Tổng hợp 50+ Nhận xét về bài thơ Bếp lửa hay và được chọn lọc từ các bài văn hay của học sinh lớp 9 trên khắp cả nước, giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để hiểu và viết nhận xét về bài thơ Bếp lửa của tác giả Bằng Việt một cách dễ dàng hơn.
50+ Nhận xét về bài thơ Bếp lửa
Dàn ý Nhận xét về bài thơ Bếp lửa (mẫu 1)
1. Mở đầu:
Giới thiệu về nguồn gốc của tác phẩm: Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt được viết vào năm 1963 khi tác giả đang du học tại Nga, trong bối cảnh đóng giá của mùa đông, trong tâm trạng nhớ nhà, tác giả đã sáng tác ra bài thơ với những cảm xúc chân thành.
2. Nội dung chính:
- Ngay từ khổ thơ đầu tiên, hình ảnh chiếc bếp lửa hiện lên vừa xa vừa gần, vừa thực vừa hư: “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm”. Đó như là sự khắc khoải của tác giả về một miền ký ức dù đã bị thời gian vùi lấp, nhưng chưa bao giờ lãng quên mà chỉ chờ cơ hội để quay trở về đánh thức nỗi nhớ trong lòng tác giả.
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
- Hình ảnh người bà như bà tiên trong chuyện cổ tích hiện lên đầy rõ nét chân thực chứ không ẩn hiện, hư thực như chiếc bếp lửa. Hình ảnh người bà thân thương luôn chở che cho con cháu được tác giả nhắc tới đầy cảm xúc bằng những lời lẽ hết sức mộc mạc, giản dị.
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”
- Trong những câu thơ tiếp theo, tác giả đã vẽ rõ nét hơn bức tranh về quê hương, về vùng quê nơi có những người thân yêu của mình. Trong đó tác giả nhắc tới mùi khói, cái mùi thơm ngai ngái mà bất kỳ ai đã từng đun cơm bằng bếp lửa cháy bằng rơm rạ ở những vùng quê sau mùa gặt đều nhớ mãi.
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”
- Những lời thơ như thấm đẫm những dòng nước mắt chứa đựng biết bao tâm sự của người cháu muốn nói với bà về quá khứ bi ai nhưng cũng nhiều kỷ niệm, khắc cốt ghi tâm.
- Tiếng tu hú vang vọng trong những vần thơ làm cho lời thơ bỗng nhiên vang lên như tiếng réo gọi từ quá khứ, gợi về. Tiếng tu hú hiện lên làm nhịp thơ trở nên nhanh hơn, bồi hồi, xúc động hơn, nó như nhịp tim của tác giả đang loạn nhịp khi nhớ về một miền quê ký ức.
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở với bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi, chẳng đến ở với bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!”
- Ở những câu thơ này hình ảnh người bà và cháu ở bên nhau như những kỷ niệm êm đềm, nhưng cũng đầy hiu quạnh.
- Trong cuộc kháng chiến cam go, khốc liệt, những người có sức khỏe thường đi xa để làm ăn hoặc tham gia kháng chiến. Ở lại làng quê chỉ còn người già và trẻ nhỏ, những thành phần yếu ớt, tự nương tựa vào nhau để sống.
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
- Trong khổ thơ này tác giả đã khéo léo hòa nỗi đau riêng của mình, của cá nhân, của một gia đình, một ngôi làng vào nỗi đau chung của toàn dân tộc.
- Qua những câu thơ “giặc đốt làng” tác giả đã tố cáo tội ác của giặc khi chà đạp lên những vùng quê Việt Nam, nơi chỉ có toàn người già, trẻ nhỏ không có sức chống cự nhưng chúng vẫn không tha.
- Tấm lòng của bà không thể nào diễn tả hết được sự kiên cường, hy sinh quả cảm.
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn sẵn sàng,
Một ngọn lửa chứa niềm tin bền vững…”.
- Hình ảnh bếp lửa và người bà mang lại sự ấm áp, kiên cường, không ngại hy sinh. Ở những câu cuối, một ngọn lửa chứa niềm tin bền vững.
“Giờ cháu đã đi xa.
Có khói bốn phía trỗi, tương ứng
Có lửa ngọn trăm nhà, niềm vui khắp nơi
Nhưng vẫn không lúc nào quên nhắc nhở
Mỗi sáng, liệu bà đã nhen lửa chưa?”
- Trong khổ thơ cuối, tác giả trở về với hiện thực sau khi đã đi xa bà, xa quê hương. Dù được hưởng lửa ngọn trăm nhà, niềm vui khắp nơi, nhưng không lúc nào hình ảnh người bà và chiếc bếp lửa thân thương không rời xa tâm trí tác giả.
3. Kết bài
Bài thơ Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt là một bài thơ hay của văn học Việt Nam. Đọc xong bài thơ, mỗi người chúng ta đều muốn trở về nhà, sà vào lòng bà để được nghe bà hát ru trong những trưa hè oi ả.
Ý nghĩa Cảm nhận bài thơ Bếp lửa (mẫu 2)
1. Mở bài
Giới thiệu về bài thơ Bếp lửa
2. Thân bài
- Hình ảnh bếp lửa chờn vờn, âm thầm gợi nhớ về người bà luôn nhóm lửa trong lòng tác giả
- Bà đã trải qua nhiều khó khăn, vất vả trong suốt những năm tháng
- Bếp lửa gắn liền với ký ức tuổi thơ của tôi bên bà:
8 năm cùng bà nhóm bếp, mùi khói nhẹ nhàng, làm cay mắt, cay mũi
Bà dạy cháu làm, chăm sóc và dạy dỗ cháu lớn lên mỗi ngày
Chứng kiến ba mẹ chăm sóc cháu, dạy dỗ cháu trưởng thành từng ngày
Tiếng tu hú vang lên, khao khát được quay về bên bà
- Tình cảm của cháu dành cho bà ở xa:
Dù ở nơi xa có tiện nghi, đầy đủ, nhưng cháu không thể quên những năm tháng vất vả bên bà xưa.
Nỗi nhớ về bà vẫn luôn hiện hữu trong tim cháu mỗi ngày, mỗi buổi sáng.
Nỗi nhớ quê hương đất nước trôi vào nỗi nhớ nhà.
3. Phản hồi
Ý kiến về bài thơ
Cảm nhận bài thơ Bếp lửa (mẫu 1)
Bằng Việt, một nhà thơ nổi tiếng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đã để lại ấn tượng sâu đậm với tác phẩm văn học của mình. Bài thơ “Bếp lửa” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông, khắc họa lại những ký ức về người bà thân yêu trong quê nhà.
