1. Bài viết mẫu số 4
'Cảnh ngày xuân' là một đoạn trích đặc sắc, thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du qua hình ảnh thiên nhiên. Trong khi các câu thơ đầu tạo nên bức tranh mùa xuân tươi sáng, sáu câu thơ cuối lại mô tả cảnh chiều tà khi lễ hội Thanh minh kết thúc và hai chị em Thúy Kiều ra về. Cảnh vật hiện lên với màu sắc u buồn, thể hiện qua biện pháp 'tả cảnh ngụ tình'.
'Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang'
Sáu câu thơ này miêu tả cảnh Thúy Kiều ra về với không khí buồn vương. Khác với sự nhanh chóng ở phần đầu, thời gian ở đây trôi chậm rãi với hình ảnh mặt trời lặn và bước chân của hai chị em mang tâm trạng lưu luyến. Tác giả đã sử dụng hệ thống từ láy 'tà tà', 'thơ thẩn', 'nho nhỏ', 'thanh thanh', 'nao nao' để làm nổi bật cảm xúc và cảnh vật.
'Nao nao dòng nước uốn quanh'
'Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang'
Dòng nước chảy lững lờ, cùng với cầu nhỏ gợi lên cảnh vật và tâm trạng lưu luyến. 'Nao nao' còn dự báo về cuộc gặp gỡ sắp tới của Thúy Kiều và chàng Kim. Tác giả đã khéo léo kết hợp tả cảnh và ngụ tình, tạo nên sự hòa quyện giữa cảm xúc và thiên nhiên:
'Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu'
'Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'
'Người buồn cảnh cũng thẫn thờ'
'Cảnh buồn người cũng ngẩn ngơ ưu sầu'
Như vậy, sáu câu thơ cuối thể hiện sự tương tác giữa cảnh và tình, với cảnh vật mang màu sắc u buồn, phản ánh tâm trạng con người. Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình và các hình ảnh tạo hình để thể hiện khả năng nghệ thuật xuất sắc.
2. Bài mẫu số 5
Dù đã hơn ba thế kỷ trôi qua, 'Truyện Kiều' của Nguyễn Du vẫn vang vọng và len lỏi vào sâu trong tâm hồn và văn hóa của người Việt. Những câu thơ trong tác phẩm tiếp tục được yêu thích qua các hình thức như bói Kiều, vịnh Kiều và ngâm Kiều. Vậy điều gì tạo nên sức hút lâu bền của tác phẩm? Không chỉ bởi nội dung sâu sắc mà còn nhờ các yếu tố nghệ thuật độc đáo. Một trong những nghệ thuật đỉnh cao trong 'Truyện Kiều' là 'tả cảnh, tả tình' (hay còn gọi là tả cảnh ngụ tình). Sáu câu thơ cuối đoạn trích 'Cảnh ngày xuân' là một ví dụ tiêu biểu cho thành công nghệ thuật này.
'Tà tà bóng ngả về tây'
'Chị em thơ thẩn dang tay ra về'
'Bước dần theo ngọn tiểu khê'
'Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh'
'Nao nao dòng nước uốn quanh'
'Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.'
Các câu thơ trước tạo nên một bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân tươi vui, rộn ràng dưới ánh sáng bình minh. Tuy nhiên, sáu câu thơ cuối chuyển cảnh sang chiều hoàng hôn với không khí buồn bã, lắng đọng. Đoạn thơ miêu tả cảnh Thúy Kiều và chị em trở về, với hình ảnh 'tà tà' và 'thơ thẩn', diễn tả sự chuyển giao từ niềm vui sang nỗi buồn luyến tiếc.
Khung cảnh mùa xuân náo nhiệt đã kết thúc, thay vào đó là sự yên ả, nhẹ nhàng. Cảnh vật được thu nhỏ lại trong bước chân ra về, dòng nước nhỏ và cây cầu nhỏ:
'Bước dần theo ngọn tiểu khê'
'Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh'
'Nao nao dòng nước uốn quanh'
'Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.'
Cảnh vật chuyển từ sự rộng lớn và tươi vui sang vẻ nhỏ nhắn, thanh thản của buổi chiều tà. Những từ láy như 'nao nao', 'tà tà', 'thơ thẩn', 'thanh thanh' không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn thể hiện tâm trạng con người: sự lưu luyến, bâng khuâng đối lập với không khí ngày lễ hội sáng sớm.
Nguyễn Du tinh tế miêu tả dòng nước chảy với từ 'nao nao', không chỉ gợi sự chảy chậm mà còn thể hiện tâm trạng u sầu. Từ 'nao nao' gợi lên cảm giác không chỉ về dòng nước mà còn về sự bâng khuâng trong lòng người. Cảnh vật không buồn nhưng thời gian và lòng người đều đượm buồn, dự báo cuộc gặp gỡ sắp tới giữa Thúy Kiều và Kim Trọng.
