1. Mẫu bài soạn 'Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu' (Ngữ văn 8 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu số 4
Trước khi đọc
Câu 1. Mục đích của các kỳ thi phong kiến xưa là gì?
Chọn lựa nhân tài cho đất nước.
Câu 2. Lễ xướng danh sau các kỳ thi thường được tổ chức với mục đích gì?
Tôn vinh những người đạt thành tích xuất sắc.
Sau khi đọc
Trả lời câu hỏi
Câu 1. Bài thơ được chia thành mấy phần và các phần đó là gì?
Bài thơ có ba phần:
- Phần 1: Hai câu đầu giới thiệu về kỳ thi năm Đinh Dậu
- Phần 2: Bốn câu tiếp theo mô tả cảnh trường thi thực tế
- Phần 3: Hai câu cuối thể hiện tâm trạng của nhà thơ
Câu 2. Hai câu đầu của bài thơ phản ánh điều gì về chế độ thi cử cuối thế kỉ XIX?
- “Nhà nước ba năm mở một khoa”: cứ ba năm tổ chức một kỳ thi Hương
- Sự bất thường:
- “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”: “Trường Nam” là trường thi ở Nam Định, “Trường Hà” là trường thi ở Hà Nội. Khi thực dân Pháp chiếm Hà Nội, trường thi ở đây bị bãi bỏ, các thí sinh phải xuống thi chung ở trường Nam Định.
- Từ “lẫn” thể hiện sự lộn xộn, mất đi sự trang nghiêm của kỳ thi Hương.
=> Hai câu đầu cho thấy sự suy thoái, tồi tệ của chế độ thi cử thời kỳ này.
Câu 3. Biện pháp tu từ nào được sử dụng trong “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” và “Ậm ọe quan trường miệng thét loa”? Tác dụng của biện pháp đó là gì?
- Biện pháp đảo ngữ được sử dụng trong các câu trên.
Tác dụng: làm nổi bật sự nhếch nhác của các sĩ tử và thái độ kênh kiệu của quan trường, đồng thời tạo hiệu ứng hài hước khi các nhân tài trong kỳ thi lại trở nên lôi thôi, tồi tệ.
Câu 4. Tác dụng của phép đối trong hai câu thực là gì?
Phép đối: “lôi thôi - ậm ọe”, “sĩ tử - quan trường”, “vai đeo lọ - miệng thét loa”
Tác dụng: phản ánh sự hỗn loạn của kỳ thi, làm nổi bật sự suy vong của nền học vấn và sự lỗi thời của đạo Nho.
Câu 5. Tiếng cười trào phúng được thể hiện qua việc miêu tả hình ảnh “ngoại lai” của quan sứ và mụ đầm như thế nào?
- Quan sứ: “Lọng cắm rợp trời quan sứ đến” thể hiện sự đón tiếp trọng thể.
- Mụ đầm: “Váy lê quét đất mụ đầm ra” thể hiện sự lố lăng, phô trương.
- Phép đối “lọng - váy, trời - đất, quan sứ - mụ đầm” mỉa mai, châm biếm bọn quan lại và thực dân.
=> Sự hiện diện của quan sứ đáng lẽ phải làm cho cảnh trường thi trang nghiêm hơn, nhưng lại làm nổi bật sự nhếch nhác, tùy tiện.
Câu 6. “Nhân tài đất Bắc” ám chỉ ai và thái độ của tác giả qua lời nhắn nhủ đó là gì?
Nhân tài đất Bắc là những ông nghè, ông cống ở vùng Sơn Nam, Kinh kỳ Thăng Long. Thái độ của tác giả thể hiện sự châm biếm đối với sự suy yếu của đất nước.
Câu 7. Nhân vật nào trong bài thơ để lại ấn tượng nhất với em? Vì sao?
Nhân vật ấn tượng nhất là sĩ tử, vì hình ảnh các thí sinh đi thi trong tình trạng nhếch nhác và sự đối lập với quan trường thể hiện rõ ràng thái độ phê phán của nhà thơ.
