Tổng hợp 50+ Phản hồi về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá sâu sắc, được lựa chọn từ những bài văn xuất sắc của học sinh lớp 9 trên toàn quốc, giúp học sinh lớp 9 có thêm tài liệu tham khảo để hiểu và phản hồi về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của tác giả Huy Cận một cách dễ dàng hơn.
50+ Phản hồi về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
Kế hoạch Phản hồi về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá
1. Mở đầu
Giới thiệu về tác giả Huy Cận và bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”: Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám. Sau cách mạng, khi hòa bình được thiết lập, tác phẩm thơ của ông phản ánh sự sống mới, trong đó có bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”.
2. Phần chính
Phân tích diễn biến khi đoàn thuyền ra khơi: Bức tranh mặt trời lặn trên biển đỏ rực như than đang chìm là thời điểm ngư dân bắt đầu ngày làm việc bình thường.
Phân tích vẻ đẹp của biển cả trong đêm ra khơi: Dưới nét viết lãng mạn của nhà thơ, cảnh biển hiện lên vừa thực vừa ảo, vẻ đẹp của biển cả đã tạo nên sức mạnh và niềm vui cho người lao động, giúp họ tin vào khả năng chinh phục tự nhiên và kiểm soát cuộc sống.
Phân tích công việc và tinh thần lao động của ngư dân: Cuộc sống của ngư dân gắn bó với biển cả, họ quen với môi trường biển và với hàng nghìn loài cá.
Phân tích hình ảnh khi đoàn thuyền đánh cá trở về: Hình ảnh ngư dân bóng bềnh trên nền bầu trời rực hồng của bình minh, họ vất vả kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu.
3. Kết luận
Khẳng định giá trị của bài thơ: Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và biển cả mà còn tôn vinh những người lao động trong thời đại mới, họ là những người gan dạ, cần cù, làm giàu cho đất nước.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 1)
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được coi là một trong những tác phẩm đặc sắc của nhà thơ Huy Cận. Tác phẩm này mang đến cho độc giả cái nhìn về vẻ đẹp của thiên nhiên cũng như sự cống hiến mạnh mẽ của người ngư dân.
Đầu tiên, Huy Cận đã mô tả một khung cảnh thiên nhiên sống động và đầy màu sắc:
“Mặt trời rơi vào biển như một tảng lửa
…
Âm nhạc của gió và sóng cùng hòa quyện”
Hình ảnh so sánh “mặt trời rơi vào biển” với “một tảng lửa” tái hiện màu sắc và hình dạng của mặt trời khi hoàng hôn buông xuống. Kết hợp với hình ảnh nhân hóa “sóng đã cài then, đêm sập cửa” tạo ra hình ảnh biển như một căn nhà lớn.
Đây là thời điểm mà mọi sinh vật nghỉ ngơi. Tuy nhiên, đây cũng là thời điểm mà người ngư dân bắt đầu công việc của họ. Không chỉ một con thuyền, mà là cả một “đoàn thuyền” – một tập thể. Đoàn thuyền đó “lại ra khơi”, lại tiếp tục công việc lao động hăng say. Tiếng hát khi ra khơi mang theo niềm hứng khởi, hy vọng về một mùa bội thu.
Nếu ở trên, Huy Cận đã sử dụng cách diễn đạt độc đáo để mô tả con thuyền ra khơi, thì ở khổ thơ tiếp theo, ông mô tả cảnh biển với sự lãng mạn:
“Con thuyền ta bước đi với hơi thở của trăng
…..
Dàn đan lưới như một cuộc chiến lược”
Hình ảnh của “con thuyền lái gió với buồm trăng” vừa thực vừa lãng mạn. Con thuyền đó lướt trên mặt biển như một tấm ván khổng lồ giữa không gian rộng lớn, tạo nên bức tranh vô cùng ấn tượng.
Công việc lao động diễn ra cả trong đêm: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” – mặc dù là đêm tối, ngư dân vẫn cần phải miệt mài với công việc của mình. Đánh cá giống như đánh trận, con người phải thông minh sử dụng chiến thuật để vượt qua mọi khó khăn.
“Ta hát bài ca gọi cá vào,
…..
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Nhà thơ đã kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn để thể hiện không khí làm việc sôi nổi và khẩn trương. Công việc làm đêm rất nặng nhọc và đòi hỏi sự tập trung cao độ của người lao động.
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
….
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Bài thơ kết thúc với hình ảnh của đoàn thuyền trên đường trở về:
“Tiếng hát cùng gió và buồm khơi,
…..
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
Những giai điệu vang vọng từ khi thuyền ra khơi đến khi trở về. Đó là biểu hiện của niềm vui và phấn khích. Cảnh bình minh được mô tả với vẻ đẹp tuyệt vời. Thuyền trở về với tâm trạng khẩn trương: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Điều này phản ánh thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi bình minh, đồng thời cũng thể hiện sự mạnh mẽ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hình ảnh “mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” thể hiện niềm tin về tương lai của ngư dân.
Thể qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, Huy Cận đã vẽ nên hình ảnh đẹp và tráng lệ, đồng thời thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động. Từ đó, tác phẩm cũng phản ánh niềm vui và tự hào của nhà thơ đối với thiên nhiên và đất nước.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 2)
Huy Cận là một trong những tên tuổi đáng chú ý của phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, với các tác phẩm nổi tiếng như Lửa thiêng, Vũ trụ ca… Sau Cách mạng, ông đã nhanh chóng tham gia vào cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống thực dân Pháp. Hòa bình thiết lập, từng trang thơ của Huy Cận thổi mạnh hơi thở mới của cuộc sống. “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác tại Hòn Gai vào năm 1958. Sau một chuyến đi nghiên cứu dài ngày, bài thơ được đánh giá là một trong những tác phẩm nổi bật của thơ Việt Nam hiện đại.
Với sự quan sát sắc bén, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, Huy Cận đã mô tả một cảnh lao động tuyệt vời trên biển. Bài thơ như một bức tranh sơn mài rực rỡ với những màu sắc huyền bí, cuốn hút vô cùng:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
….
Điều ta nghe: Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Thuyền đánh cá bắt đầu rời bến khi hoàng hôn buông xuống. Bên kia, mặt trời như một tảng lửa đỏ rực sắp lặn xuống đại dương vô tận. Đêm buông xuống, kết thúc một ngày. Chính vào lúc đó, ngư dân bắt đầu công việc quen thuộc của họ: ra khơi đánh cá.
Biển đêm không lạnh lẽo nhưng lại ấm áp bởi tiếng hát rộn ràng, thể hiện niềm vui của con người lao động: “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”. Đây là cách diễn đạt độc đáo, tạo nên sự sáng tạo của Huy Cận, khiến chúng ta cảm nhận như tiếng hát hòa cùng gió mạnh, thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền phăng phăng vượt sóng. Cánh buồm no gió trở thành biểu tượng cho tinh thần kiên trì, phấn đấu trong công cuộc xây dựng đất nước.
Lời ca ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng với vẻ đẹp lộng lẫy, kỳ diệu của nó trong đêm. Bút pháp lãng mạn của nhà thơ đã vẽ ra một khung cảnh vừa thực vừa mơ:
Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng
…..
Đến đây, chúng ta cùng dệt lưới, đàn cá ơi!
Vẻ đẹp của biển đã giảm đi phần nào nỗi mệt mỏi vất vả, mang lại niềm vui và sức mạnh cho con người đang khám phá thiên nhiên, kiểm soát cuộc sống của mình. Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ quan sát và miêu tả với một cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả như sống hòa mình vào thiên nhiên, vào công việc, vào con người:
Thuyền ta chèo gió với buồm trăng
….
Dàn đan thế trận lưới vây quanh.
Những hình ảnh lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng sự tươi mới của thơ cổ điển nhưng vẫn đong đầy chất hiện thực. Một chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như một trận đánh. Cũng thăm dò để tìm ra bãi cá; cũng dàn đan thế trận để giăng lưới, bủa lưới sao cho bắt được luồng cá bạc, để sáng mai khi quay trở lại, thuyền nào thuyền nấy đều đầy ắp cá.