Bếp lửa là biểu tượng của những kỷ niệm không phai, vẹn nguyên về người bà trong trí tưởng tượng của nhà thơ. Mỗi khi nhắc đến bếp lửa, hình ảnh của người bà hiền hòa lại hiện về trong tâm trí:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp ấm, đong đầy tình cảm
Cháu yêu quý bà biết bao nắng mưa”
Mở đầu bài thơ, hình ảnh của “bếp lửa” được nhắc lại hai lần, nhấn mạnh vị trí quan trọng của nó trong tâm trí của người cháu. Từ 'chờn vờn' như là hình tượng của ngọn lửa, cũng chính là ký ức ùa về như ngọn lửa ấm áp đầy cảm xúc của người cháu. Nhớ về hình ảnh của bếp lửa là nhớ về bàn tay tận tụy của người bà, chăm sóc, bảo vệ, lo lắng cho đứa cháu, và tạo ra một tình cảm thiêng liêng, là kết quả của những hình ảnh đó:
“Cháu yêu quý bà biết bao nắng mưa”
Cụm từ “biết bao nắng mưa” gợi nhớ đến thành ngữ “mưa nắng dãi dầu”, thể hiện sự gian khổ mà người bà phải chịu đựng để lo lắng, chăm sóc cho gia đình. Bài thơ tái hiện lại cả một quãng thời gian thơ ấu, vất vả, khó khăn bên người bà, trong đó có cả những năm đói kém còn lại từ năm 1945:
“Năm đó là năm cơ cực, cơ cực
Bố phải đi làm, lương phải kiếm chăng”
Trong thời kỳ đó, tuổi thơ của người cháu liên kết chặt chẽ với 8 năm kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ. Có những lúc “Giặc đốt làng, đốt cháy hết sạch, đốt rụi”, trong khi mẹ và cha phải đi làm việc xa, đứa cháu ngây thơ chỉ biết sống trong vòng tay yêu thương, bảo vệ của người bà. “Bà dạy cháu nghe” những câu chuyện về quê hương, “bà dạy cháu học” mỗi đêm trong làng vắng tiếng bom. Tất cả những công việc nhỏ nhặt, tình thương nhỏ bé trong cuộc sống được đặt lên vai của người bà kiên cường và mạnh mẽ hơn bao giờ hết:
“Bố ở chiến trường, bố còn việc bố
Mày viết thư về nhà, nhưng đừng kể những chuyện phiền muộn này kia
Hãy nói rằng nhà vẫn yên bình”
Câu nói đó của bà đã ở lại trong tâm trí của tác giả suốt những năm tháng dài mà không thể nào quên được. Đó là biểu hiện của sự hy sinh lớn lao của những người mẹ. Hình ảnh của bà luôn đậm chất ấm áp và tình cảm, và mối quan hệ giữa hai bà cháu luôn là sâu nặng không thể nào phai nhạt:
“Rồi sớm rồi chiều, bếp lửa lại sáng lên do bà châm”
Một ngọn lửa, trái tim bà luôn sẵn lòng
Một ngọn lửa chứa đựng niềm tin kiên định”
Từ “bếp lửa” đã được cụ thể ở trên cho đến hai dòng dưới, nhà thơ sử dụng từ ngọn lửa mà không nhắc lại “bếp lửa”. “Ngọn lửa” ở đây mang một ý nghĩa rộng lớn, sâu xa hơn: Đó là ngọn lửa của hy vọng, của sức sống bền bỉ của tình bà cháu, tình quê hương nồng đậm. Bếp lửa chỉ làm ấm lòng câu thơ nhưng hình ảnh “ngọn lửa” tỏa sáng từng dòng thơ lung linh hình ảnh của bà làm ấm lòng độc giả. Hình ảnh bà là hình ảnh người nhóm lửa, giữ lửa và đặc biệt còn là người truyền lửa, ngọn lửa thiêng của sự sống niềm tin cho các thế hệ kế tiếp. Tác giả đã nhấn mạnh những điều ấy với sự quý trọng và lòng biết ơn đối với bà. Bởi nói đến bà là nói đến những khổ cực, những tình cảm thiêng liêng:
“Đời bà biết bao nắng mưa cay đắng”
…
Nhóm bếp lửa ấm áp, đậm đà tình yêu thương”
Một nhóm lửa, trái tim bà luôn sẵn lòng
Một nhóm lửa chứa đựng niềm tin kiên định”
Nhà thơ đã nhắc đến hình ảnh bếp lửa và người bà 10 lần. Nhớ về bà là nhớ về hình ảnh bếp lửa, nói về hình ảnh bếp lửa là nhớ ngay đến bà, bởi hai hình ảnh này liên kết với nhau qua những thời gian khó khăn. Bếp lửa đại diện cho cuộc sống của bà với vẻ đẹp bền bỉ, kiên nhẫn và sự hy sinh. Bếp lửa đã thắp sáng hy vọng, sức mạnh bền bỉ và tình cảm bền vững của gia đình và quê hương. Hình ảnh bếp lửa không chỉ mang ý nghĩa thực tế mà còn mang ý nghĩa tượng trưng, gần gũi và tự hào, khiến Bằng Việt phải thốt lên:
“Ôi kỳ diệu và thiêng liêng – bếp lửa”.
Quay lại hiện thực, nhà thơ đang ở nơi “đất xa lạ” trên hành trình khám phá con đường về phía quê hương, nhất định không trải qua khó khăn của “những năm đói khổ cực” nhưng hình ảnh người bà tận tụy với bếp lửa sớm hôm vẫn luôn hiện hữu vì đó là quá khứ, là tuổi thơ, là kỷ niệm về những ngày gian khổ cùng tình thương bền vững:
Câu hỏi dịu dàng kèm theo sự im lặng tinh tế đã chấm dứt bài thơ, nhưng lại mở ra hàng loạt cảm xúc trong lòng người đọc về những kỷ niệm yêu thương và sâu sắc về mối quan hệ bà cháu. Bài thơ đã hoà quyện mạnh mẽ giữa cảm xúc và mô tả, kể chuyện bản thân và phê phán, thông qua việc tạo ra hình ảnh bếp lửa liên quan đến hình ảnh của người bà, làm nổi bật mọi kỷ niệm, cảm xúc và suy tư về tình cảm gia đình.
Qua từng dòng văn trong bài thơ, hình ảnh người bà hiện ra rực rỡ, đẹp đẽ, thực sự quý trọng và yêu thương trong lòng tác giả. Hình ảnh này liên kết với bếp lửa bằng một vẻ đẹp giản dị trong cuộc sống hàng ngày. Bếp lửa gợi lên những kỷ niệm ấm áp, đậm đà mà rất thiêng liêng, nuôi dưỡng tâm hồn suốt đời.
Cảm nhận về bài thơ Bếp lửa (mẫu 2)
Khi trưởng thành, mỗi người đều nhớ về những kỷ niệm tuổi thơ của mình. Có thể là kỷ niệm với người mẹ yêu quý, người cha kính trọng, hoặc là với người bà trân quý. Đối với Bằng Việt, kỷ niệm đáng nhớ nhất của tuổi thơ là hình ảnh người bà chăm sóc sớm hôm. Khi ở bên bà, hình ảnh bếp lửa luôn hiện diện. Nó đã là nguồn cảm hứng để tác giả nhớ về bà và viết về bà thông qua bài thơ chứa đựng tình cảm sâu sắc: Bếp lửa.
Khởi đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm.
Ba từ “một bếp lửa” đã trở thành nhạc trưởng, gợi lên một hình ảnh quen thuộc trong mỗi gia đình ở làng quê Việt Nam. Hình ảnh “bếp lửa” thật ấm áp giữa cái lạnh của sương sớm. Đó không chỉ là ngọn lửa mới nhóm lên trong sương mà còn là ngọn lửa trong tâm trí của người chầu ở nơi xa xôi. Hình ảnh bếp lửa thân quen với biết bao tình cảm ấp ủ nồng đượm. Nó đã đánh thức sự chăm sóc, lo lắng, che chở cho đứa cháu nhỏ của người bà. Từ hình ảnh bếp lửa, người cháu lại nhớ về bà với nỗi thương nhớ:
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Câu thơ chứa từ “thương”, thể hiện tình cảm sâu sắc của người cháu dành cho bà. Bà làm việc cật lực, im lặng trong hoàn cảnh “biết mấy nắng mưa”, không đếm được bao nhiêu cơn mưa nắng khổ cực đã qua trong cuộc đời bà. Cháu yêu quý người bà, bởi khi nhớ đến bà, trong trí nhớ của cháu hiện lên những khó khăn khi còn nhỏ!
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy.
Nạn đói năm 1945 đã khiến nhiều người phải chịu đựng cảnh khốn khổ, phải đối diện với tử thần. Năm ấy, Bằng Việt mới lên bốn tuổi. Sống trong hoàn cảnh đó, làm sao có thể tránh khỏi những khó khăn. Từ “mòn mỏi” kết hợp với từ “đói” đã tái hiện cảm giác nạn đói kéo dài và làm kiệt sức con người và gia súc. Kỷ niệm đáng nhớ nhất đối với người cháu là khói từ bếp, là luồng khói được hun từ ngọn lửa quen thuộc:
Lên bốn tuổi, cháu đã quen với mùi khói...
Chỉ nhớ mùi khói làm mắt cháu nhức
Nhớ lại, mũi còn cay từng hơi thở.
Giờ này, khi nghĩ lại, cháu như đang sống lại những năm tháng ấy. Câu thơ ấy truyền cảm mạnh mẽ, khiến người đọc cảm nhận được cảm giác cay cay trong mũi. Tuổi thơ trôi qua trong cảnh cả quê hương đều bị chiến tranh tàn phá. Nhưng hai bà cháu vẫn được an ủi bởi tình cảm của hàng xóm láng giềng. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, khi nhiều người lớn tham gia chiến đấu, chỉ có hai bà cháu còn lại ở nhà:
Mẹ và cha bận công tác không thể về.