Câu 8. Cảm xúc chủ đạo của tác giả trong bài thơ là gì?
Cảm xúc chủ đạo là phê phán hiện thực đau buồn, nhốn nháo, cùng với sự trữ tình thể hiện sự cay đắng, tủi nhục.
Viết kết nối với đọc
Viết đoạn văn (khoảng 7 - 9 câu) phân tích chi tiết trào phúng ấn tượng nhất trong bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu”.
Tú Xương sống trong thời kỳ đau thương của đất nước dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Thơ của ông không chỉ phản ánh sự đau xót mà còn tố cáo tội ác của thực dân. Bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” với hình ảnh “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ, Ậm ọe quan trường miệng thét loa” thể hiện sự xuống cấp của xã hội. “Lôi thôi” nhấn mạnh sự lôi thôi của các sĩ tử, trái ngược với vẻ ngoài nghiêm túc thường thấy. Cảnh quan trường “ậm ọe” và “thét loa” làm nổi bật sự tồi tệ, thiếu nghiêm túc của kỳ thi. Bài thơ phê phán sự nhếch nhác và bát nháo của một kỳ thi quan trọng, làm nổi bật sự bất tài và tham lam của quan trường.
2. Mẫu bài soạn 'Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu' (Ngữ văn 8 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu số 5
Chủ đề: Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu
(Trần Tế Xương)
* Nội dung chính: Văn bản mô tả tình trạng thê thảm của kỳ thi năm Đinh Dậu (1897) và phản ánh nỗi đau xót của nhà thơ trước cảnh thực tế hỗn loạn và bất ổn của xã hội dưới ách thực dân và phong kiến.
I. Trước khi đọc.
Câu hỏi 1. Mục đích của các kỳ thi do nhà nước phong kiến tổ chức là gì?
Trả lời:
– Các kỳ thi của nhà nước phong kiến nhằm lựa chọn nhân tài để phục vụ cho quốc gia.
Câu hỏi 2. Lễ xướng danh và trao giải sau các cuộc thi có mục đích gì?
Trả lời:
– Mục đích là để vinh danh những người đạt thành tích xuất sắc và khuyến khích các thế hệ sau học tập và rèn luyện.
II. Đọc văn bản.
Theo dõi: Miêu tả các nhân vật và cảnh vật trong lễ xướng danh.
Trả lời:
– Nhân vật: Sĩ tử lôi thôi, vai đeo lọ.
– Cảnh vật: Trường Nam thi chung với trường Hà; quan trường miệng thét loa.
Chú ý: Các nhân vật ngoại quốc xuất hiện trong kỳ thi.
Trả lời:
Các nhân vật ngoại quốc: Quan sứ và mụ đầm.
III. Sau khi đọc.
Câu 1. Bài thơ được chia thành mấy phần? Kể tên các phần đó.
Trả lời:
Bài thơ chia thành 4 phần.
– Phần 1: Hai câu đầu: Giới thiệu về kỳ thi năm Đinh Dậu.
– Phần 2: Hai câu tiếp theo: Miêu tả cảnh trường thi.
– Phần 3: Hai câu tiếp: Sự xuất hiện của người nước ngoài.
– Phần 4: Hai câu cuối: Tâm trạng của nhà thơ.
Câu 2. Hai câu đề cho biết gì về chế độ thi cử ở nước ta cuối thế kỉ XIX?
Trả lời:
Chế độ thi cử cuối thế kỉ XIX qua hai câu đề:
– Thời gian: Ba năm mới tổ chức một kỳ thi.
– Hình thức: Trường Nam và trường Hà thi chung.
→ Điều này cho thấy sự hỗn loạn và thiếu trật tự, phản ánh sự suy tàn của kỳ thi quốc gia và chỉ trích sự quản lý kém của chính quyền.
Câu 3. Biện pháp tu từ nào được sử dụng trong các câu “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” và “Ậm ọe quan trường miệng thét loa”? Tác dụng của biện pháp này là gì?