Đã nhiều thế hệ, người ngư dân có mối quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như thuộc lòng bàn tay. Bao loài cá họ thuộc tên, thuộc hình dạng, thuộc cả thói quen của chúng:
Cá nhụ, cá chim và cá đé,
…
Đêm thở: Sao chờa nước Hạ Long.
Trên biển đêm, ánh trăng long lanh như mảnh bạc, cá quẫy đuôi, sóng sánh trăng vàng. Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục vang lên, lúc nồng nàn, lúc say đắm. Trăng đồng hành cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên bờ thuyền, như gõ nhịp phụ họa cho tiếng hát. Ánh trăng chiếu sáng giúp ngư dân kéo được những mẻ cá đầy. Thiên nhiên và con người thật là hoà hợp.
Bóng tối tan dần, bình minh đã đến, nhịp độ công việc càng trở nên sôi động, hối hả:
Sao nhòe, kéo lưới kịp bình minh,
….
Lưới xếp dậy, dựa vào ánh nắng hồng.
Bao công lao vất vả đã được đền bù. Dạng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng người, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Bóng dáng họ in trên nền trời hồng rực của buổi bình minh. Những tia nắng sớm chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh thêm vảy bạc, đuôi vàng và màu sắc phong phú của bao loài cá cũng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ.
Nhịp điệu câu thơ cuối chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng thoải mái của ngư dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi. Khố thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:
Câu hát căng buồm với gió khơi,
….
Mắt cá rực rỡ muôn dặm rải.
Vẫn là tiếng hát khoẻ khoắn của người ngư dân dạn dày sóng nước đang vươn lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng cánh buồm đưa đoàn thuyền ra khơi đêm trước, nay lại cùng đoàn thuyền đầy cá hân hoan về bến. Hình ảnh đoàn thuyền chạy đua với mặt trời rất hiện thực và hùng vĩ. Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng, đồng thời cũng thể hiện sự mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước sau thời kỳ giải phóng.
Hòa cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ thả mình bay bổng trong trí tưởng tượng. Đoàn thuyền lao vun vút trên biển. Mặt trời đang lên màu hồng rạng rỡ, tinh khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá trên thuyền khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ xíu đang tỏa sáng niềm vui. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và đầy chất sống trong từng dáng hình, đường nét của cảnh vật, của con người.
Đoàn thuyền đánh cá là một bài ca lao động đầy hứng khởi, hào hùng. Nhà thơ tôn vinh biển cả mênh mông – nguồn tài nguyên vô tận của Tổ quốc, tôn vinh những người lao động cần cù, gan góc, ngày đêm làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình của Huy Cận và nghệ thuật tinh tế của ông đã thu hút người đọc đích thực.
Chúng ta cùng chia sẻ niềm vui to lớn với nhà thơ, với tất cả. Những người lao động mới đang tự hào bước đi trên con đường tiến tới tương lai sáng sủa. Nửa thế kỷ đã trôi qua, bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị ban đầu của nó. Một phần, bài thơ giúp chúng ta hiểu được tâm hồn mới của Huy Cận sau những biến cố lịch sử nặng trĩu của đất nước và dân tộc – một Huy Cận trữ tình cách mạng.
Phản ứng với bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 3)
Đến với trang thơ của Huy Cận, người đọc có thể cảm thấy ấn tượng với bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Tác phẩm đã miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, và sự phong phú của biển khơi.
“Đoàn thuyền đánh cá” được Huy Cận sáng tác vào năm 1958 trong một chuyến đi thực tế kéo dài ở Hòn Gai. Huy Cận đã trình bày trước mắt chúng ta khung cảnh lao động chăm chỉ trên biển. với một cách nhìn sắc sảo, trí tưởng tượng giàu có, và một trái tim nhạy cảm cùng tài năng nghệ thuật lộ liễu, Khi đọc bài thơ, chúng ta có thể tưởng tượng bài thơ như một bức tranh đầy sắc màu, sự sống:
Trong phần thơ đầu tiên, nhà thơ đã mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên và hình ảnh đoàn thuyền khi ra khơi:
“Mặt trời rơi xuống biển như một tia lửa
….
Câu hát căng buồm với gió khơi”
Đoàn thuyền cập bến khi hoàng hôn buông xuống, mặt trời sau một ngày làm việc mệt nhọc chuẩn bị nghỉ ngơi. So sánh “mặt trời xuống biển như hòn lửa” làm bức tranh thiên nhiên tràn ngập màu đỏ rực.
Mặt trời dần lặn xuống lòng đại dương mênh mông. Khi ấy, màn đêm buông xuống. Biển giống như một gian phòng lớn của thiên nhiên, nơi mà “sóng đã cài then đêm sập cửa”. Lúc này, người ngư dân mới bắt tay vào công việc đã quá quen thuộc là ra khơi đánh cá. Đoàn thuyền ra khơi, người lao động cất vang tiếng hát hòa với gió, thổi căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi. Lời hát khen ngợi sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kỳ của nó trong đêm:
“Hát rằng cá bạc biển đông lặng
….
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”
Vẻ đẹp của biển cả đã giúp làm giảm bớt sự mệt mỏi trong công việc lao động. Cảnh đánh cá trong đêm được nhà thơ mô tả với cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Huy Cận giống như đang trực tiếp tham gia lao động cùng những người ngư dân:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
…
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Qua cách xây dựng hình ảnh đầy độc đáo, con thuyền đánh cá nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kỳ vĩ, khổng lồ hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Ta có thể tưởng tượng hình ảnh con thuyền đang bay giữa không gian vũ trụ bao la.
Những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, “mây cao”, “biển bằng” phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn đậm chất hiện thực. Và chuyến ra khơi bắt cá dường như trở thành một trận chiến đấu. Cũng có thăm dò, cũng có dàn đan thế trận và bủa vây – nhưng là bằng lưới. Người ngư dân sống gắn bó với biển cả, họ đã thuộc biển như lòng bàn tay, bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng và thuộc cả thói quen của chúng:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
….
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”
Màn đêm yên bình, ánh trăng lung linh phản chiếu xuống mặt nước, cá quẫy đuôi sóng sánh trăng vàng, tiếng “em” bật lên tự nhiên, trìu mến. Lúc này không phải là bài ca ra khơi nữa mà là bài ca gọi cá vẫn tiếp tục vang vọng.
Ánh trăng như người bạn tâm giao. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền như gõ nhịp phụ hoạ cho tiếng hát, trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy… Đặc biệt là hình ảnh “biển cho ta cá như lòng mẹ” cho thấy sự bao dung, yêu thương của biển cả với con người.
Cuối cùng thì lao động vất vả đã được đền đáp xứng đáng bằng thành quả:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
…..
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Họ đang dùng sức mạnh của đôi tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao. Màu sắc phong phú, lấp lánh vẩy bạc, đuôi vàng của bao loài cá càng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ “lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi. Từ đó cho thấy tâm trạng phấn khởi của người ngư dân trước.
Kết lại, khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:
“Tiếng hát vang xa trên biển mênh mông
…..
Ánh mắt lung linh trên bờ cát dài”
Âm nhạc lan tỏa từ đầu đến cuối bài thơ. Tiếng hát hòa quyện với gió, thổi căng buồm dẫn đoàn người ra khơi trong đêm tối, khiến cho đoàn thuyền về bến đầy ắp cá trở về vui mừng. Hình ảnh “đoàn thuyền cạnh tranh với mặt trời” không chỉ phản ánh sự thật mà còn mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Đó là phong tục lâu đời của ngư dân, buộc họ phải trở về bờ trước khi bình minh ập đến. Đồng thời, đó cũng là tinh thần sẵn sàng của họ trước mỗi cuộc hành trình mới.