Tóm lại, với bút pháp tả cảnh ngụ tình và việc sử dụng từ láy, hình ảnh biểu cảm, Nguyễn Du đã khắc họa thành công bức tranh chiều tà trong ngày hội xuân, thể hiện tài năng miêu tả cảnh và tình của ông.
3. Bài mẫu số 6
Nguyễn Du, một vĩ nhân trong lịch sử văn học Việt Nam, xuất thân từ một gia đình quý tộc lâu đời với truyền thống làm quan. Ông không chỉ là một nhà nho uyên bác mà còn là một đại thi hào có ảnh hưởng sâu rộng. Tác phẩm 'Truyện Kiều' của Nguyễn Du đã không chỉ nổi danh trong nước mà còn lan tỏa ra toàn thế giới. Đoạn trích 'Cảnh ngày xuân', thuộc phần đầu của 'Truyện Kiều', miêu tả không khí xuân và hành trình du xuân của chị em Thúy Kiều.
'Cảnh ngày xuân' là bức tranh mùa xuân sinh động và phong phú mà Nguyễn Du khắc họa trong 'Truyện Kiều'. Ngày xuân rực rỡ được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên tươi đẹp. Trong khi tám câu thơ trước tập trung vào lễ hội Thanh Minh và khung cảnh sôi động của ngày hội, sáu câu thơ cuối miêu tả cảnh Thúy Kiều và chị em ra về khi trời đã dần về chiều, không khí buổi chiều tạo nên cảm giác hiu quạnh và nỗi buồn man mác trong lòng nhân vật, đặc biệt là Thúy Kiều.
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Những hình ảnh như 'tiểu khê' và 'nho nhỏ' tạo nên không gian nhỏ nhắn, tinh tế, như mọi thứ dần thu nhỏ lại, hòa quyện với nỗi buồn của khoảnh khắc tàn ngày. Ba từ láy 'thanh thanh', 'nao nao', và 'nho nhỏ' không chỉ tạo hình sống động mà còn thể hiện cảm xúc sâu lắng.
Đặc biệt, từ 'nao nao' không chỉ mô tả dòng nước mà còn truyền tải tâm trạng xao xuyến, bồi hồi của nhân vật. Những từ láy này khiến cho cảnh vật trở nên đượm màu tâm trạng, thể hiện cảm giác bâng khuâng, nuối tiếc. Nguyễn Du với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã khắc họa không chỉ bức tranh xuân đẹp mà còn tâm hồn nhạy cảm của nhân vật.
Nguyễn Du đã khéo léo vận dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình để tạo nên thành công cho bức tranh mùa xuân. Ngôn ngữ thơ phong phú với từ láy, từ ghép biểu cảm, và nhịp thơ linh hoạt đã thể hiện được cảm xúc của nhân vật một cách sâu sắc. Trích đoạn 'Cảnh ngày xuân' đã làm sáng tỏ tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du, dựng lên trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân rực rỡ và tinh tế của Thúy Kiều.
4. Bài mẫu số 1
Khung cảnh trong buổi chiều của ‘Cảnh Ngày Xuân’ không còn sự sôi nổi, vui tươi như lúc sáng sớm của ngày Thanh Minh mà chuyển sang một màu sắc u buồn, lắng đọng. Sáu câu thơ cuối của bài ‘Cảnh Ngày Xuân’ vẽ nên một không gian đầy nỗi niềm ưu tư và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tinh tế của Nguyễn Du:
“Tà tà bóng ngả về Tây
Chị em thở thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”
Giọng thơ không còn náo nhiệt, mà lắng xuống, chậm rãi, kéo dài một nỗi buồn sâu lắng, làm bừng lên cảm giác bâng khuâng, xót xa. Bức tranh buổi chiều này hòa quyện ba yếu tố: thời gian, cảnh vật và con người. Nguyễn Du khéo léo mở ra khung cảnh hoàng hôn trữ tình, nhẹ nhàng, tự nhiên:
“Tà tà bóng ngả về Tây”
Từ “tà tà” gợi ra ánh nắng nhẹ nhàng đang lả lướt về phía chân trời xa, như muốn níu lại những khoảnh khắc cuối cùng của ngày xuân. Nhịp sống chậm rãi không làm cảnh vật trở nên u ám mà mang đến một sắc thái nhẹ nhàng, khác biệt với các mô típ buồn tủi trong văn học cổ.