Vì vậy, chỉ có hai bà cháu cùng nhau ở lại. Bà kể chuyện về Huế cho cháu nghe, bà dạy cháu học, chỉ có cháu làm. Mọi việc đều do bà lo vì bố mẹ bận công tác không về. Bà là người cháu có thể dựa dẫm, và đứa cháu ngoan ngoãn là niềm vui của bà. Kí ức của tuổi thơ gắn liền với hình ảnh “bếp lửa”, vì “lên bốn tuổi, cháu đã quen với mùi khói', và phải chịu đựng sớm. “Cháu và bà cùng nhóm lửa” suốt tám năm. Tám năm không phải là thời gian dài, nhưng nó dường như kéo dài vô tận trong lòng cháu. Do đó, khi nhớ lại tuổi thơ, cháu chỉ 'nhớ mùi khói làm mắt cháu đau'. Cảm giác ấy thực và xúc động. Khói từ bếp của ngày xưa dường như bay đến hiện tại, khiến mũi cay. Ngày xưa mũi cay vì khói, giờ đây mũi cay khi nhớ lại tuổi thơ và vì nhớ đến người bà.
Người cháu nghĩ về bà và nhớ lại quê hương, nhớ lại tiếng chim tu hú. “Tiếng chim tu hú” được nhắc lại bốn lần, tiếng kêu đó xa xôi trên đồng như là sự đồng cảm với cuộc sống khó khăn trong chiến tranh của hai bà cháu. Và trong những câu chuyện của bà, có cả “tiếng chim tu hú đến mức cảm động”. Tâm hồn trẻ thơ của cháu đang phát ra mong muốn:
Chim tu hú ơi! Sao không đến bên bà
Chỉ kêu mãi trên những cánh đồng xa
Ký ức tuổi thơ đã được đánh thức, với hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm và cả quê hương.
Khi hồi tưởng về tuổi thơ, người cháu suy ngẫm về cuộc sống của bà. Bà đã hy sinh cả đời để nhóm lửa và giữ cho ngọn lửa luôn ấm áp, toả sáng trong gia đình:
Cuộc đời bà biết bao nắng mưa
Mấy chục năm qua cho đến tận bây giờ
Thói quen dậy sớm vẫn còn với bà
Bếp lửa luôn ấm áp tình thương.
Bà là người phụ nữ tận tâm, giàu lòng hi sinh. Bếp lửa của bà không chỉ được nhen bằng rơm rạ mỗi sớm mai mà còn được nhen lên bằng ngọn lửa trong tâm hồn bà, ngọn lửa của sự sống, tình yêu thương và niềm tin. Từ bếp lửa đơn giản, quen thuộc, người cháu nhận ra những điều “kỳ diệu” và “thiêng liêng”. Ngọn lửa nhen lên từ bàn tay của bà đã nuôi dưỡng tuổi thơ của cháu: “Nhen lên cả tâm hồn tuổi thơ”. Bà im lặng chịu đựng, hy sinh vì: “Bố ở chiến trường, bố còn việc phải lo”. Vì vậy, đứa cháu cảm nhận được trong bếp lửa đơn giản mà thân thuộc có sự hy sinh, gian lao của người bà.
Đây là niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Chung vui với nồi xôi gạo mới sẻ
Trong bài thơ, có đến mười lần người bà hiện diện cùng bếp lửa với vẻ đẹp tận tâm, hy sinh, yêu thương con cháu. Và từ “bếp lửa”, tác giả đã đi đến hình ảnh “ngọn lửa”:
Sáng chiều bếp lửa bà vẫn nhen
Ngọn lửa, trong lòng bà luôn rực sáng
Ngọn lửa chứa niềm tin mãnh liệt...
Người cháu, nay đã trưởng thành và đi xa. Trước mắt là những “niềm vui vô số”, “có khói bao la”, “có lửa ở khắp nơi”, một thế giới rộng lớn với những trải nghiệm mới. Nhưng đứa cháu vẫn luôn tự hỏi: “Sớm mai này bà đã nhóm lửa chưa?”. Mỗi ngày, câu hỏi “Sớm mai này” đều là một lời nhớ về bà, Hình ảnh người bà luôn là nguồn sưởi ấm và động viên cháu trên hành trình của mình.
Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng “bếp lửa” với ý nghĩa thực tế và tượng trưng. Giọng điệu tâm tình trầm lắng, giàu suy tư đã gây ấn tượng mạnh mẽ. Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt như một triết lí ẩn chứa. Những kỷ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ đáng được quý trọng và chúng sẽ động viên con người trong cuộc hành trình đời.
Cảm nhận về bài thơ Bếp lửa (mẫu 3)
Trong cuộc sống, có những ký ức và hoài niệm khiến chúng ta luôn tìm về, qua những khó khăn, biến cố mới nhận ra giá trị của những điều nhỏ nhặt xung quanh, đó là tuổi thơ, là bước đệm vào đời. Với Bằng Việt, “Bếp lửa” là ký ức, là kho báu trong tâm trí muốn giữ lại. Hình ảnh “bếp lửa” gợi lại những kỷ niệm về những năm tháng sống bên bà, nhóm lửa ấm áp của tuổi thơ, làm rung động lòng người.
Biết bao kỷ niệm tuổi thơ, nhưng bếp lửa là hình ảnh sâu sắc nhất trong tâm trí Bằng Việt. Bắt đầu từ hình ảnh ấm áp, ký ức bắt đầu hiện hình:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấm áp yêu thương
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Khổ thơ chỉ ba câu nhưng lặp lại điệu từ “một bếp lửa”. “Bếp lửa” gần gũi với mỗi gia đình Việt Nam. Từ “chờn vờn” mô tả ánh sáng và mùi khói của bếp lửa sớm, gợi lại hình ảnh bóng dáng bà. “Ấp ủ” kết hợp yêu thương và tâm hồn của người nhóm lửa. Sự “nồng đượm” tả sự trân trọng của tác giả đối với người nhóm lửa.
Theo ký ức đó, Bằng Việt trở về với những năm tháng tuổi thơ khó khăn, đầy mùi khói.
Lên bốn tuổi cháu đã quen với mùi khói
Năm đó là năm cảnh khốn cùng cực
Bố ra đi đánh xe, khô rạ ngựa gầy
Nếu tuổi thơ của những người bạn khác thường được trải qua những câu chuyện cổ tích về bà tiên và phép màu, thì thời thơ ấu của Bằng Việt liên quan chặt chẽ đến bà và bếp lửa. Lời thơ đơn giản nhưng sâu lắng, như những câu chuyện, như những lời thú nhận dẫn dắt độc giả đến với thế giới kí ức. Dù chỉ với từ “chỉ nhớ”, nhà thơ đã làm hiện lên những hình ảnh tang thương bằng khói từ bếp lửa của bà:
Chỉ nhớ khói mảng mắt cháu
Nghĩ lại giờ đây, mùi vẫn còn cay!
Cái “mảng mắt” của khói đã đưa ta đến với hình ảnh của một bếp lửa với củi và rơm, một tuổi thơ khó khăn. Mùi khói đã lan tỏa khắp nơi, lấp đầy không khí và thấm vào tâm hồn trẻ thơ. Nhưng mùi khói trong thơ của Bằng Việt lại có một ý nghĩa sâu sắc hơn, bởi vì nó mang trong mình hơi ấm từ tình yêu thương của bà. Kỷ niệm ấy vẫn còn đọng lại trong tâm trí tác giả dù thời gian đã trôi qua, và câu thơ dừng lại với tiếng “cay”.
Như một đoạn phim chậm, những ký ức về hình ảnh người bà trỗi dậy:
Tám năm cháu cùng bà nhóm lửa
Tiếng tu hú vang trên những cánh đồng xa
Khi tiếng tu hú vang lên, bà còn nhớ không?