Trả lời:
– Biện pháp đảo ngữ: Lôi thôi sĩ tử; ậm ọe quan trường.
– Tác dụng:
+ Nổi bật sự lôi thôi, thiếu gọn gàng của sĩ tử và sự không chuẩn mực của người coi thi.
+ Tạo hiệu ứng hài hước, nhấn mạnh sự bất tài của quan trường và sĩ tử.
Câu 4. Tác dụng của phép đối trong hai câu thực là gì?
Trả lời:
– Tác dụng của phép đối:
+ “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” tạo hình ảnh nhếch nhác của sĩ tử.
+ “Ậm ọe” nhấn mạnh sự kém cỏi của quan trường qua hình ảnh “miệng thét loa”.
Câu 5. Tiếng cười trào phúng thể hiện qua việc miêu tả hai hình ảnh “ngoại lai” là quan sứ và mụ đầm như thế nào?
Trả lời:
Tiếng cười trào phúng qua việc miêu tả hai hình ảnh “ngoại lai” là quan sứ và mụ đầm được thể hiện:
– Hình ảnh “Lọng cắm rợp trời” cho thấy sự đón tiếp long trọng cho “quan sứ”, một hình thức nghi lễ bất thường.
– “Mụ đầm” với “váy lê quét đất” phản ánh sự nhục nhã và sự hiện diện không hợp lý trong môi trường trang nghiêm của kỳ thi.
Câu 6. Khi nhắc đến “nhân tài đất Bắc”, tác giả muốn ám chỉ ai? Thái độ của tác giả qua lời nhắn nhủ này là gì?
Trả lời:
– “Nhân tài đất Bắc” ám chỉ những học giả, người có học thức ở vùng Sơn Nam và Kinh kỳ Thăng Long.
– Thái độ của tác giả: căm ghét thực dân và bày tỏ lòng tự hào dân tộc.
Câu 7. Nhân vật nào trong bài thơ gây ấn tượng mạnh nhất với em? Vì sao?
Trả lời:
Nhân vật gây ấn tượng nhất là sĩ tử vì:
– Sĩ tử là hình ảnh đại diện cho tầng lớp học thức, bị miêu tả nhếch nhác và kém cỏi. Đây là bức tranh biếm họa về tình trạng thi cử dưới chế độ thực dân.
Câu 8: Cảm xúc chủ đạo của tác giả trong bài thơ là gì?
Trả lời:
Cảm xúc chủ đạo của tác giả:
+ Phê phán sự hỗn loạn và bất ổn của xã hội.
+ Thể hiện sự đau xót và chua chát trước hiện thực đất nước.
IV. Viết kết nối với đọc.
Bài tập: Viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) phân tích một chi tiết trào phúng ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu.
Đoạn văn tham khảo.
Bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là một tác phẩm trào phúng đáng chú ý với hai câu “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ, Ậm ọe quan trường miệng thét loa.” Từ “lôi thôi” nhấn mạnh sự lôi thôi của sĩ tử, trái ngược với hình ảnh học sinh chỉn chu thường thấy. Các sĩ tử hiện lên với vẻ bề ngoài kém cỏi, phản ánh sự suy tàn của xã hội. Đồng thời, “ậm ọe” gợi ra hình ảnh quan trường thiếu nghiêm túc, gây ấn tượng mạnh về sự bất tài của các quan chức. Cảnh tượng này làm nổi bật sự hỗn loạn và sự xuống cấp của cả kỳ thi và hệ thống quan trường trong thời kỳ đó.