Ánh nắng chiều buông xuống, phủ lên cảnh vật một lớp mờ ảo, mang theo nỗi buồn:
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”
Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng các hình ảnh như ngọn tiểu khê, dòng nước và cầu nhỏ để dựng nên bức tranh chiều tà. Những cảnh vật này giúp khắc họa sự chuyển động chậm rãi của thời gian. “Ngọn tiểu khê” in bóng dài, dòng nước uốn khúc, và cầu nhỏ cuối ghềnh đều toát lên một cảm giác bâng khuâng, tiếc nuối.
Từ láy “nao nao”, “thanh thanh”, và “nho nhỏ” làm dịu đi khung cảnh chiều tà, không còn u ám mà vẫn thanh tao và lãng mạn. Mặc dù nhỏ bé, cô quạnh, nhưng vẫn đẹp và nhẹ nhàng, làm say lòng bao người. Các cảnh vật được chiếu sáng từ gần đến xa, từ nhỏ đến lớn, tạo nên một bức tranh chiều tuyệt đẹp. Nguyễn Du đã khéo léo áp dụng quy luật tả cảnh ngụ tình, cho thấy sự hòa quyện giữa cảnh và người:
“Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
….
Nhìn xem phong cảnh có bề thanh thanh.”
Vào buổi sáng Thanh Minh, trời trong sáng và đầy sức sống, nhưng khi chiều đến, bữa tiệc vui cũng kết thúc. Con người trở về với sự bình yên và nhịp sống chậm rãi của cuối ngày. Những từ láy không chỉ miêu tả tâm trạng mà còn gợi cảm xúc của người. “Thơ thẩn” thể hiện trạng thái lạc lõng và tiếc nuối của chị em Kiều khi ra về. Các từ láy “nao nao”, “thanh thanh”, và “nho nhỏ” như một điệp khúc, làm nổi bật cảm xúc sâu lắng và nỗi buồn miên man.
Cảnh vật tĩnh lặng, nhưng lòng người không yên. Cụm từ “dang tay” như cố gắng níu giữ những dư vị cuối cùng của tiết Thanh Minh, như cái ôm đồng cảm với nỗi lòng của hai chị em Kiều. Cảnh và người hòa quyện, làm nên một bức tranh đẹp và hòa hợp, với chút sầu cay.
Đoạn thơ ngắn nhưng được đầu tư công phu với nhiều bút pháp nghệ thuật độc đáo, vừa cổ điển vừa hiện đại, đầy thi vị. Nhịp thơ lững lờ, với các thanh trắc đan xen, thể hiện nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Bức tranh ánh chiều chan chứa màu sắc, âm thanh, và hồn người lay động, mở ra những dự cảm bất an trong cuộc đời Kiều. Hội xuân kết thúc, Kiều trở về cuộc sống thường nhật, nhưng liệu cuộc đời nàng có được bình yên như mong đợi? Bức tranh ‘Cảnh ngày xuân’, đặc biệt là sáu câu thơ cuối, hé lộ phần nào cuộc đời và nỗi niềm của Thúy Kiều.
5. Bài tham khảo số 2
Trong thơ cổ điển, khi mô tả cảnh vật, thường gắn liền với cảm xúc của nhân vật. Khung cảnh không chỉ là vật thể mà còn phản ánh tâm trạng của người trong đó. Chẳng hạn, câu thơ “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” thể hiện điều đó rõ ràng. Thơ Nguyễn Du cũng bám sát nguyên tắc này, như ở đoạn cuối bài “Cảnh ngày xuân”. Sáu câu thơ này không chỉ mô tả kết thúc của ngày hội xuân mà còn phản ánh cảm xúc của nhân vật.
Bóng tà dần ngả về phía tây
Chị em lững thững ra về
Chiều đã đến, mặt trời đang dần khuất về phương tây. Trong văn học, thời điểm chiều thường gợi nhiều cảm xúc, nỗi niềm. Vì thế, hành động “dang tay” của ba chị em không chỉ là sự ra về mà còn chứa đựng tâm trạng hoài niệm, buồn bã. Mùa xuân trôi qua nhanh chóng, giống như ngày hội cũng sắp kết thúc, để lại trong lòng người một nỗi niềm trăn trở.
Bước chầm chậm theo con suối nhỏ
Ngắm phong cảnh có vẻ thanh bình
Dòng nước uốn quanh một cách êm ả
Cầu nhỏ bắc qua ghềnh dịu dàng
Khung cảnh hiện lên với nét nhẹ nhàng, trong sáng. Từ ngữ như “thanh bình”, “nhỏ bé”, “dịu dàng” tạo nên một bức tranh thanh thoát, mơ màng. Chiều về, mọi vật trở nên tinh tế, ánh sáng cũng dịu đi. Bức tranh không chỉ đẹp mà còn mang theo một cảm giác buồn nhẹ, như một dự cảm về những gì sắp xảy ra. Cách miêu tả của Nguyễn Du là sự kết hợp tinh tế giữa cảnh và tâm trạng.