Quãng thời gian không dài trong cuộc đời nhưng là cả tuổi thơ của cháu. Hình ảnh của bà và bếp lửa đồng thời gợi lên một hồi ức, một liên tưởng khác trong tâm trí nhà thơ - tiếng chim hút. Theo truyền thống văn học, tiếng chim hút thường gợi lên sự đau khổ, cô đơn, hoài niệm, một âm thanh đậm chất buồn. Tiếng chim hút đã trở thành một phần của tuổi thơ, một phần của tâm hồn trẻ, là sợi dây đỏ nối liền quá khứ và hiện tại. Tiếng vọng đồng chiều đó vang lên trong khổ thơ như một lời thú nhận, như một sự nhớ nhung, để những kỷ niệm trải dài hơn, rộng lớn hơn, sâu sắc hơn trong không gian rộng lớn của sự nhớ mong. Và trong dòng kí ức đó, hiện lên những hình ảnh thân thương về tình thân giữa bà và cháu:
Mẹ và cha đi làm bận, không về
Cháu ở với bà, bà chỉ bảo cháu nghe
Bà dạy cháu học, bà chăm sóc cháu
Cháu nhớ bếp lửa, nghĩ đến bà khó nhọc
Năm tám tuổi của tác giả cũng là những năm chiến tranh, cha mẹ phải đi làm xa nhà, cháu phải sống với bà. Bằng Việt đã khơi lại những kỷ niệm của ngày ấy bằng cách mô tả: “Bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm”,... mỗi kỷ niệm trỗi dậy là một lần hình ảnh bà được ghi sâu vào trong tâm trí cháu. Trong những năm đó, bà là cha, là mẹ, là người bảo vệ vững chắc cả về tinh thần lẫn vật chất, là nguồn yêu thương của cháu.
Cũng chính những kỷ niệm đó đã đưa người đọc từ sông của tình thương gia đình vào biển cả của tình yêu đất nước, của sự hi sinh:
Khi giặc đốt làng, đất cháy tan hoang
Hàng xóm một lần nữa trở về tội lỗi
Bà cố gắng xây dựng lại căn nhà đơn sơ
Dù bao gian nan, bà luôn dặn cháu kiên nhẫn:
“Bố ở chiến trường, bố còn công việc bố
Mày đừng kể này kể kia trong thư đâu
Hãy nói nhà vẫn yên lành!”
Chiến tranh gây ra bi kịch, mất mát, hủy hoại khắp nơi trên đất nước, lấy đi tất cả của con người. Nhưng chính chiến tranh đã gợi lên vẻ đẹp ẩn trong tâm hồn của bà. Câu thơ với động từ “cháy” được lặp lại, từ ghép “tan hoang” được phân rã, khiến hiện thực của thời chiến không chỉ tràn ngập trong câu thơ mà còn đọng lại trong không gian ký ức. Nhưng từ đó, lòng bao dung của bà hiện ra như biển cả, yên bình nhưng chứa đựng nhiều tình thương con thương cháu và sâu sắc với một lòng kiên nhẫn không ngừng.
Vì sao lòng người bà có thể chứa đựng được nhiều điều như vậy? Vì trong tấm lòng đó luôn tồn tại một ngọn lửa:
Sáng sớm và chiều, bếp lửa của bà luôn sáng lên
Một ngọn lửa, lòng bà luôn chứa đựng sẵn
Một ngọn lửa mang theo niềm tin bền vững...
Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, tác giả đã nâng cao thành “ngọn lửa” mang ý nghĩa tổng quát, tượng trưng. “Bếp lửa” với những ấm áp, giản dị của tình cảm gia đình, của tình bà cháu đã trở thành “ngọn lửa” của niềm tin và sức mạnh cho các thế hệ sau này. Từ ngọn lửa ấm ấy, nhà thơ mở ra những suy nghĩ về cuộc đời của bà:
Biết bao biến cố cuộc đời bà phải chịu
Mấy chục năm rồi, cho đến bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa đong đầy tình yêu thương
Nhóm niềm hạnh phúc, với khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới chia sẻ niềm vui
Nhóm động viên cả những tâm tư nhỏ
Chất biểu cảm trữ tình vẫn còn nhưng dòng suy nghĩ đã chuyển sang màu sắc lý luận. “Biết bao biến cố” – từ ngữ gợi hình với hai dòng thơ đã mô tả cả cuộc đời gian khó của bà, phối hợp với “mấy chục năm rồi” – như là một cách đếm số, gợi lên cả một tuổi xuân, cả một cuộc đời dày dặn kinh nghiệm gắn liền với khói bếp nồng ấm. Người bà ấy giản dị nhưng lại mang trong mình một sức mạnh kỳ diệu. Trải qua tất cả những khó khăn, thử thách đó, hình ảnh bà vẫn luôn gắn liền với bếp lửa. “Mấy chục năm rồi”, lời thơ kể như đếm, gợi lên cả một thời thanh xuân, cả một cuộc đời với những tháng ngày bên nhau với khói bếp. Người bà ấy giản dị nhưng lại có một sức mạnh kỳ diệu. Suốt dòng thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần nhắc đến bà – người phụ nữ Việt Nam, để rồi từ đó nảy sinh trong lòng bao kỷ niệm và lòng trọng trọng:
Ôi kỳ diệu và cao quý – bếp lửa!
Câu thơ với từ cảm thán “ôi” như một kho chứa, tích tụ bao nhiêu điều. Trong đó chứa đựng sức mạnh “kỳ diệu” đã làm cho cả một thế hệ ký ức, cả một tuổi thơ, cả một tâm hồn. Trong đó còn chứa đựng sự “cao quý” mà nhà thơ đã trân trọng gìn giữ trong lòng nơi đất khách quê người. Hình ảnh ấy cùng với biểu cảm trữ tình kết hợp với lý luận đã trở thành nền tảng hoàn hảo để mở ra dòng suy ngẫm của cả tác giả và người đọc về cuộc đời bền bỉ và tình thương của bà.
Ngay lúc này, khi ở xa bà hàng nghìn dặm, Bằng Việt vẫn luôn nhớ về người bà yêu thương:
Bây giờ cháu đã ra đi. Có khói bốn phương trăm ngả
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng chẳng khi nào quên nhắc nhở:
– Sáng mai này bà đã nhóm bếp chưa?…
Ở xa xôi Nga lạnh giá, bếp ga, bếp điện đã thay thế bếp củi khói nhưng hình ảnh người bà và bếp lửa sáng sớm vẫn ở mãi trong tâm trí cháu. Bằng cách liệt kê và lặp lại cấu trúc “có…trăm…”, tác giả đã vẽ ra một chân trời rộng lớn với biết bao niềm vui, mới mẻ. Cuộc sống hiện đại không làm cháu quên đi nỗi nhớ về bà, nỗi nhớ đó luôn ở đây, “chẳng khi nào quên nhắc nhở”. Người bà luôn gắn bó với những điều gần gũi nhất, thân thiết nhất. Mỗi ngày, mỗi giờ lòng cháu đều hỏi: “Sáng mai này bà đã nhóm bếp chưa?”. “Bếp lửa” đã trở thành ký ức ấm lòng, niềm tin thiêng liêng theo cháu suốt cuộc đời.
Qua “Bếp lửa”, Bằng Việt đã lựa chọn những kí ức đẹp nhất về người bà để tạo ra hình tượng “bếp lửa”, thể hiện lòng biết ơn và tôn trọng đối với bà và gia đình, quê hương, đất nước. Trong sâu thẳm mỗi con người, luôn tồn tại những điều bình dị và thân thương. Hãy trân trọng những kí ức trong trẻo, mượt mà ấy, vì đó là nơi bình yên để trở về khi mệt mỏi, là hành trang quý báu trong cuộc hành trình của cuộc đời. Để một ngày nào đó, giữa dòng đời vô tận, ta có thể mỉm cười vì luôn có một “bếp lửa” soi sáng trong tim…
Cảm nhận về bài thơ Bếp lửa (mẫu 4)
Trong những năm chiến tranh, cùng với những bài thơ khích lệ tinh thần của dân tộc, còn có những bài thơ sâu lắng về tình thân, về quê hương. Một trong những bài thơ đó là Bếp lửa của Bằng Việt, tác phẩm đã đem lại cho người đọc những cảm xúc đậm đà về gia đình, về những ký ức đẹp bên người bà.
'Một bếp lửa sưởi ấm sớm mai
Một bếp lửa ấm áp, đầy yêu thương
Cháu yêu bà biết bao nắng mưa'
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa tỏa sương sớm, như vừa mới đây vừa như trong kí ức xa xôi mà tác giả chợt nhớ đến. Bếp lửa ấy được khắc sâu từ đôi bàn tay gầy, khói bay trên bếp vẫn còn đọng lại trong miền kí ức của cháu thơ. Sâu trong hình ảnh ấy là bóng dáng của người bà yêu thương, nghĩ về bếp lửa cháu nhớ đến bà, nhớ những năm tháng bà tận tình, hy sinh.
'Cháu nhớ bà biết bao nắng mưa'
Bao kỷ niệm tuổi thơ bỗng sống dậy trong trái tim đong đầy nỗi nhớ.
'Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mệt
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói bay mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay'
Cuộc sống khó khăn những năm ấy là điều mà cháu không thể quên dù lúc ấy mới lên bốn. Mùi khói trở thành thứ hương vị quen thuộc, khói bay lên mắt khiến sống mũi cháu cay cay hay chính những khó khăn của năm tháng xưa khiến lòng cháu xúc động, xót xa.
'Tám năm dài cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú vang trên cánh đồng xa xôi
Khi tu hú vang bà còn nhớ không
Bà hay kể chuyện về những ngày ở Huế
Âm thanh tu hú quen thuộc như thế'
Cháu và bà trải qua bao năm tháng, sống bên cánh đồng quê, nhóm lửa mỗi ngày. 'Tám năm' - khoảng thời gian đủ dài để cháu ghi nhớ lời bà dạy, câu chuyện về những ngày ở Huế. Âm thanh tu hú trong bài thơ gợi lên những kỷ niệm xưa. Những vần thơ chứa đựng những yêu thương, nỗi xúc động.
'Cha mẹ đi công tác, không về
Cháu ở với bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Ngọn lửa bếp nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú à, không đến bên bà
Trên cánh đồng xa, tiếng kêu vang!'
Có lẽ do phải xa cha mẹ từ nhỏ, sống bên bà nhiều năm mà tình cảm của cháu dành cho bà luôn rất lớn. Cháu luôn trân trọng công dạy dỗ của bà, những ngày bà dạy cháu làm, bà ân cần chỉ cháu học. Dù bà dặn cháu viết thư đừng kể ra những khó nhọc nơi quê nhà để ba mẹ không lo lắng. Bà vẫn luôn lo lắng cho con cháu, dù có vất vả, có khó khăn vẫn không lời kêu oan, trách móc. Hình ảnh tiếng kêu tu hú vẫn vang xa trên cánh đồng, lại không thể đến bên bà, chính là hình ảnh của cháu lúc này, nỗi nhớ bà đã vấn vương, tiếng gọi bà vang vọng nhưng không thể quay về bên bà, chỉ có thể gửi nỗi nhớ qua từng dòng thơ.
'Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
'Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!'
Chiến tranh không chỉ khiến gia đình phải chia xa mà còn làm tan nát sự yên bình của làng quê, thôn xóm. Hai bà cháu, người trẻ nhỏ, người già yếu được hàng xóm giúp đỡ dựng lại túp lều nhỏ, có chỗ che mưa, che nắng. Mặc cho khó khăn, bà không bao giờ chịu đầu hàng, luôn vững lòng, đầy niềm tin.
'Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...'
Qua từng dòng thơ, ta càng cảm nhận được hình ảnh người bà kiên cường, không ngần ngại hy sinh, luôn tin vào một ngày gia đình sum vầy, đất nước hoà bình, thống nhất.
'Giờ cháu đã ra đi xa.
Có khói bốn phương, có lửa trăm nhà
Nhưng chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Bếp lửa sớm mai bà nhóm lên chưa?'
Những dòng thơ cuối cùng nghe thật xúc động. Giờ đây cháu đã trưởng thành, trên con đường cuộc đời phải rời xa bếp lửa, xa bà, xa quê hương. Một nơi mới có những tiện nghi, niềm vui mới, nhưng trong lòng cháu vẫn luôn hướng về bà, về quê hương. Cảm giác của những người con xa quê mơ về ngày sum họp, trân trọng những khoảnh khắc bên gia đình và yêu quê hương, đất nước được thể hiện qua từng dòng thơ.
Bằng lời thơ nhẹ nhàng, tâm tình, hình ảnh giàu giá trị biểu tượng và lối viết kết hợp giữa tự sự, trữ tình và biểu cảm, tác giả đã tạo ra một bài thơ đầy cảm xúc. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được lòng biết ơn và tình cảm sâu nặng của người con xa quê dành cho quê hương và gia đình.
Cảm nhận bài thơ Bếp lửa (mẫu 5)
Bằng Việt, sinh năm 1941, quê ở tỉnh Hà Tây, là một trong những nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến. Thơ của ông sâu lắng, tinh tế, và dễ làm xúc động lòng người. Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963 khi ông đang học luật tại Nga, xa quê hương. Từ xa, ông nhớ về những kỷ niệm thơ ấu và về quê hương đang trong cuộc chiến tranh. Hình ảnh bếp lửa nồng nàn và người bà hiền đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Mở đầu bài thơ hiện ra hình ảnh bếp lửa ấm áp trong sương sớm chốn quê:
“Một bếp lửa chờn vờn trong sương sớm
Một bếp lửa ấm áp, trọn vẹn yêu thương
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”
Ba tiếng “một bếp lửa” lặp lại hai lần, trở thành điệp khúc khai mạc bài thơ với dấu ấn sâu sắc, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” như một biểu tượng không bao giờ phai nhạt trong tâm trí của nhà thơ. Đoạn thơ kỳ diệu hình thành hình ảnh bếp lửa quen thuộc, gần gũi của đồng quê Việt Nam hiền hòa. Một bếp lửa nhỏ giấu trong sương mù, nhưng luôn ấm áp và nồng nàn. Trong mái lá nhà tranh, e ấp trong lúc tre làng mỗi đêm, mỗi ngày bếp lửa luôn sáng tỏ, rồi tắt đi, rồi lại sáng lên.
Ai trong chúng ta cũng nhớ về hình ảnh đó. Bằng Việt đã dùng tất cả sự tập trung để làm cho hình ảnh của bếp lửa trở thành trung tâm, thu hút sự chú ý của người đọc. Ánh sáng và sự ấm áp trải khắp không gian, làm cho lòng người cảm thấy ấm áp.
Bếp lửa không bao giờ yên lặng, nó luôn sống động. Từ 'chờn vờn' như thực vậy, gợi nhớ đến hình ảnh bập bùng, chập chờn của lửa trong ký ức. Ngọn lửa nhoẻn miệng, chờn vờn theo gió, ấm áp biết bao, đong đầy tình cảm của con người. 'Ấp iu' gợi lên hình ảnh của bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chăm sóc của người nhóm lửa, chính xác với công việc hàng ngày.
Từ đôi bàn tay mài mòn của bà, ngọn lửa đã nhen nhóm. Hình ảnh bếp lửa đã đánh thức tình yêu thương sâu sắc trong lòng cháu: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.
Tình yêu của cháu hiện lên một cách rõ ràng và giản dị. Sau đằng sau điều đó là một trái tim, một sự thấu hiểu sâu sắc đến những vất vả, nhọc nhằn của cuộc đời bà. Ngọn lửa đã trải qua bao nắng mưa, gió rét để cháy lên mỗi sáng, mỗi chiều. Ngọn lửa ấy cháy cùng với niềm vui, ánh sáng và niềm tin vững chắc vào cuộc sống dù còn gian khổ, nguy nan.
Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc và ký ức của tác giả về bếp lửa, về bà, là biểu hiện tình cảm của người cháu với cuộc đời bà.
Từ hình ảnh bếp lửa trong tâm trí, nhà thơ trở về với ký ức tuổi thơ, những ngày sống cùng bà. Nhớ rất rõ từng khoảnh khắc vì nó liên quan đến những kỷ niệm không thể nào quên. Hồi tưởng bắt đầu từ hình ảnh bếp lửa gắn với người bà. Từ 'bếp lửa' được lặp lại, mô tả rõ ràng và làm nổi bật hình ảnh bếp lửa ấm áp và xa xôi trong ký ức, từ hình ảnh bếp lửa bà trở về với quá khứ xa xưa khi cháu mới 4 tuổi:
“Trải qua bảy năm, cháu và bà cùng chung một ngọn lửa”, bảy năm kia cũng là bảy năm cháu được bảo bọc, che chở và nuôi dưỡng tâm hồn bởi lòng từ bi của bà. Bảy năm đó, cháu sống cùng bà, trải qua những khó khăn, gian truân và vất vả nhưng tràn đầy tình yêu thương. Thời gian trôi qua đầy chông gai, gợi nhớ về những ngày tháng khó khăn trong cuộc sống bần cùng. Cha mẹ cháu đi xa chiến đấu, bảy năm cháu ở lại với bà.
Bảy năm, người bà thay cha thay mẹ, chăm sóc, dưỡng nuôi và bảo vệ cháu trước mọi nguy hiểm, khó khăn. Chính bà là người dạy dỗ cháu trở thành người có ích. Bà thường kể chuyện về quá khứ để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương và chiến công của dân tộc. Bà luôn ở bên cháu, dạy dỗ và chăm sóc để cháu trưởng thành.