3. Bài soạn 'Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu' (Ngữ văn 8 - SGK Kết nối tri thức) - phiên bản 6
Phân tích
Trần Tế Xương cay nhất là chuyện thi cử. Tài giỏi như ông mà phải đến lần thi thứ tám mới đậu vét được cái tú tài. Mà Tú tài thời đó thì được tiếng là “ông Tú” nhưng chỉ được “làm quan tại gia”, “ăn lương vợ”. Nhưng không được thênh thênh trên đường hoạn lộ chưa hẳn đã là rủi, thì ông Tú Xương làm thơ, làm thi sĩ, thành thi hào! Bài thơ “Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu” là một đòn trời giáng của Tú Xương vào chế độ thi cử mạt vận, hổ lốn, ô nhục của thời thực dân mới đặt chân cai trị đất nước ta:
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường
Hà Lôi thôi sĩ tử vai đeo
lọ Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Cờ cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê phết đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà”.
Là sĩ tử, cũng là nạn nhân trong kì thi Hương năm Đinh Dậu (1897), tại Nam Định, Trần Tế Xương tận mắt chứng kiến sự suy đồi của Nho học, đau lòng trước nỗi ô nhục của tài tử văn nhân đât Bắc. Cho nên mở đầu bài thơ, tác giả đã phê phán sâu sắc nhà nước thực dân phong kiến thời bấy giờ:
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”
Tác giả nói “nhà nước” một cách trang trọng như vậy nếu những việc làm của “nhà nước” mà tô't đẹp thì là ngợi ca, còn nếu nói đến những việc làm của “nhà nước” không ra gì thì là “hạ bệ”. Rõ ràng là Tú Xương đã “hạ bệ” cái “nhà nước” thực dân phong kiến đó bằng sự kiện “ba năm mở một khoa”. Dưới sự cai trị của “nhà nước” thực dân, đạo học (chữ Nho) đã mạt vận. “nhà nước” chỉ mở kì thi cầm chừng, hổ lốn, mất hết vẻ trang nghiêm của kì thi quốc gia: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Sợ mất an ninh ở Hà Nội, “nhà nước” thực dân đã lùa sĩ tử Hà Nội xuống Nam Định “thi lẫn” với sĩ tử trường Nam. Chỉ một từ “lẫn”, Tú Xương phơi bày cả sự đổ nát của kì thi quốc gia và phê phán “nhà nước” vô trách nhiệm.
Sang hai câu thực, sĩ tử và quan trường được nhà thơ Tú Xương biếm họa rất tài tình:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa”
Tú Xương có biệt tài mà Nguyễn Công Hoan tôn như “thần thơ thánh chữ” là chỉ trong một chữ đã lột tả được thần thái của sự vật. Chỉ một từ “lôi thôi” được đảo ra phía trước, nhấn mạnh là hình ảnh của sĩ tử bị chìm trong sự nhếch nhác. Sĩ tử mà bút mực đâu không thấy, chỉ nổi bật lủng lẳng một cái lọ (vì đường xa, phải đeo theo lọ nước uống). Hàng ngàn “sĩ tử vai đeo lọ” thì lôi thôi thật, là bức tranh biếm họa để đời về anh học trò đi thi trong thời buổi thực dân nhô’ nhăng. Còn quan trường thì “ậm ọe” giọng như mửa. Sĩ tử thì đông vì dồn cả hai trường thi lại nên quan trường phải “thét loa” lại còn lên giọng đe nẹt sĩ tử nên thành ra “ậm ọe” tởm lợm thật đáng ghét. Thái độ trào lộng của nhà thơ thật rõ ràng. Đô'i với “sĩ tử”, Tú Xương thấy nhếch nhác đáng thương; đối với “quan trường”, Tú Xương khinh ghét ra mặt. Quan trường của một kì thi quốc gia bát nháo mà còn “ậm ọe” không biết nhục.