Thấu hiểu thông qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”, người đọc cảm nhận được sự say mê lao động của ngư dân, cũng như tăng thêm lòng tự hào về thiên nhiên và con người Việt Nam trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Phản ánh về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 4)
Huy Cận, một trong những nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ mới, để lại dấu ấn sâu sắc qua bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”. Bằng tác phẩm này, người đọc không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp hùng vĩ mà còn thấy được sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên, thể hiện niềm vui và tự hào của tác giả đối với đất nước.
Tác giả đã khai mạc bài thơ với hình ảnh thiên nhiên cùng con thuyền ra khơi:
“Mặt trời lấp lánh trên biển như ngọn lửa
…..
Âm nhạc của biển hát cùng gió thổi”
So sánh giữa “mặt trời buông lửa” và “mặt trời xuống biển” thể hiện sự rực rỡ của mặt trời, hình dạng tròn đầy, gợi nhớ đến thời gian hoàng hôn. Đồng thời, hình ảnh nhân hóa biến đổi không gian đại dương thành một căn nhà lớn, trong đó màn đêm là cánh cửa, sóng biển là then cài. Thiên nhiên bắt đầu nghỉ ngơi, tận hưởng trạng thái bình yên.
Lúc này là thời điểm con người bắt đầu lao động. “Đoàn thuyền” không chỉ là một con thuyền mà còn là một đoàn người, một tập thể lớn cùng nhau ra khơi làm việc. Sự trở lại biển cả trở nên quen thuộc với họ. Đặc biệt, hình ảnh “câu hát căng buồm” tái hiện cảnh người lao động hát vang, tạo ra sức mạnh như gió đẩy con thuyền ra khơi. Khi thiên nhiên nghỉ ngơi, ngư dân bắt đầu hành trình lao động của mình.
Ở khổ thơ tiếp theo, Huy Cận nổi bật hình ảnh ngư dân:
“Hát vang: cá bạc biển Đông êm,
…..
Dệt lưới đây, đoàn cá ơi!”
Câu hát của người đi biển không chỉ phản ánh tâm trạng lạc quan, không khí hối hả mà còn thể hiện mong muốn của họ. Vì công việc đánh cá vất vả, ngư dân mong muốn trời yên, biển lặng và gặp nhiều cá hơn. Sử dụng các hình ảnh so sánh và nhân hóa tạo ra cảm xúc độc đáo về con người lao động.
Tiếp theo, nhà thơ mô tả cảnh đánh cá:
“Thuyền chèo gió, buồm trăng điều kì,”
…..
Dàn lưới, đan sáng vùng biển kia.”
Toàn bộ khổ thơ như một bức tranh rực rỡ. Các hình ảnh: gió, trăng, mây tạo nên bức tranh đó bằng ngôn ngữ lộng lẫy. Đặc biệt là hình ảnh “thuyền lái gió với buồm trăng” vừa thực về vừa đẹp mắt. Thiên nhiên cũng góp phần vào công cuộc lao động của ngư dân.
Nghệ thuật phóng đại “lướt giữa mây cao với biển bằng” hình ảnh thuyền như tấm ván lớn lướt giữa không gian rộng lớn. Công việc lao động diễn ra trong đêm: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển” – dù là đêm tối, ngư dân vẫn miệt mài với công việc đánh cá. Đánh cá cũng giống như đánh trận, con người phải sử dụng trí tuệ để vượt qua thiên nhiên. Thế mới thấy được tinh thần lạc quan, hăng hái của con người.
Nhà thơ dành một khổ thơ riêng để nói về sự giàu có của biển cả:
“Cá nhụ, cá chim, cá đé nổi danh,
…..
Đêm buồn, sao lặn bên vịnh Hạ Long”
Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng triệt để, kể ra loạt tên của các loài cá quý hiếm: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song. Hình ảnh “lấp lánh đuốc đen hồng” tái hiện màu sắc của cá song. Đặc biệt là cách mô tả “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” thật lãng mạn.
Người đọc có thể tưởng tượng ánh trăng in bóng dưới mặt biển, những con cá quẫy đuôi tạo sóng sánh ánh trăng vàng. Trước sự giàu có đó, ta còn nghe thấy âm thanh của biển cả: “Đêm buồn, sao lặn bên vịnh Hạ Long” – đêm tối như một sinh mệnh, tràn đầy sức sống. Điều này thể hiện lòng yêu biển của Huy Cận và tài năng của ông trong việc sáng tác thơ.
Nếu bài thơ mở đầu bằng tiếng hát căng buồm khi ra khơi thì ở đây là khúc ca gọi cá vào. Tiếng hát vang lên trong những giờ làm việc xua đi mệt mỏi. Công việc trở nên vui tươi hơn nhờ lời ca, tiếng hát:
“Hát ca gọi cá vào,
…..
Phát triển đời sống từ ngày nào”
Biển trong bài thơ được mô tả với lòng biết ơn: “biển cho ta cá như lòng mẹ” – biển êm đềm, nuôi lớn nhiều người dân miền biển.
Cuối cùng sau một đêm làm việc vất vả, họ cũng thu được kết quả xứng đáng:
“Sao tối, kéo lưới đón sáng,
…..
Lưới xếp buồm, nắng hồng vừa thức”
Khi kéo lưới cũng là lúc trời mới sáng – lao động cả đêm nhưng vẫn không biết mệt mỏi. Hình ảnh “tay kéo lưới nặng cá” cho thấy sức mạnh của họ trong công việc. Đặc biệt là hình ảnh những con cá trên thuyền: “Vẩy bạc đuôi vàng lung linh”, khi thu hoạch cá xong cũng là lúc sáng rạng đông.
Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh đoàn thuyền trên hành trình trở về:
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
…..
Mắt cá lung linh muôn dặm sóng”
Những giai điệu vẫn vang lên từ khi ra khơi cho đến khi trở về. Những lời ca thể hiện niềm vui, sự phấn khích. Bình minh được mô tả với vẻ đẹp tuyệt vời. Thuyền trở về với tâm trạng nghiêm túc: “Đoàn thuyền đua với mặt trời”. Điều này thể hiện thói quen cổ kính của ngư dân là đưa cá về bến trước khi bình minh, cũng như tinh thần mạnh mẽ của họ trong việc xây dựng đất nước. Cùng với niềm vui của mọi người, nhà thơ mở ra cánh cửa cho trí tưởng tượng bay cao.
“Đoàn thuyền đánh cá” có thể coi là một bài hát về lao động đầy hứng khởi, hào hùng. Khi đọc từng câu thơ, chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước, và sự giàu có của biển khơi. Cũng như chia sẻ niềm tự hào về tinh thần lao động hăng say, yêu đời của những người lao động mới đã được giải phóng, làm chủ bản thân, làm chủ cuộc sống và đất nước.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 5)
Huy Cận là một trong những nhà thơ đặc trưng của thời kỳ thơ hiện đại của Việt Nam - một tâm hồn thơ đầy cảm hứng về thiên nhiên, đất nước và con người trong thời đại mới. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác vào năm 1958, khi miền Bắc đang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài thơ là một bức tranh về thiên nhiên và con người, về cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá vào lúc hoàng hôn, đoàn thuyền trên biển đánh bắt cá và cảnh đánh bắt cá vào lúc bình minh.
Đề tài “Con người lao động” đã làm cho tất cả các nhà thơ đều rất sáng tạo, nhưng với Huy Cận, ông đã chơi chơi xổ số tài này để viết về những ngư dân trên vùng biển Hạ Long tươi đẹp:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa”
……
Âm nhạc thúc đẩy thuyền ra khơi cùng cơn gió biển.
Câu thơ mở đầu mô tả cảnh mặt trời như một hòn lửa khổng lồ dần chìm xuống dưới đáy đại dương, tạo nên một vẻ đẹp kỳ diệu với ánh sáng hoàng hôn rực rỡ. Những gam màu rực rỡ thay thế màn đêm u tối, cùng với những con sóng như chiếc then cài tạo nên bức tranh sinh động.