Mỗi ngày, bếp lửa lại là nơi sum họp, nơi chia sẻ những bài học và lời nhắc nhở ân cần từ bà. Bếp lửa như là biểu tượng khởi đầu cho mọi hoạt động, dẫn dắt con người vào cuộc sống. Mỗi buổi sáng, bếp lửa sưởi ấm cho một ngày mới. Mỗi chiều, bếp lửa chiếu sáng cho một ngày kết thúc và mở ra một miền kỷ niệm ấm áp của tình thân.
Hàng ngày, cháu chứng kiến bà nhóm lửa. Từ những que gỗ nhỏ, ngọn lửa bừng cháy như một phép màu. Dường như đơn giản nhưng thực sự không phải vậy. Những ngày mưa gió, gỗ ướt, rơm ẩm, việc nhóm lửa thực sự khó khăn. Vì vậy, mỗi lần cháu nhìn thấy bà nhóm lửa, cháu nhớ về sự cố gắng của bà.
Bà và bếp lửa là nguồn động viên tinh thần, là sự chăm sóc, âu yếm dành cho cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình thân lại gợi lên kỷ niệm tuổi thơ - kỷ niệm về tiếng chim hót trên cánh đồng mỗi khi hè về. Tiếng chim hót được nhắc lại bốn lần, tạo nên một cảm xúc lớn.
Lần thứ nhất, tiếng chim hót vang vọng trên cánh đồng xa xôi, vùng quê trong sương mù, khói lửa: “Tiếng chim hót trên cánh đồng xa xôi”. Lần thứ hai, nó được nhắc lại ngay sau đó trong câu hỏi đầy yêu thương: “Khi tiếng chim hót, bà còn nhớ không?”. Lần thứ ba, tiếng chim hót thấm vào lòng người với nỗi buồn sâu thẳm: “Tiếng chim hót sao mà đầy cảm xúc!”. Lần thứ tư trong lời kêu gọi yêu thương của tác giả: “Tiếng chim hót ơi! Không còn bên cạnh bà. Hót về đâu trên cánh đồng xa xôi?”
Trong không gian của quê hương êm đềm, tiếng chim hót gợi lên một cảm giác buồn bã và sợ hãi sâu sắc. Trong bài thơ “Tiếng chim hót” của nữ thi sĩ Anh Thơ, tiếng chim hót kết nối với hình ảnh của cha già, với những kỷ niệm về tuổi trẻ tươi đẹp, tiếng chim hót lan tỏa khắp bài thơ như một âm thanh u sầu, buồn thương và tiếc nuối.
Trong tâm hồn con người, tiếng chim tu hú luôn mang lại những điều không may mắn. Nó là biểu tượng của sự ác độc, ma quỷ, đầy kinh hoàng. Tiếng kêu u uất, đau lòng, buồn thảm của loài chim bí ẩn này luôn khiến con người lo sợ, lo lắng. Tiếng chim như lời thúc giục, như làm đau lòng một điều gì đó sâu thẳm khiến lòng người nhớ lại những kỷ niệm buồn, những lúc khao khát.
Có lẽ đó chính là âm thanh từ thiên nhiên để an ủi, chia sẻ với cuộc sống đầy khó khăn của bà. Có lẽ, lúc đó tác giả không hề biết điều đó, nghe tiếng chim như một dấu hiệu duy nhất cho niềm tin vào sự đồng cảm trong cuộc sống khó khăn của mình. Bởi thiên nhiên luôn là bạn đồng hành, luôn đồng tình và không bao giờ bỏ rơi con người.
Những dòng thơ như cuộc trò chuyện tâm tình, cháu nói chuyện với bà trong tâm hồn, cháu nói chuyện với chim tu hú trong tình yêu thương. Và tất cả đều là sự thổ lộ của cháu dành cho người bà yêu quý. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian rộng lớn làm cho cả bài thơ trở nên phong phú về không gian kỷ niệm, về tình yêu thương giữa bà và cháu như trong truyện cổ tích.
Những năm tháng yên bình và thơ mộng ấy nhanh chóng trôi qua, để lại trong tâm hồn nhà thơ là những kí ức đau thương về quê hương, làng xóm:
“Bốn bề đều khóc trở về lầm lũi
Đứa trẻ ôm nỗi đau lại gục xuống
Mẹ già vực dậy nhìn mảnh vườn thiêu đốt”.
Đói khát lại quay về với quân giặc. Kẻ thù tàn ác luôn hiện diện xung quanh và sẵn sàng tấn công vào cuộc sống bất kỳ lúc nào. Quân giặc tới, tất cả bị phá hủy, bị thiêu rụi để chấm dứt cuộc sống của con người; để phá vỡ hy vọng vào hòa bình và muốn chinh phục con người bằng sức mạnh của vũ khí. Sự tàn ác của kẻ thù đã được Hoàng Cần mô tả trong bài thơ Bên kia sông Đuống bằng lời văn sắc sảo, đầy căm phẫn:
“Quê hương chúng ta từ khi đó
Kẻ thù đổ bộ, lửa tan hoang mọi nơi
Đồng ruộng khô cằn
Nhà cửa bốc cháy
Chó sủa rền cả một bầy
Lưỡi dao sắc bén mướt máu
Kiếp ngõ thẳm bờ hoang của chúng ta”.
(Phía bên kia dòng sông Đuống)
Tuy nhiên, không có gì có thể đánh bại được sức mạnh của con người. Họ không chết, không đầu hàng, vẫn mạnh mẽ đứng dậy và 'xây lại tổ ấm' từ đống tro tàn, đổ nát. Họ vẫn tin vào sức mạnh của mình, tin vào cuộc chiến, tin vào tư thế chiến thắng của dân tộc. Ngày càng bị áp đặt, họ ngày càng vững vàng hơn:
“Vẫn kiên định, bà dặn cháu không nên sợ:
“Bố ở chiến trường, bố vẫn làm công việc của mình,
Nếu có viết thư, đừng kể chuyện này chuyện kia,
Chỉ nói rằng nhà vẫn yên bình!”.
Chi tiết thơ thể hiện sự thực tế. Thực tế cuộc sống được phản ánh rõ trong những câu thơ nhẹ nhàng nhưng tô điểm thêm phẩm chất hy sinh của cha. Từ ngữ “cháy tàn cháy rụi” mang lại cảm giác về cảnh làng quê hoang tàn trong ngọn lửa của chiến tranh.
Trên nền của sự tàn phá đó là sự che chở, bảo bọc của cộng đồng xóm làng đối với hai bà cháu. Điều khiến cháu cảm động nhất là bà già nhỏ bé, một mình đương đầu với những tháng ngày khó khăn, đau khổ mà không hề than trách, phàn nàn. Bà mạnh mẽ, kiên cường trước thực tế khắc nghiệt. Đặc biệt là lời dặn dò của bà đã làm sáng tỏ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng từ bi, giàu phẩm chất hy sinh: “Chỉ nói rằng nhà vẫn yên bình!”
Không biết điều gì đang xảy ra nhưng chắc chắn người cháu nhận ra rằng bà đang cố gắng kìm lại nỗi đau, thể hiện sự bình tĩnh và sáng suốt ngay trong tình hình khó khăn nhất. Bà kiên quyết dặn dò, lời dặn dò rõ ràng như là sự kiềm chế lại sự oán giận trước tội ác của kẻ thù tàn bạo, quyết tâm hoàn thành trách nhiệm của người phụ nữ đứng sau tuyến đầu.
Người bà đã tự mình đảm nhận mọi gánh nặng để các con yên tâm đi làm. Bà không chỉ là điểm tựa cho đứa cháu nhỏ, là nơi che chở cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, đóng góp không ít vào cuộc chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc.
Hình ảnh của người bà gợi lên kí ức về người mẹ dũng cảm từng đồng bồng con chiến đấu với kẻ thù vào những thời kỳ khó khăn:
“Mẹ như là dòng nước dẫn đường,
Đưa con vượt qua bao gian nan
Đời con luôn yên bình an lạc,
Mẹ chìm sâu dưới bể gian nan”.