Cuối tác phẩm, Nguyễn Du tạo ra hai bức tranh thiên nhiên, cũng đồng thời là hai bức tranh tâm trạng. Bức tranh đầu tươi vui, tràn đầy sức sống, trong khi bức tranh cuối lại mang cảm giác buồn bã, lặng lẽ. Cảnh vật không chỉ là cảnh, mà còn là tình cảm, tâm trạng của những tâm hồn nhạy cảm và dự cảm cho những sự kiện sắp tới, làm nổi bật tài năng của Nguyễn Du.
Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng ngôn từ để thể hiện cả vẻ đẹp của cảnh vật và tâm trạng của nhân vật. Ông sử dụng các từ láy như “nao nao”, “tà tà”, “thanh thanh” để mô tả cảnh vật và tâm trạng nhân vật một cách sinh động. Giọng thơ thể hiện sự luyến tiếc, nỗi buồn. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của ông thực sự tinh tế.
Bằng tài năng và sự khéo léo trong việc tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh đẹp và buồn sau ngày hội. Bức tranh này không chỉ phản ánh tâm trạng của những người trẻ tuổi sau lễ hội mà cũng đặt nền tảng cho các sự kiện tiếp theo.
6. Bài tham khảo số 3
Truyện Kiều của Nguyễn Du không chỉ là một tác phẩm có giá trị nội dung sâu sắc mà còn thể hiện bút pháp nghệ thuật tinh xảo của tác giả. Đặc biệt, sáu câu thơ cuối trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” minh chứng cho tài năng tả cảnh ngụ tình của đại thi hào Nguyễn Du.
“Bóng tà dần ngả về phía tây
Chị em lững thững ra về
Bước chầm chậm theo con suối nhỏ
Ngắm cảnh vật với vẻ yên bình
Dòng nước uốn lượn nhẹ nhàng
Cầu nhỏ bắc qua ghềnh”
Sáu câu thơ mô tả cảnh chị em Thúy Kiều trở về sau chuyến du xuân, tạo nên một bức tranh chiều xuân đầy thơ mộng và buồn bã. Tác giả miêu tả cảnh vật với những nét nhẹ nhàng, chậm rãi, hòa quyện với tâm trạng lưu luyến, tiếc nuối của nhân vật. Bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du đã khắc họa rõ rệt tâm trạng của chị em Thúy Kiều khi phải chia tay hội xuân:
“Bóng tà dần ngả về phía tây
Chị em lững thững ra về”
Câu thơ chứa đựng một nỗi buồn sâu sắc. Từ láy “tà tà” với nhịp điệu chậm rãi vừa gợi hình ảnh mặt trời khuất dần vừa phản ánh sự tiếc nuối của chị em Thúy Kiều khi phải rời xa khoảnh khắc tươi đẹp của ngày xuân. Từ “lững thững” thể hiện sự luyến tiếc không nguôi.
“Bước chầm chậm theo con suối nhỏ
Ngắm cảnh vật với vẻ yên bình”
Cảnh vật không còn náo nhiệt như trong những câu thơ đầu tiên mà đã chuyển sang nét buồn nhẹ nhàng. Khi con người đắm chìm trong cảnh xuân đẹp đẽ, thời gian dường như cũng lặng lẽ trôi qua. Cảnh vật vẫn giữ nét đẹp dịu dàng nhưng chuyển động chậm lại, phản ánh tâm trạng tiếc nuối của con người. Những từ láy như “tà tà”, “nao nao”, “thanh thanh” không chỉ gợi cảnh mà còn bộc lộ tâm trạng của con người. Cảnh vật nhỏ bé, nhẹ nhàng như để hòa hợp với tâm trạng của nhân vật.
“Nao nao dòng nước uốn lượn
Cầu nhỏ bắc qua ghềnh”
Bốn bề trở nên tĩnh lặng. “Nao nao” gợi trạng thái của dòng nước, đồng cảm với tâm trạng buồn bã của con người. Cầu nhỏ bé bắc qua dòng suối tạo nên vẻ đẹp yên bình, thơ mộng. Nguyễn Du dùng từ “nao nao” rất tinh tế, tả cảnh cũng như thể hiện tâm trạng con người với nỗi buồn không thể lý giải. Điều này giống như các câu thơ nổi tiếng của ông:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Với sáu câu thơ cuối trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, Nguyễn Du đã chứng tỏ bút pháp tả cảnh ngụ tình độc đáo. Cảnh vật không còn sôi động mà trở nên dịu dàng, yên ả, phản ánh tâm trạng luyến tiếc, bâng khuâng của chị em Thúy Kiều khi chia tay với hội xuân.