Vũ trụ rộng lớn như một tổ ấm yên bình, nhưng đêm lại là thách thức với tinh thần mạnh mẽ của con người. Hình ảnh 'Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi' thể hiện sự quyết tâm của ngư dân trong mỗi ngày làm việc mới.
Từ “lại” nhấn mạnh vào sự lặp lại, trở thành thói quen. Đó là tinh thần lao động không biết mệt mỏi, không quan tâm đến thời gian, của những người lao động miền Bắc trong giai đoạn xây dựng xã hội mới. Tiếng hát kết hợp với làn gió biển thổi căng cánh buồm, giúp con thuyền ra khơi nhanh hơn.
Bút pháp 'Câu hát căng buồm' muốn nói về sức mạnh của con người lao động. Câu hát thể hiện sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người, với niềm tin vào một chuyến ra khơi thành công.
“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm trên biển, muôn luồng ánh sáng
Đến đây, ta dệt lưới, đoàn cá ơi!
Trong ca khúc của ngư dân, có kể tên các loài cá: cá bạc, cá thu… So sánh “Cá thu như đoàn thoi” không chỉ mô tả sinh động mà còn ca ngợi tài nguyên biển phong phú ở Quảng Ninh. Với trí tưởng tượng độc đáo và ngòi bút lãng mạn, nhà thơ tạo ra hình ảnh đoàn cá thu như những chiếc thoi dệt nên những tấm vải lấp lánh muôn màu sắc.
“Đến đây, ta dệt lưới, đoàn cá ơi!” là lời mời gọi đoàn cá vào lưới. Ca khúc của ngư dân không chỉ thể hiện sức mạnh mà còn tinh thần lạc quan yêu đời. Đây không chỉ là lời ca ngợi biển Quảng Ninh giàu có mà còn hữu ích trong công việc đánh bắt cá, trở thành bài hát lao động.
Với trí tưởng tượng phong phú và ngòi bút lãng mạn, nhà thơ đã đưa người đọc đến với hình ảnh tuyệt đẹp:
“Thuyền ta lái gió, buồm với ánh trăng
….
Mạng lưới bủa vây đặt sẵn cho trận chiến.
Các thuyền ra khơi với gió làm cánh buồm và ánh trăng soi sáng trên bầu trời đã trở thành nguồn sức mạnh cho ngư dân. Sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên. Đoàn thuyền giống như những con thuyền thơ lướt trên biển, với bóng trăng chiếu rọi. Và bây giờ, họ 'Ra đậu dặm xa dò bụng biển'.
Những con thuyền to lớn, uy nghiêm, hiên ngang, giống như các chiến hạm, còn người thì chuẩn bị sẵn lưới bủa vây cho trận chiến mới trên biển. Nhà thơ đã tôn vinh con người, ngang ngửa với biển cả rộng lớn.
Bao đời người ngư dân đã có mối liên kết sâu sắc với biển cả. Họ biết biển như lòng bàn tay, biết tất cả loài cá, tên gọi, hình dáng và thói quen của chúng:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
…..
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
Trên biển đêm, ánh trăng lấp lánh, cá quẫy đuôi, sóng trắng bạc vàng. Bài ca “gọi cá” vẫn vang lên, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng đồng hành cùng ngư dân, ánh trăng soi sáng bên mạn thuyền, như “gõ nhịp” hỗ trợ cho tiếng hát. Trăng chiếu sáng giúp người kéo lên những mẻ cá. Thiên nhiên và con người hoà hợp.
Bóng đêm tan, ngày mới đến, công việc trở nên sôi động, khẩn trương:
“Sao vẫn mờ khi kéo lưới dưới bình minh
….
Lưới xếp buồm lên, chờ đón ánh nắng rực rỡ.
Những nỗ lực vất vả được đền đáp. Ngư dân dồn hết sức lực vào việc kéo lưới nặng trĩu lên. Bóng họ in đậm trên bầu trời hồng của bình minh. Ánh nắng sớm chiếu sáng lên những mẻ cá đầy, làm cho chúng lấp lánh, tạo nên cảnh rạng đông rực rỡ.
Nếu ngư dân hát khi ra khơi, họ cũng hát khi trở về:
“Hát vang cùng gió khơi, căng buồm lên”
….
Mắt cá rực rỡ với ánh nắng xa phơi.”
Với bút pháp khoa trương, nhà thơ một lần nữa tưởng tượng về câu hát của ngư dân, câu hát vang vọng cùng gió thổi căng cánh buồm đưa con thuyền về bến nhanh hơn. Dường như thiên nhiên và con người hòa quyện với nhau. Tiếng hát còn thể hiện tinh thần lạc quan, niềm vui trước thành tựu lao động trên biển.
Câu hát xuất hiện ở đầu bài thơ lại lặp lại ở cuối, tạo nên sự tương ứng. Bút pháp khoa trương cùng trí tưởng tượng đã hình dung trước mắt khung cảnh tráng lệ, sôi động. Mặt biển rộng lớn biến thành trường đua giữa con người và mặt trời. Và chắc chắn con người sẽ chiến thắng bởi họ đã từng đánh bại biển cả với những khoang thuyền đầy cá.
Bài thơ thể hiện rõ tinh thần lao động của nhân dân và cảnh đẹp của đất nước với nguồn tài nguyên phong phú. Tác giả với tình yêu thiên nhiên và người lao động đã thể hiện không khí hào hùng của đất nước khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 6)
Huy Cận được coi là một trong những nhà thơ đại diện xuất sắc của văn học thi ca Việt Nam hiện đại. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được ông sáng tác tại vùng biển Hòn Gai vào ngày 1/10/1958, được in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng”.
Bài thơ được viết theo dạng thơ thất ngôn với 7 khổ, mỗi khổ thơ có 4 câu; trong sách Tiếng Việt 4, chỉ trích 5 khổ thơ. Tác giả mô tả về đoàn thuyền đánh cá trong một đêm trăng trên vịnh Hạ Long, từ đó ca ngợi tinh thần lao động hăng say và lòng yêu đời lạc quan của những người dân chài trong thời kỳ mới.
Khổ thơ đầu tiên miêu tả cảnh đoàn thuyền ra khơi khi “Mặt Trời lặn”. Mặt Trời đỏ như “hòn lửa” vừa “chìm xuống biển”, khiến sóng biển trở nên dữ dội như những chiếc then cài “đóng cửa” ngôi nhà vũ trụ. Chính thời điểm đó, đoàn thuyền ra khơi. Tiếng hát của ngư dân vang xa hòa với gió khơi đã làm căng cánh buồm. Tiếng hát và cánh buồm căng gió biển thể hiện sự phấn khích của đoàn thuyền đánh cá trước khi ra khơi.
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Khổ thơ thứ hai nói về lời cầu mong của người dân chài: ra khơi gặp sóng êm, biển lặng, và may mắn gặp đàn cá thu “như đoàn thoi”, đánh bắt được nhiều cá. Lời cầu mong ngọt ngào:
“Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi! “.
Khổ thơ thứ ba mô tả cảnh đánh cá. Những ngư dân vừa gõ thuyền đuổi cá, vừa cất tiếng hát ca tụng biển như người mẹ nhân hậu. Ánh trăng trên cao chiếu xuống biển xanh như đang vỗ vào thuyền, cùng với tiếng nhịp đuổi cá. Các câu thơ ngọt ngào và hình ảnh đẹp mang màu sắc lãng mạn:
“Hát bài ca gọi cá vào
….
Nuôi lớn đời tự buổi nào”.
Cảnh kéo lưới diễn ra khi “sao mờ” trời sắp sáng. Câu thơ “Kéo xoăn tay chùm cá nặng” không chỉ mô tả việc kéo lưới mà còn thể hiện sức mạnh, sự dẻo dai của ngư dân. Cá tươi ngon trong khoang thuyền hiện lên dưới ánh hồng rạng đông:
“Vảy bạc, đuôi vàng rạng đông”.