(Huyền thoại mẹ – Trịnh Công Sơn)
Hình ảnh người bà liên kết mật thiết với bếp lửa trong kí ức tuổi thơ của người cháu. Người cháu nhớ rõ từng giai đoạn lịch sử. 4 tuổi, cháu cùng bà vượt qua khó khăn. 12 tuổi, 8 năm cùng bà trên bếp lửa. Bố mẹ đi chiến đấu, bà thay thế, chăm sóc và dạy dỗ.
Ngày càng lớn, cháu càng quý trọng bà, vì đã hiểu được những gian nan mà bà phải đối mặt. Khi giặc đến đốt làng, mọi thứ bị phá hủy. Nhưng bà vẫn im lặng, không làm ảnh hưởng đến cuộc chiến. Bà hi sinh tất cả để đấu tranh cùng dân tộc. Bếp lửa vẫn cháy qua những năm tháng cam go, khắc nghiệt. Bếp lửa trở thành biểu tượng tình yêu và lòng căm thù.
Tới đây, thơ trở nên sâu lắng, ngập tràn trong kí ức tuổi thơ đẹp bên bà và bếp lửa. Bây giờ, bếp lửa và bà đã hòa quện thành một, là nguồn sống mạnh mẽ, vĩnh cửu
“Bình minh và hoàng hôn, bếp lửa vẫn rực sáng,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn đong đầy,
Một ngọn lửa đong đầy niềm tin vững vàng…”
Hình ảnh của người bà ôm lấy ngọn lửa ấm tái hiện một lần nữa. Bếp lửa không chỉ được thổi bùng bằng củi rơm, mà còn được thổi lên từ ngọn lửa của tình thương, niềm tin vững chãi “luôn ủ sẵn” trong lòng bà, của lòng yêu thương “dai dẳng”, kiên cường và bất diệt. Ngọn lửa là những kỷ niệm ấm áp, là niềm tin thần thánh kì diệu dẫn bước cháu trên hành trình dài. Ngọn lửa là sự sống, tình thương, niềm tin mà bà truyền đạt cho cháu. Và với tất cả tình yêu thương, người cháu nhận lấy ngọn lửa ấy, tiếp tục bảo vệ và lan tỏa vào ngày mai.
Bây giờ, ngọn lửa từ bếp lửa đã trở thành biểu tượng của sức mạnh tinh thần, ý chí chiến đấu và niềm tin bền vững vào nguồn gốc sống. Lửa là nguồn sống của mọi loài, của con người. Từ bàn tay của bà, ngọn lửa được truyền dẫn qua các thế hệ.
Đột nhiên, nhà thơ quay về với những suy tư riêng về người bà và bếp lửa:
“Cuộc đời gian khổ bao nhiêu sóng gió
Mấy chục năm trôi qua, từ xưa đến nay
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Đun bếp lửa ấm, tình thương lan tỏa nồng nàn,
Niềm yêu thương, hương vị ngọt bùi của bữa cơm,
Mùi gạo nếp mới, sẻ chia niềm vui,
Mở lòng ra với tình thương từ nhỏ…”
Suốt cuộc đời, bà đã dành để giữ ấm bếp lửa. Mấy chục năm dậy sớm để đun bếp mỗi buổi sáng đã trở thành thói quen, phong tục. Bà đun bếp để chuẩn bị cho cháu những bữa cơm ấm áp, những khoảnh khắc hạnh phúc. Từ bếp lửa của bà, mỗi bữa ăn, mỗi bát cơm đều được chuẩn bị đều đặn bất kể khó khăn. Bếp lửa của bà là điểm liên kết của cả xóm.
Nhờ bếp lửa ấy, người cháu đã học được lòng biết ơn, lòng trung thành, và khả năng mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với mọi người. Một bếp lửa đơn giản nhưng ẩn chứa những điều phi thường. Vì thế, nhà thơ cảm phục gợi lên:
“Ôi kỳ diệu và thiêng liêng – bếp lửa!”
Kì diệu vì bếp lửa đó đã rực lên suốt hàng chục năm, vượt qua mọi thời tiết, mưa nắng, bão táp, vượt qua sự phá hoại của kẻ thù. Hàng chục năm qua, nó chưa bao giờ tắt và sẽ tiếp tục cháy sáng hơn, mạnh mẽ hơn đến muôn đời sau.
Thánh thiêng vì nó liên kết chặt chẽ với hình ảnh người bà tôn kính trong ký ức tuổi thơ. Nó đi cùng bà cháu qua thời gian. Nó xua tan bóng tối, mang lại sự ấm áp và hạnh phúc. Nó duy trì niềm tin và nguồn sống. Trong tâm trí người Việt, bếp lửa liên quan chặt chẽ đến thần lửa - vị thần bảo hộ cuộc sống gia đình, mà con người luôn tôn kính và tôn vinh.
Ngay cả khi ở xa quê hương, nhớ lại ký ức tuổi thơ về bếp lửa vẫn khiến tâm hồn tác giả xúc động. Mặc dù giờ đây có biết bao ánh lửa khác, nhưng người cháu vẫn không quên ngọn lửa quê nhà được đốt lên từ đôi bàn tay lao động của người bà yêu quý. Kí ức xa xăm vẫn còn sống mãi trong trái tim không thể nào phai nhạt.
“Nhưng vẫn không bao giờ quên nhắc nhở:
Mỗi sáng mai, bà đã nhóm bếp lửa chưa?…”
Có rất nhiều bài thơ viết về hình ảnh bếp lửa nhưng cho đến nay, không có bài thơ nào có thể vượt qua bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt. Thành công của Bằng Việt là đã mô tả và biểu tượng hóa hình ảnh bếp lửa, nâng nó lên thành một biểu tượng nghệ thuật có sức mạnh biểu đạt mạnh mẽ.
Trong bài thơ có hai hình ảnh nổi bật, mật thiết gắn kết với nhau, vừa rõ ràng, vừa mờ nhạt, tỏa sáng cùng nhau. Đó là hình ảnh người bà và bếp lửa. Bà đốt bếp lửa mỗi sáng, mỗi chiều, và suốt cuộc đời từ những lúc khó khăn đến lúc yên bình.
Bếp lửa cũng là biểu hiện cụ thể và đầy cảm xúc về tình thương, chăm sóc và yêu thương của người bà dành cho cháu. Bếp lửa là sự ấm áp của tình mẹ, là bàn tay mẹ chăm sóc. Bếp lửa đính kèm với những cống hiến, nỗ lực của cuộc đời bà. Ngày ngày, bà đốt bếp lửa là để mang lại sự sống, niềm vui, tình thương và hy vọng cho cháu con, cho tất cả mọi người.
Từ những suy tư của người cháu, bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt thể hiện một triết lý sâu sắc, gây cảm phục sâu sắc trong lòng chúng ta. Những điều gắn bó nhất trong tuổi thơ của mỗi người đều có sức lan tỏa, dẫn dắt con người qua những bước đi trên hành trình đời dài.
Phản ảnh về bài thơ Bếp lửa (mẫu 6)
Quê hương, gia đình đối với mỗi người chắc chắn đều có một hình ảnh sâu đậm trong tâm trí, đặc biệt khi ở xa nhà. Với Tế Hanh, đó là dòng sông Trà Bồng - Quảng Ngãi cuồn cuộn, với Xuân Quỳnh, là tiếng gà trưa thao thiết gọi, với Nguyễn Duy, là Đò Lèn của xứ Thanh đầy kỷ niệm... còn với Bằng Việt, đó là bếp lửa quê nhà - một bếp lửa ấm áp, đầy yêu thương để trở thành kỷ niệm, là điểm tựa vững chắc trên cuộc hành trình dài của cuộc đời.
