệp sĩ, nàng đã nói:
' Hận kẻ gian ác, thưởng đấng công bằng,
Làm gì để phụ bạc đến với người?'
Ngưỡng mộ trước hành động dũng cảm và cao thượng của một người đàn ông xa lạ vừa đánh cướp để cứu nàng, Kiều Nguyệt Nga đã khắc sâu hình ảnh Lục Vân Tiên trong trái tim, và nàng đã vẽ bức hình chàng, luôn mang theo. Con gái của Kiều Công thật là một cô gái đa cảm, đa tình. Tình cảm đơn phương ấy thật đẹp và trung thành.
Bị bắt đi làm công việc cống giặc là một thử thách đầy bi kịch. Đã mười ngày trôi qua, Kiều Nguyệt Nga đã đến ải Đồng, bên này là quê hương của nàng, bên kia là đất của kẻ thù Ô Qua.
Dòng sông rộng lớn 'mênh mông', tiếng sóng vỗ 'đùng đùng', trăng 'vằng vặc', sao 'mờ mờ' gần xa. Cả bầu trời 'lặng lẽ như tờ giấy'. Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng cảnh sông, nước, trăng, sao để miêu tả tâm trạng cô đơn của người đẹp trên đường đi cống; sử dụng tĩnh để diễn đạt động, trời 'lặng lẽ' nhưng trong lòng người bất hạnh thì quặn đau và cô đơn. Sóng vỗ trên sông hay đang vỗ trong lòng nàng?
' Mười ngày đã tới ải Đồng,
Minh mông biển rộng đùng đùng sóng xao.
Đêm nay chẳng biết đêm nào,
Bóng trăng vằng vặc bóng sao mờ mờ.
Trên trời lặng lẽ như tờ.'
Trước khung cảnh xa lạ, bao la và mịt mờ ấy, Kiều Nguyệt Nga than thở. Cô vừa lo lắng cho bản thân, vừa lo lắng cho người anh hùng mà cô đã lòng biết ơn sâu sắc; chàng trai dũng cảm và hào hiệp mà cô yêu mến như một bậc thầy, đã kiên nhẫn chờ đợi:
' Than rằng: 'Nếu non cao núi, Vẻ đẹp thế đó, Người ấy còn trở về đâu ?'
'Người' mà Kiều Nguyệt Nga nhắc đến chính là Lục Vân Tiên. Câu hỏi 'người còn về đâu' chứa đựng tâm trạng đau đớn, cô đơn và buồn rầu.
Nếu như Nguyễn Du sử dụng hai câu tả cảnh vật giờ phút quyết định Kiều tự tử trên sông Tiền Đường: 'Cửa sông mở cốt rèm châu - Trời cao sông rộng một màu bao la' thì ở đây, Nguyễn Đình Chiểu cũng đã diễn tả khoảnh khắc đau buồn ấy của Kiều Nguyệt Nga bằng những dòng thơ ứa lệ:
' Quân hầu đã ngủ say,
Lặng nhẹ mở rèm châu một mình.'
Giai nhân tràn đầy nỗi buồn và cô đơn. Ánh trăng trên bầu trời cao là bằng chứng cho lời thề của tình yêu thủy chung, cho sự quyết tâm 'bảo vệ ngọc quý' của cô gái, 'thề dành lòng' bằng cái chết để giữ trọn vẹn 'một trái tim chân thành' với người yêu mà cô đã từng tôn thờ, đã từng trân trọng:
' Vắng bóng người, trăng thanh sáng,
Hai mươi năm gửi chút tình này đây.
Vân Tiên ơi, anh có biết không?
Thiếp thề lòng chân thành với anh.'
Bao nhiêu giọt nước mắt đã rơi xuống? Để giữ trọn 'trái tim chân thành với người kia' Kiều Nguyệt Nga đã hành động một cách quả quyết:
' Thương rồi đeo tượng vai mang,
Nhắm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay.'
Khi xa cách, cô vẽ hình bóng người yêu để mong sớm tối được ôm ấp, ngắm nhìn. Khi gặp khó khăn, hình ảnh người yêu là điểm tựa tinh thần. Khi nhảy xuống sông tự tử, Kiều Nguyệt Nga vẫn mang theo hình tượng Lục Vân Tiên vượt sông vào thế giới bên kia với lời thề chân thành. Đây là bi kịch của một người phụ nữ xưa, nhưng mỗi người lại khác nhau. Đây là 'số phận đỏ hồng', 'thử thách cuộc đời' nhưng không ai giống ai?
' Giết chồng rồi lại lấy chồng,
Mặt nào còn xứng đáng trong cuộc sống?
Đành rồi, đưa tấm lòng cho trời dưới sông.'
Kiều phải tự tử vì đau khổ và ân hận. Kiều Nguyệt Nga nhảy xuống sông để 'gửi một chút tình' với trăng nước, để giữ trọn 'trái tim chân thành' với Lục Vân Tiên. Tiết hạnh của Kiều Nguyệt Nga giống như ánh trăng sao. Hành động tự tử của cô là để giữ trọn tấm lòng chân thành với Lục Vân Tiên, là để đối phó với mọi mưu mô hèn hạ, xảo quyệt của Thái Sư, một vị quan lớn đầu triều.
Đoạn thơ này thể hiện bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Đình Chiểu. Sự pha trộn hài hòa giữa miêu tả, tự sự và đối thoại trữ tình đã nổi bật tính cách của Kiều Nguyệt Nga: chân thành, trung kiên và kiên nhẫn.
Nhân vật Kiều Nguyệt Nga là một hình mẫu lý tưởng trong tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu, đã tôn vinh tấm gương tiết hạnh của một người phụ nữ:
'Con gái đạo đức là người nhân hậu.'
Giá trị của phụ nữ trong xã hội xưa được thể hiện qua đoạn thơ này vẫn gợi lên những cảm xúc sâu xa.