Màu “bạc” của vảy cá, sắc “vàng” của đuôi cá đều lóe sáng dưới ánh đông, mang lại niềm vui cho mọi người. Sử dụng từ ngữ và phối màu của Huy Cận thật tài tình.
Khổ thơ cuối bài mô tả đoàn thuyền đánh cá trở về. Hân hoan mừng vui sau một chuyến ra khơi thành công, các thủy thủ hòa cao tiếng hát. Con thuyền và mặt trời như hai nhân vật đang chạy đua trên biển, tạo nên một sáng mới rực rỡ:
“Đoàn thuyền chạy đua cùng Mặt Trời
Mặt Trời đội biển nhô màu mới”.
Và những mắt cá lấp lánh trong khoang thuyền góp phần làm cho cảnh biển sớm mai trở nên huy hoàng, tráng lệ hơn:
“Đôi mắt cá rực rỡ muôn dặm trải phơi”
Hình ảnh mắt cá ở đây biểu hiện cho cuộc sống mới đầy ấm no, hạnh phúc của người dân chài trên biển quê hương. “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ xuất sắc. Hình ảnh đẹp, ngôn từ ngọt ngào, nó là bài hát của lao động của người dân chài khi quê hương đất nước “mỗi ngày lại sáng”.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 7)
Huy Cận là một trong những cây bút nổi bật của văn học Việt Nam thế kỉ XX. Trước Cách mạng Tháng Tám, Huy Cận thường viết về nỗi buồn, cảm giác cô đơn khi con người nhận ra sự nhỏ bé của mình trước vũ trụ rộng lớn. Nhưng sau Cách mạng Tháng Tám, đất nước mới sinh, tinh thần thơ Huy Cận như được tái sinh và có nhiều biến đổi. Thơ ông không còn u sầu, mơ mộng mà đầy niềm vui, niềm tin vào cuộc sống, vào con người mới.
Năm 1958, sau một chuyến đi thực địa dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh, trải qua cuộc sống và chứng kiến sự lao động sôi nổi, khẩn trương của nhân dân ta trong những ngày xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc, thơ vui của ông tràn ngập niềm vui, xúc động. Từ đó ông sáng tác bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” như một bản hùng ca ca ngợi cuộc sống mới, thiên nhiên và con người bao la của đất nước, tạo nên một tinh thần thơ tươi mới.
Ngay từ đầu bài thơ, chúng ta đã cảm nhận được âm điệu của bài ca lao động rộn ràng, mạnh mẽ trong cảnh đoàn thuyền ra khơi. Đó là cảnh ra khơi trong hoàng hôn rực rỡ, tráng lệ, đầy sức sống:
Mặt trời buông xuống biển như ngọn lửa
…..
Câu hát vang lên cùng cánh buồm và gió biển.
Biện pháp so sánh độc đáo khơi gợi hình ảnh mặt trời như một hòn lửa khổng lồ từ từ lặn sâu vào lòng biển cả, để lại trên mặt biển những tia sáng đỏ rực, báo hiệu một ngày mới đã kết thúc, hoàng hôn bắt đầu buông xuống. Sang đến câu 2, hình ảnh thơ càng trở nên mới mẻ độc đáo, thể hiện một trí tưởng tượng phong phú của nhà thơ: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”.
Theo cảm nhận của Huy Cận, vũ trụ giống như một ngôi nhà lớn, những con sóng lăn tăn trên biển chính là chiếc then cài chặt cánh cửa của màn đêm. Câu thơ gợi cho ta cảm giác vũ trụ như đang chìm trong trạng thái nghỉ ngơi, và bóng tối bắt đầu phủ lên thiên nhiên, nhưng lại là lúc:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát vang lên cùng gió khơi.
Khi đêm về, mọi vật dần chìm vào giấc ngủ. Đó cũng là thời điểm mà con người lại bắt đầu lao động, bắt đầu một cuộc hành trình mới. Hình ảnh thơ nói lên sự cần cù, nhiệt huyết lao động của những người dân ven biển.
Công việc đánh cá mệt nhọc, nguy hiểm nhưng đoàn thuyền lại ra khơi với tiếng hát vang vọng. Tiếng hát khoẻ mạnh vang lên khắp vùng biển rộng lớn, và cả trong lòng con người, nó thể hiện niềm vui, sự phấn khởi, và niềm tin của người đánh cá khi ra khơi. Tiếng hát không chỉ giúp làm cho công việc trở nên nhẹ nhàng hơn mà còn tạo ra một sức mạnh lớn mạnh mẽ, cùng với làn gió biển đẩy thuyền đi về phía trước.
Hát lên rằng cá bạc biển Đông im lặng
….
Đến lúc dệt lưới, hãy đoàn kết lên các con cá ơi!
Những câu thơ thể hiện rõ tình yêu đam mê của người đánh cá. Họ mong muốn trời biển yên bình để có thêm cá, để cuộc sống trở nên giàu có và ấm no. So sánh “Cá thu biển Đông như một đoàn thoi” giúp chúng ta cảm nhận được sự bao la, phong phú của biển Đông, nơi mà hàng vạn loài cá được nuôi dưỡng trong lòng.
Nhìn các đàn cá thu bơi lội thành từng đàn, những con cá với những vẩy bạc sáng lấp lánh di chuyển trong nước tạo thành những luồng sáng trên mặt biển tối đen, như một khung cửi khổng lồ, cùng với những con cá như những chiếc thoi thoăn thoắt đang dệt nên tấm áo choàng rực rỡ cho vũ trụ về đêm.
Cảnh đoàn thuyền đánh bắt cá trong đêm:
Thuyền điều khiển gió với buồm trăng,
….
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
“Lái gió”, “buồm trăng” là những cách diễn đạt sáng tạo, mang đến hình ảnh lãng mạn, kì vĩ, tráng lệ. Đọc câu thơ người ta cảm nhận người, thuyền, thiên nhiên như hoà hợp làm một. Con thuyền ra khơi, lướt đi giữa lớp mây cao, biển bằng thật hùng dũng hiên ngang nó ra khơi không chỉ với khí thế hăm hở do người cầm lái mà còn được thiên nhiên nâng đỡ chở che.
Ở đây gió trở thành bánh lái của con thuyền, mà thuyền có thể điều khiển gió theo ý muốn. Cánh buồm nhỏ bé mang theo vầng trăng trong suốt cả hành trình. Ánh trăng lung linh chiếu sáng làm cho cảnh vật trở nên huyền ảo.
Con thuyền lướt đi vun vút giữa biển cả bao la, không hề nhỏ bé. Nó tiến về phía trước mạnh mẽ, không sợ hãi. Xung quanh là gió trăng làm bầu bạn. Một cảnh tượng nên thơ, hùng vĩ. Con người hoàn toàn làm chủ thiên nhiên, cảnh vật:
Ra khơi xa xôi dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Những dòng thơ khơi gợi hình ảnh về cuộc đánh bắt cá xa bờ, với những thử thách gian khổ. Nhưng điều đó không làm rung động lòng người, vì họ mang trong mình khát vọng khám phá biển cả, khám phá 'bụng biển', để tìm kiếm những đám cá lớn.
Dưới bút tài của Huy Cận, cuộc đánh cá trở thành cuộc chiến nảy lửa trên biển. Con người với trí tuệ và sức mạnh của mình, chiến đấu để chinh phục biển cả. Bằng những mạng lưới chắc chắn, họ chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận những con cá.
Cá nhụ, cá chim, và cá đé
….
Đêm vắng sao lung linh dưới biển Hạ Long.
Danh sách các loài cá như 'cá nhụ, cá chim và cá đé', khiến chúng ta nghĩ đến sự phong phú của biển cả nước ta. Đây không chỉ là nơi sinh sống của nhiều loài cá và tôm hải sản quý hiếm, mà còn là biểu tượng của sự giàu có, phong phú.