Bài thơ ra đời vào năm 1963, khi nhà thơ đang là sinh viên học ngành luật tại thủ đô Kiev của Ukraina - một quốc gia thuộc Liên Xô cũ. Bằng Việt nhớ lại: “Những năm đầu học luật tại đó, tôi nhớ nhà đến khủng khiếp. Tháng 9, ở đó trời lạnh, sương mù thường bay mịt mù mặt đất, ngoài cửa sổ, trên các cành cây, gợi nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà. Mỗi buổi sáng đi học, tôi thường nhớ đến khung cảnh một bếp lửa quen thuộc, nhớ lại hình ảnh bà nội dậy sớm nấu nồi xôi, luộc khoai sắn cho cả nhà”. Và từ đó, một kí ức tuổi thơ, một đoạn đời và cả những biến cố của dân tộc đã lần lượt xuất hiện:
“Năm bốn tuổi cháu đã quen với mùi khói
Năm ấy là năm đói kém
Bố đi chiến đấu trong thời kỳ khó khăn”
Những câu thơ tám chữ ngọt ngào, phù hợp với tâm trạng hoài niệm. Tác giả đã kết hợp tình cảm cá nhân với sự mô tả sinh động để tái hiện lại quá khứ xa xăm khi còn nhỏ “bốn tuổi”. Đó là thời thơ ấu ngây thơ, những kí ức dường như khắc sâu trong tâm trí. Kỷ niệm đầu tiên ấy liên quan đến thời kỳ biến động lớn của dân tộc, năm 1945, khi đất nước đối mặt với nạn đói và nhiều khó khăn. Hình ảnh tuổi thơ đầy khổ đau ấy đã ăn sâu vào lòng tác giả thông qua mùi khói và cảnh nạn đói Ất Dậu.
Mùi khói của bếp là mùi quen thuộc từ bếp của bà: Cay, khói mù mịt vì củi ướt, sương đọng nhiều. Mùi khói còn là biểu tượng của bom đạn, của cuộc chiến tranh, là nỗi đau khổ, khốn khó của cuộc sống của hai thế hệ, và của người dân Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ. Nỗi khổ đó đã được mô tả cụ thể qua câu chuyện “Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”. Hình ảnh đó đã khắc sâu một quá khứ đầy bi thương của dân tộc và cũng của tác giả. Đến bây giờ, “mùi còn cay”. Cháu đã khóc vì thương bà, vì thương cả dân tộc một thời gian khó khăn.
Dòng thời gian dài kéo dài “tám năm chiến”, “năm giặc đốt làng” mở ra kỷ niệm về cuộc kháng chiến kiên cường của dân tộc. Như hàng vạn đứa trẻ sinh ra và lớn lên giữa chiến tranh, “mẹ cùng cha đi làm, không về”, cháu sống cùng bà, bà là điểm tựa vững chắc trong tuổi thơ của cháu.
“Cháu sống với bà, bà dạy cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm sóc cháu học”.
Tuổi thơ đầy khó khăn nhưng đã tạo ra một mảnh gương tinh thần xanh mượt trong kí ức sáng sủa của cháu vì cháu luôn có bà. Bà thay thế cha, mẹ, dạy bảo cháu, để cháu trưởng thành trước tuổi, sống có ý nghĩa, có tình thương, biết quý trọng gia đình, biết thương yêu bà. Khi nhớ lại, những kí ức còn gắn với tiếng chim hót: Tiếng chim hót như một âm thanh cô đơn buồn trên những cánh đồng hoang vu, gợi lên tình cảnh lạc lõng của hai thế hệ và một làng quê vắng vẻ. Điều đó khiến tâm trạng của cháu trở nên cảm động hơn. Trong đoạn thơ này, tác giả đã sử dụng câu hỏi để truyền tải tâm trạng nhớ nhung, thương yêu bà sâu sắc của đứa cháu, đồng thời cũng là nỗi day dứt vì chưa thể đền đáp được công ơn nuôi dưỡng. Từ đó, trong lòng cháu lại bùng cháy niềm khao khát được đoàn tụ xa xôi.
Câu thơ tám chữ ngọt ngào cùng với hình ảnh “tu hú” mở ra không gian mơ mộng, bao la, buồn vắng trên những cánh đồng xa xăm. Điều đó khiến tâm trạng của cháu ngày một sâu đậm hơn. Ở đoạn thơ này, Bằng Việt cũng đã sử dụng câu hỏi để đưa suy tư về hiện tại. Đây là nỗi nhớ mong, thương yêu bà sâu sắc của đứa cháu ở xứ lạ, đồng thời cũng là nỗi day dứt vì chưa thể đền đáp được công ơn nuôi dưỡng. Từ đó, trong lòng cháu lại bùng cháy niềm khao khát được đoàn tụ xa xôi.
Dòng suy tư về bà và bếp lửa quê hương vẫn rỉ suốt trong bài thơ:
“Sáng qua chiều lại, bếp lửa bà sáng chói
Một tia lửa ấm áp từ trái tim bà
Một tia lửa chứa đựng niềm tin kiên cường.”
“Sáng qua chiều lại”, thời gian vô tận trôi đi và bà tiếp tục thực hiện một công việc bình thường: Nấu nướng. Có những công việc đơn giản nhưng ẩn chứa ý nghĩa sâu sắc về cuộc sống. Công việc nấu nướng của bà cũng vậy. Nếu từ đầu bài thơ, hình ảnh bếp lửa xuất hiện liên tục thì bây giờ “tia lửa” lại hiện diện trong suy tư của người cháu. Đây là sự chuyển đổi tự nhiên mà rất giàu ý nghĩa. Bếp lửa cụ thể, hữu hình, tia lửa vô hình, trừu tượng, giàu sức mạnh gợi cảm. Tia lửa bà sáng chói không chỉ từ lửa củi mà còn từ trái tim của bà.
Tia lửa tình yêu của bà, tia lửa ấm áp mà bà dành cho cháu, cho mọi người. Đó là tia lửa của niềm tin kiên định, toàn vẹn không bao giờ phai nhạt về cách mạng, về kháng chiến, về số phận của dân tộc. Và còn có một niềm tin sâu sắc hơn. Bà tin vào tương lai của cháu. Có những nguồn sức mạnh bên trong mỗi người bắt đầu từ những niềm tin vững chắc như vậy. Từ đây, một tiếng cười, một lời ca ngợi đầy cảm xúc vang lên từ tận đáy lòng cháu:
“Ôi kì diệu và thiêng liêng – bếp lửa!”
Câu thơ biểu đạt sự ngạc nhiên với cấu trúc đảo tính từ trên cao, như một khám phá kỳ diệu giữa cuộc sống đơn giản. Bếp lửa thường thấy trong mỗi nhà Việt nhưng trong bài thơ này, nó trở thành biểu tượng thần thánh và đầy kỳ lạ. Bếp lửa trở thành hình ảnh thơ liên tục và đặc biệt, kỳ diệu, thiêng liêng. Bếp lửa kỳ diệu và thiêng liêng bởi nó là biểu tượng của bà yêu dấu. Bà và bếp lửa luôn gắn bó. Bà nấu nướng và bếp lửa luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc sống. Mùi hương thơm ngon của bếp lửa chính là hương vị của tình thương của bà. Bếp lửa trở thành nơi lưu giữ những kí ức, những kỷ niệm của tuổi thơ. Bếp lửa thức tỉnh những ước mơ, khát vọng trong con người và những kỷ niệm vĩnh cửu là niềm vinh hạnh dẫn lối ta trên con đường của cuộc sống.
Khúc cuối là lời tâm sự của người cháu khi đã trưởng thành:
“Giờ đây khi cháu đã đi xa. Có khói từ nhiều bếp,
Có lửa bừng cháy, niềm vui khắp nơi…”
Người cháu đã trưởng thành, thành công và hạnh phúc từ cuộc sống nhưng vẫn nhớ mãi những gì bếp lửa của bà đã dạy. Đó là nguồn ánh sáng và ấm áp từ quê hương, những trải nghiệm của bà, và tấm lòng hiến dâng, yêu thương của bà. Thành công và ý nghĩa của bài thơ còn nằm ở sự hiện diện của các con số: Một, bốn, tám, một trăm. Một bếp lửa bé nhỏ đã chứng minh sức mạnh và ý nghĩa trong trăm người.
Bếp lửa trở thành nguồn cảm hứng cho tình yêu và nhớ mong. Từ đó, triết lý sâu sắc được truyền đi qua bài thơ: Những điều thân quen từ tuổi thơ luôn phát sáng và hỗ trợ tâm hồn con người trên con đường của cuộc sống; phải sống trung thành, có lòng nhân ái, không bao giờ quên quá khứ, gia đình, quê hương. Tình yêu quê hương bắt nguồn từ những tình cảm nhỏ bé, thân thuộc nhất, đó là tình thương và lòng biết ơn bà.
Thi phẩm đã được viết hơn nửa thế kỷ trước nhưng Bếp lửa vẫn còn sống động và toàn vẹn. Có lẽ vì nó đã đạt tới lòng mỗi người bằng tình yêu, lòng biết ơn, sự kết nối với gia đình, quê hương và đất nước luôn sáng tỏ, luôn hướng dẫn mỗi bước đi và mục tiêu của con người.