Một cảnh thiên nhiên lãng mạn, với ánh trăng bát ngát chiếu sáng khắp không gian. Ngồi đây, ta cảm nhận nhịp thở đều đặn của đại dương: Đêm vắng sao lung linh dưới biển Hạ Long.
Đêm vắng, một cách diễn đạt độc đáo của Huy Cận, khiến cho đêm trở thành một sinh vật khổng lồ, sống động. Nhịp thở của đêm chính là tiếng sóng vỗ bờ đều đặn, không ngừng.
Đó không chỉ là tiếng sóng, mà còn là những rung động, cảm xúc trong lòng người, khiến chúng ta cảm thấy gắn bó với vũ trụ. Mỗi bước di chuyển của thiên nhiên và con người đều đem lại cảm giác kỳ diệu, tinh tế. Câu thơ không chỉ tái hiện âm thanh mà còn đưa ta vào không gian, với những vì sao lung linh, ánh trăng sáng trong mắt biển, tạo ra một bức tranh yên bình và dịu dàng.
Trong bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, con người lao động miệt mài, hát vang bài ca gọi cá vào, nuôi lớn cuộc đời từ thuở nào.
Chúng ta hát bài ca gọi cá vào
….
Nuôi dưỡng cuộc sống từ thuở ấy.
Tiếng hát vút lên cao, sảng khoái, kèm theo ánh trăng lung linh in bóng trên dòng nước, nhấp nhô cùng những cơn sóng nhẹ nhàng đánh vào mạn thuyền. Cảnh vật bình dị được Huy Cận miêu tả mang hồn, ánh trăng gửi tia sáng vàng giúp cho công việc lao động dễ dàng hơn.
Sau một ngày làm việc, khi sao mờ khuất, bình minh rạng ngời, mặt trời vươn mình trên biển là lúc họ vội vàng trở về nhà.
Sao mờ khuất dần, bình minh rạng sáng
….
Lưới căng, buồm vươn chào nắng mai.
Từ ngữ 'kéo xoăn tay chùm cá nặng' giúp ta hiểu rõ hơn về sức mạnh của những người lao động khi kéo lưới. Hình ảnh chùm cá đầy mắt gợi lên niềm vui hạnh phúc của họ.
Hình ảnh “vẩy bạc, đuôi vàng loé rạng đông” dưới ánh bình minh tô điểm cho bức tranh thiên nhiên tươi đẹp. Huy Cận kết hợp màu sắc một cách tài tình, tôn vinh thành quả lao động của người dân vùng biển.
Câu thơ “Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng” với các động từ “xếp, lên, đón” diễn tả mọi công việc diễn ra theo trình tự thành thạo, nhanh chóng để trở về đất liền.
Tiếng hát căng buồm với gió khơi
….
Mắt cá rực rỡ dưới nắng đông.
Đây là lần thứ 3, Huy Cận nhắc lại câu hát này. Câu hát thay ngọn gió làm căng cánh buồm đẩy thuyền về đất liền trong một tư thế mới.
Tác giả nhân hoá hai sự vật “đoàn thuyền và mặt trời” đang chạy đua cùng nhau. Trong cuộc đua không cân sức ấy, con người đã thắng, trở về với khung cảnh thật đẹp đẽ kì vĩ.
Mắt cá huy hoàng là biểu tượng cho một cuộc sống mới tươi đẹp đang chờ đợi con người phía trước, rồi tất cả đều lấp lánh rạng rỡ dưới ánh nắng.
Trước CMT8, thơ Huy Cận thường thấm đượm nỗi buồn, nhưng trong bài thơ này không còn, thay vào đó là một hồn thơ yêu đời, tràn đầy niềm tin tưởng vào tương lai.
Bài thơ kết hợp hai nguồn cảm hứng lớn, thiên nhiên và con người lao động, thể hiện sự thống nhất qua kết cấu và hệ thống thi ảnh.
Bài thơ khen ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên và sự giàu có của biển khơi thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của ngư dân vùng biển Hạ Long.
Đánh giá về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 8)
Bài thơ của Huy Cận, Đoàn thuyền đánh cá, được viết vào năm 1958 tại vùng biển Quảng Ninh, phản ánh tinh thần lao động sôi nổi trong xây dựng hòa bình.
Mô tả cảm hứng trữ tình theo chuỗi thời gian: hoàng hôn - đêm trăng - bình minh, biểu trưng cho một thời đại mới nở hoa.
Miêu tả cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá, biển trong cảnh hoàng hôn tráng lệ, mặt trời xuống biển như một hòn lửa rực rỡ.
Bầu trời và mặt biển bao la như ngôi nhà vũ trụ trong khoảnh khắc bóng tối mịt mù, với những con sóng như những chiếc 'then cài' của ngôi nhà vĩ đại ấy.
Mặt trời lăn xuống biển như một hòn lửa
Biển đêm đã như một bức tấm treo sóng.
Khi mặt trời lặn, đoàn thuyền bắt đầu ra khơi:
Đoàn thuyền lại bắt đầu cuộc hành trình ra khơi,
Hòa nhịp với gió, tiếng hát vang trên biển mênh mông.
Không chỉ một thuyền mà là cả một đoàn thuyền, biểu tượng cho sức mạnh và sự đoàn kết. Từ 'lại ra khơi' thể hiện sự ổn định trong lao động và cuộc sống hòa bình của ngư dân.
Cánh buồm trên biển càng nặng gió càng “căng” lên. Tiếng hát và gió biển cùng vang lên, buồm càng căng tròn, tất cả tạo nên một bức tranh tinh thần hăng say của người dân chài.
Hát rằng: dòng cá bạc trong biển Đông đang yên lặng,
….
Đến dệt lưới, ta cùng đoàn cá ơi!”
Công việc ra khơi đánh cá thường mang nhiều rủi ro. Ngư dân mong muốn biển động êm, sóng lặng, và gặp được nhiều cá. Điều này phản ánh lòng tốt của họ, đã trải qua nhiều gian nan trên biển. Câu hát ngọt ngào, xa vang: “cá bạc”, “đoàn thoi”, “dệt biển”, “luồng sáng”, “dệt lưới” vẫn mang đến cho người đọc những hình ảnh tuyệt vời về lao động.
Bốn khổ thơ tiếp theo mô tả cảnh đánh cá trong đêm trăng trên vịnh Hạ Long. Mỗi khổ thơ vẽ lên vẻ đẹp của biển, sông, trăng sao, và con người trẻ trung, khỏe mạnh. Hạ Long là một trong những điểm du lịch đẹp nhất của Việt Nam, đặc biệt vào đêm trăng. Huy Cận đã sử dụng bút pháp lãng mạn để tả cảnh đánh cá trên Hạ Long vào đêm trăng một cách tuyệt vời.
Đoàn thuyền cưỡi gió, lướt trên biển dưới ánh trăng. Ngư dân lao vào công việc với sự nhanh nhẹn và quyết đoán. Cuộc đánh cá như một trận chiến, mỗi ngư dân là một chiến binh. Mọi dụng cụ trên thuyền đều trở thành vũ khí. Tốc độ ra khơi của đoàn thuyền được mô tả bằng từ “lưới”; thiên nhiên và con người hợp tác trong công việc và khám phá. Nhịp thơ nhanh chóng và hấp dẫn:
Thuyền ta cưỡi gió với buồm trăng
….
Mạng lưới thắt chặt sẵn sàng bắt cá.
Phần miêu tả về đàn cá là phần đặc biệt nhất. Biển nước Việt Nam phong phú với nhiều loài cá quý, cá ngon như: “Chim, thu, nhụ, đé”. Sử dụng sáng tạo từ ngôn từ dân gian, ở phần trên, nhà thơ đã viết: “Cá thu biển đông như đoàn thoi”, ở đây lại miêu tả: “Cá nhụ, cá chim cùng cá đé”. Hình ảnh của con cá là một bức tranh tài hoa: vẩy cá đen, hồng, lấp lánh trên biển nước ánh trăng “vàng chóe”. Đuôi cá quẫy được so sánh với ngọn đuốc rực cháy. Sự kết hợp màu sắc tinh tế tạo ra vần thơ rực rỡ như một bức tranh sơn dầu.
Nhìn những con cá bơi lượn, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm, mắt nhìn về xa. Câu thơ huyền ảo lung linh: “Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long”, như đưa người đọc đi vào cõi mơ màng. Phải có một tình yêu sâu sắc với biển mới có thể tạo ra những vần thơ tuyệt vời như thế. Sung sướng nhìn đàn cá “dệt lưới”, những người dân chài vang lên tiếng hát ngọt ngào. Lần thứ hai tiếng hát vang lên trên biển. Tiếng gõ thuyền đuổi cá hòa cùng sóng biển.
Trăng soi xuống biển, ánh vàng lan tỏa theo làn sóng, đập vào mạn thuyền. “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”. Biển rộng lớn mang lại cho nhân dân nhiều tôm cá, muối và hải sản… Biển “như lòng mẹ” đã nuôi sống nhân dân ta từ bao đời nay. So sánh biển với lòng mẹ để nói lên lòng tự hào của dân chài đối với biển quê hương. Giọng thơ ấm áp, chứa đựng nghĩa tình:
Biển cho ra cá như một bà mẹ,
Như đã nuôi lớn chúng ta từ bao giờ.
Một đêm trôi nhanh trong nhịp điệu lao động hào hứng, hăng say. Trên bầu trời, những ngôi sao đã thưa và mờ đi. Cảnh kéo lưới được mô tả đầy ấn tượng. Những cánh tay rắn chắc kéo lưới “xoăn tay”. “Kéo xoăn tay” là một hình ảnh đặc biệt miêu tả động tác kéo lưới mạnh mẽ, khỏe mạnh và đẹp đẽ. Cá mắc vào lưới như những chùm trái cây treo lủng lẳng. “Chùm cá nặng” là một hình ảnh ẩn dụ cho mùa cá.
Khoang thuyền tràn đầy cá. Màu bạc của vẩy cá, màu vàng của đuôi cá “lóe rạng đông”. Một lần nữa thể hiện nghệ thuật sử dụng màu sắc của nhà thơ rất tinh tế, sắc cá dưới ánh trăng và sắc cá dưới áng rạng đông đều được miêu tả tuyệt vời:
Sao tan mờ, kéo lưới trước khi trời sáng,
Ta kéo lưới mạnh mẽ, chùm cá nặng nề
Vảy bạc, đuôi vàng lấp lánh dưới ánh bình minh.
Khổ thơ cuối mô tả cảnh đoàn thuyền quay trở lại bến vào lúc rạng đông. Lần thứ ba, ngư dân trên thuyền lại cao lên tiếng hát – tiếng hát chiến thắng đầy vui mừng. Thuyền và mặt trời được nhân hóa. Thơ được cấu trúc song hành diễn tả nhịp sống hối hả:
Thuyền đua với mặt trời trên biển,
Mặt trời như từ lòng biển nhô ra với màu sắc mới.
Cảnh rạng sáng với hình ảnh “mặt trời vươn lên từ biển… “phát sáng, lan tỏa ánh sáng ấm áp, một “màu sắc mới” phủ lên biển cả. Đoàn thuyền lao về bến như đang đua thời gian, tranh giành thời gian. Sử dụng biện pháp so sánh kết hợp với nghệ thuật ám chỉ trong việc mô tả “mắt cá lấp lánh muôn dặm dưới ánh trăng ” đã tạo ra cảnh mùa cá và cuộc sống phồn thịnh của người dân ven biển. Bằng lao động và mồ hôi, họ đã viết nên bài ca về cuộc đời.
Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ tiêu biểu của Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám. Trước đây, thơ của Huy Cận thấm đầy nỗi buồn “vạn cổ đau khổ ” của vũ trụ và con người, nhưng từ năm 1945 trở đi, nhất là trong bài “Đoàn thuyền đánh cá”, thơ của ông mang dòng điệu ngọt ngào, niềm vui sảng khoái và phấn chấn của người lao động đang kiểm soát cuộc sống.
Qua những bài thơ của Huy Cận, ta như được trải qua những đêm trăng đẹp trên Vịnh Hạ Long, tự hào về ba ngàn dặm bờ biển của quê hương ta; biển cả của ta giàu có, tiềm năng vô tận, phong phú với hải sản.
Cảnh đánh cá trên biển được mô tả với sự lãng mạn. Lao động thực sự là niềm hạnh phúc cuộc đời. Trong xã hội của chúng ta, lao động là điều quý báu nhất, người lao động là những người quý báu nhất. Hình ảnh của người dân chài trong bài thơ là biểu tượng của sức mạnh lao động. Họ kiên trì, dũng cảm và chăm chỉ.
Cuộc sống của họ gắn liền với sóng gió mưa nắng biển cả, khai thác nhiều loại hải sản. Chính họ đã mang đến muối và hương vị biển cho mọi gia đình ở khắp mọi nơi, làm cho bữa ăn trở nên phong phú với tôm, cá. Cùng với nhà nông “một nắng hai sương”, những người dân chài đã dạy cho chúng ta về sự cần cù, tinh thần lạc quan trong lao động.
Thật sự, “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ xuất sắc. Những hình ảnh về đàn cá biển, về người dân chài đánh cá, kéo lưới, hát ca… cho thấy một tinh thần thơ đẹp.
Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 9)
“Mặt trời vươn lên khơi biển với sắc màu mới
Đôi mắt cá huyền bí rạng ngời giữa bể dạt dào”
Tác giả Huy Cận đã sử dụng nghệ thuật miêu tả để tạo ra bức tranh sinh động về buổi bình minh trên biển. Ông đã thành công trong việc sử dụng ngôn từ để vẽ lên ba cảnh biển khác nhau một cách sống động. Tranh cảnh bình minh ông miêu tả cảnh mặt trời mọc và biển. Khi mặt trời vươn lên, biển đã xua đi bóng tối và mang đến một sắc đỏ lửa rực. Biển đẹp mê hồn nhưng với bút pháp của tác giả, nó trở nên huyền ảo hơn. Biển trong cảnh bình minh như một nàng tiên cá đang vui đùa trên sóng biển với vẻ đẹp rạng rỡ.
Huy Cận không chỉ mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn thể hiện cuộc sống lao động của người dân.
“Sao đêm khuất ngàn cánh mắc câu
Chúng ta kéo lưới với cánh tay mệt nhoài”
Tác giả đã sử dụng nghệ thuật hiện thực và lãng mạn để tái hiện không khí năng động, sôi nổi của cuộc sống hàng ngày. Công việc làm việc cực kỳ vất vả. Họ phải làm việc suốt đêm. Việc kéo lưới đòi hỏi sức mạnh, tay chúng ta căng tròn với nhau như thể hiện trong hai câu thơ sau:
“Chiếc váy bạc lấp lánh dưới ánh bình minh sớm
Những chiếc lưới xếp lại, buồm trên cao chờ đón ánh nắng hồng”
Thật sự, tác giả Huy Cận đã phải đi và quan sát rất kỹ mới có thể miêu tả như vậy. Hai câu thơ trên mô tả cảnh lưới được kéo lên, khoang thuyền đầy ắp cá. Những vảy bạc, những chiếc đuôi vàng như 'loé sáng' dưới ánh bình minh sớm. Cảnh tượng thật sự tuyệt vời. Đó là kết quả của công việc vất vả, mệt nhọc của những người đánh cá sau một đêm làm việc. Cảnh đoàn thuyền đánh cá quay về:
Hình ảnh của đoàn thuyền ra khơi thật đẹp, với gam màu ấm áp và âm thanh rộn ràng. Cảnh chiều trên biển được mô tả qua góc nhìn của dân chài. Đó là hình ảnh của “Mặt trời lặn xuống biển như một ngọn lửa” tạo ra một vẻ đẹp lộng lẫy và huyền ảo. Nhưng điều đáng chú ý trong bài thơ của Huy Cận là cách diễn đạt rất độc đáo và mới mẻ.
Mô tả biển khi đêm buông xuống “Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. Tác giả đã sử dụng phép nhân hoá để làm cho người đọc cảm nhận được biển như một ngôi nhà lớn với cửa đóng lại và then cài, đồng thời “Đoàn thuyền đánh cá ra khơi”. Cảnh đoàn thuyền ra khơi không chỉ lạc quan, vui tươi mà còn an toàn như trở về ngôi nhà ấm áp, an lành:
“Tiếng hát vang lên cùng gió biển
Đoàn thuyền cạnh tranh với mặt trời
Mặt trời tô điểm biển với sắc màu mới
Mắt cá lung linh trên dặm biển rộng lớn”
Tác giả nhận thấy rõ khi quay về, người dân vẫn giữ nguyên tình yêu với cuộc sống. Họ vẫn tiếp tục lao động chăm chỉ, đua với thời gian: “Đoàn thuyền cạnh tranh với mặt trời”
Khi ra khơi “Tiếng hát vang lên cùng gió biển”, khi làm việc hát bài ca gọi cá vào, bây giờ khi trở về, họ vẫn hát. Tâm hồn họ tràn đầy niềm vui. Họ yêu thích cuộc sống mới, họ là chủ nhân của cuộc sống, muốn cố gắng lao động để xây dựng tương lai tươi sáng.
Tác giả còn miêu tả con người trong cuộc sống mới. Tâm hồn của những người đánh cá bay bổng với niềm vui thảnh thơi:
“Chúng ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã nhịp theo đèn trăng cao”.
Dưới ánh trăng cao, chúng ta cùng nhau, gần kề bên nhau để cảm nhận sự giao hòa giữa con người và thiên nhiên trong cuộc sống lao động. Những người trong cộng đồng này đều khỏe mạnh và đầy năng lượng, họ dành trọn cuộc đời cho sự phát triển của bản thân và xã hội.
'Sao mờ khi mà lưới kéo dài,
Cánh tay vẫn xoăn để giữ chắc mối liên kết với những con cá nặng nề.'
Họ tự tin và quyết đoán trong việc xây dựng cuộc sống của mình. Thuyền và con người trở nên vĩ đại và to lớn, phản ánh tinh thần mạnh mẽ, sôi động và đầy hứng khởi trong cuộc sống mới, với những ước mơ lớn lao và sự đồng lòng trong việc chinh phục thiên nhiên.
Tác phẩm 'Đoàn thuyền đánh cá' của Huy Cận mang lại cảm giác của một bài thơ lao động sôi nổi và bay bổng. Cách sắp xếp từ vựng mạch lạc và sử dụng hình ảnh sống động làm cho bài thơ trở nên hấp dẫn. Tác giả đã thành công trong việc kết hợp giữa hiện thực và tình cảm, tạo ra một tác phẩm thơ độc đáo và sâu sắc.
'Đoàn thuyền đánh cá' của Huy Cận là một bài thơ ca ngợi cuộc sống mới và con người mới. Nó tràn ngập niềm vui và sự hứng khởi của người lao động, nhấn mạnh vào sự kiên nhẫn và lòng dũng cảm của họ trong mọi tình huống. Bài thơ cũng tôn vinh vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên và đất nước, thể hiện phong cách thơ độc đáo của Huy Cận.
'Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá'
Bốn dòng cuối của bài thơ 'Đoàn thuyền đánh cá' tạo ra một hình ảnh hoành tráng về cuộc đua của con người với ánh nắng mặt trời. Sự lặp lại của câu đầu tiên và cuối cùng trong mỗi đoạn thơ tạo nên sự cân đối và hài hòa, nhấn mạnh vào niềm vui của lao động và vẻ đẹp của quê hương. Điều này cũng thể hiện sự hào hứng và sự phấn khích của người đàn ông biển.
'Dòng hát vang lên cùng gió biển,
Đoàn thuyền đua với ánh nắng rực rỡ'
Trong hành trình của người dân chài, dòng hát luôn đồng hành. Nó khởi đầu khi họ ra khơi và kết thúc khi trở về. Hát lúc xuất phát tràn ngập hy vọng, hát khi trở về đầy ắp niềm vui sau những đêm lao động nỗ lực.
Không chỉ có dòng hát ở khổ thơ cuối, mặt trời cũng xuất hiện. Nếu buổi sáng là thời điểm mặt trời mọc, đây là thời điểm mới bắt đầu, niềm vui và hạnh phúc sau một chuyến hành trình vất vả của người dân chài. Hình ảnh cuối cùng trong bài thơ là một điểm nhấn tuyệt vời: 'Đoàn thuyền đua cùng mặt trời'.
Hình ảnh đoàn thuyền được so sánh với mặt trời. Tác giả tạo ra một sự so sánh giữa một vật thể nhỏ bé và đơn giản với mặt trời vĩ đại. Việc nhân hoá con thuyền tôn lên sức mạnh và sự kiên cường của người dân chài sau một đêm lao động vất vả.
Tác giả làm nổi bật tư thế của những người lao động, đặc biệt là người dân chài. Họ trở về với tư thế lớn lao và kì vĩ, vượt qua cả thiên nhiên. Họ làm chủ cuộc đua với thiên nhiên và chiến thắng.
Khi mặt trời mọc, một ngày mới bắt đầu và đoàn thuyền trở về bến:
'Mặt trời dần hiện trên biển,
Cá vẫy đuôi huy hoàng trải dài'
Một hình ảnh mới về mặt trời hiện ra, không phải từ thiên nhiên mà từ hàng nghìn mắt cá lấp lánh trong bình minh. Đó là niềm vui của sự thành công, niềm hạnh phúc khi thu hoạch được cá, niềm tự hào của người lao động khi họ thống trị không gian, thống trị cuộc sống.
Câu cuối của bài thơ không chỉ mô tả thực tế mà còn tạo ra hình ảnh một tương lai sáng sủa, tràn ngập vinh quang: 'Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi'. Ngày mới bắt đầu - thành quả của lao động được trải dài như muôn dặm biển phơi - một cuộc sống mới đang được hình thành, phát triển...
'Cảm nhận về bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (mẫu 11)'
Bằng cách sử dụng kỹ thuật lãng mạn, tác giả vẽ nên hình ảnh lớn lao và kỳ vĩ của con người trong cảnh đánh bắt cá trên biển.
'Thuyền ta lái gió, cùng buồm trăng
'Lướt giữa mây cao, trên biển sâu
'Ra đậu dặm xa, tìm vùng biển mở
'Dàn đan thế trận, lưới vây đầy'
Sau khi giới thiệu về đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong bối cảnh hùng vĩ, tác giả đã mô tả cảnh đánh cá ngoài biển. Khung cảnh biển đêm rực rỡ sắc màu và phong cảnh tươi đẹp của thiên nhiên được vẽ nên tài hoa, cùng với niềm tin và sự lạc quan của con người.
Trên bức tranh thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên rất đẹp đẽ.
'Thuyền ta lái gió, buồm trăng sáng'
'Lướt giữa mây cao, trên biển sâu xanh'
Hai từ 'thuyền ta' vẫn vang lên tự tin và kiêu hãnh. Qua những ngày bị áp bức và bóc lột, con người đã giành lại sự tự do và tự chủ.
Thuyền được lái bằng gió và buồm sáng từ ánh trăng. Đoàn thuyền không di chuyển nhờ sức mạnh của con người mà nhờ vào sức mạnh của câu hát kết hợp với gió và ánh trăng. Nhờ vào sức mạnh vũ trụ, con thuyền nhỏ đã trở nên vĩ đại và người trên thuyền đã thể hiện tư thế làm chủ:
Khám phá biển rộng, vượt xa những giới hạn
Mênh mông biển cả như một thế giới lớn
Con người, dẫu nhỏ bé, vẫn dám đối diện với sức mạnh của thiên nhiên để tìm hiểu và khám phá