Tú Xương còn ghi lại một hiện tượng chưa từng thấy trong lịch sử thi cử của nước nhà là “khoa thi Đinh Dậu”, có cả Tây đầm nhon nháo ở trường thi:
“Cờ cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê phết đất mụ đầm ra”
“Cờ cắm” hay “Lọng cắm”? Sách giáo khoa hiện hành chép là “Cờ cắm”, có chú thích là: có bản chép: “Lọng cắm”. Thơ Tú Xương gần với thơ ca dân gian, nhà thơ sáng tác không in ấn, không xuất bản, người đời nghe rồi ghi lại nên dễ “tam sao thất bản”. Trong những trường hợp có dị bản như thế này thì buộc người đọc, người nghiên cứu phải lựa chọn. Người soạn sách giáo khoa chọn “cờ cắm” để đối với “váy lê” ở câu dưới cho thật độc. “Cờ” mà đối vởi “váy” độc quá! Theo tôi, “lọng cắm” hay hơn:
“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến”
Quan sứ (công sứ Nam Định Lơ Nóocmăng, đèn dự lễ xướng danh khoa thi Hương hẳn là phải có “lọng cắm rợp trời” mà “lọng cắm” thì mới “rợp trời”. Còn vế đối “Lọng cắm rợp trời” với “váy lê phết đất” cũng chỉnh quá, mà độc địa không kém. Lọng là cái che trên đầu “quan sứ” mà lại đôi với “váy” là cái che dưới mông “mụ đầm”! “Quan sứ” đến”, “mụ đầm ra”, chúng nó “đến”, nó “ra” như thế thì nhục quá, không chịu được, Tú Xương đã chơi một đòn trí mạng vào bọn Tây đầm thực dân nhốn nháo vào cái thời buổi nhô' nhăng! Tú Xương ác khẩu trong cách đối chữ đôi câu, cái tôn nghiêm đem đọ với những cái không tiện hô đúng tên thật, ông lợm sự sông, ông cho lộn tùng phèo cả đi. Nghĩ về người quan văn người quan võ thời nhí nhô' ấy, ông đem cái võng (võng điểu võng thắm) ra mà đối với cái khố dây (khố đỏ khố xanh). Tường thuật việc trường thi chữ nho có Tây đến ra bài, ông đem cái lọng quan sứ mà đối với cái váy mụ đầm, đem cái đít vịt bà đầm ra đô'i với cái đầu rồng một ông cử dô't đang lạy tạ mũ áo vua ban... (Nguyễn Tuân). Kết thúc bài thơ, tác giả chuyển từ giọng điệu trào lộng sang giọng điệu trữ tình thâm trầm. Tú Xương đau lòng nhắn nhủ với “nhân tài đất Bắc”:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà”
Giọng trữ tình thấm thìa ấy như có sự cộng hưởng của giọng điệu trữ tình đầy nhiệt huyết của các nhà ái quốc đầu thế kỷ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... Tất nhiên trong giọng điệu chung của những tâìn lòng ái quô'c ấy, ta vẫn nhận ra sắc thái riêng của Tú Xương. Khi thì xót xa thổn thức “Nhân tài đất Bắc nào ai đó”, khi thì kiêu bạc trịch thượng “Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà”. Không dễ gì mà hạ một chữ “ngoảnh cổ” như vậy đối với giới trí thức Bắc Hà. Phải có chân tài và quan trọng hơn nữa là phải có tấm lòng đô'i với đất nước, với dân tộc thì nhân tài đất Bắc mới tâm phục. Đúng là tâm sự yêu nước thổn thức của Tú Xương là vật bảo chứng cho những gì là lộng ngôn của nhà thơ:
“Trời không chớp hể chẳng mưa nguồn
Đêm nảo đêm nao tớ củng buồn”
(Đêm hè)
Dưới mắt Tú Xương, sự suy đồi của đạo học (chữ nho) là một hiện tượng của sự mất nước, của sự nô lệ. Với Tú Xương, nỗi nhục trong “Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu” là nỗi nhục mất nước! “Theo tôi nghĩ, thơ là ảnh, là nhân ảnh, thơ cũng ở loại cụ thế’ hữu hình. Nhưng nó khác với cái cụ thể của văn. Cũng mọc lên từ cái đông tài liệu thực tế, nhưng từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình bao la, từ một cái điểm nhất định mà nó mở được ra một cái diện không gian, thời gian trong đó nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp” (Nguyễn Tuân).
“Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu” của Trần Tế Xương là “sử thi” về đời sống nhà nho lúc Tây sang. Đạo học suy đồi, thi cử bát nháo hố’ lốn, sĩ tử mất hết nhuệ khí, quan trường mất hết nhân cách. Bọn thực dân nghênh ngang đến trường thi là một nỗi ô nhục của nhân tài đất Bắc. Nỗi đau của nhà thơ đã làm thức tỉnh tầng lớp trí thức đương thời.
Nghệ thuật trào lộng và trữ tình của Tú Xương đều sâu sắc, thấm thìa. Đối với sĩ tử, nhà thơ thương mà cười, đối với quan trường, nhà thơ căm ghét mà châm biếm, đối với bọn thực dân, nhà thơ căm thù mà đả kích, hạ nhục. Từ ngữ, hình ảnh, âm điệu, bút pháp của bài thơ bộc lộ tài hoa của một hồn thơ lỗi lạc. Đúng như lời ngợi ca của Yên Đổ:
“Kia ai chín suối xương không nát
Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn”
4. Tài liệu 'Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu' (Ngữ văn 8 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 1
* Trước khi đọc
Câu hỏi 1 (trang 82 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Tại sao các kỳ thi thời phong kiến được tổ chức cho các sĩ tử tham gia?
Trả lời:
- Các kỳ thi trong thời phong kiến được tổ chức để lựa chọn những người tài năng phục vụ cho quốc gia.
Câu hỏi 2 (trang 82 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Lễ xướng danh và trao giải sau các cuộc thi thường nhằm mục đích gì?
Trả lời:
- Mục đích của lễ xướng danh là để vinh danh những người có thành tích xuất sắc, đồng thời truyền cảm hứng cho thế hệ sau học hỏi và noi theo.
* Đọc văn bản
Gợi ý trả lời câu hỏi trong bài đọc
- Theo dõi: Các chi tiết mô tả con người và bối cảnh lễ xướng danh.
- Con người: Sĩ tử ăn mặc lôi thôi, vai đeo lọ
- Bối cảnh: Trường Nam thi và trường Hà lẫn lộn; quan trường la hét ầm ĩ.
- Chú ý: Sự xuất hiện của các nhân vật người nước ngoài trong kỳ thi.
Các nhân vật nước ngoài: quan sứ và mụ đầm.
* Sau khi đọc
Nội dung chính: Văn bản phản ánh tình trạng hỗn loạn của kỳ thi năm Đinh Dậu (1897) và sự đau xót của tác giả trước thực trạng xã hội thực dân nửa phong kiến.
Gợi ý trả lời câu hỏi sau khi đọc
Câu 1 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Bố cục bài thơ được chia thành những phần nào?
Trả lời:
Bố cục gồm 4 phần:
- Phần 1: Hai câu mở đầu về kỳ thi năm Đinh Dậu.
- Phần 2: Hai câu miêu tả thực trạng kỳ thi.
- Phần 3: Hai câu luận về sự xuất hiện của người nước ngoài.
- Phần 4: Hai câu kết thể hiện tâm trạng của nhà thơ.
Câu 2 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Hai câu mở đầu cho thấy điều gì về chế độ thi cử cuối thế kỉ XIX ở nước ta?
Trả lời:
Hai câu mở đầu cho thấy:
- Thời gian: Mỗi ba năm tổ chức một kỳ thi
- Hình thức: Trường Nam thi và trường Hà hòa lẫn vào nhau.
=> Điều này cho thấy sự lộn xộn, thiếu tổ chức của kỳ thi quốc gia và chỉ trích sự vô trách nhiệm của chính quyền.
Câu 3 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Các biện pháp tu từ trong “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” và “Ậm ọe quan trường miệng thét loa” là gì? Tác dụng của chúng là gì?
Trả lời:
- Biện pháp đảo ngữ: “Lôi thôi sĩ tử”; “Ậm ọe quan trường”.
- Tác dụng:
+ Thể hiện sự nhếch nhác, không gọn gàng của các sĩ tử và sự không nghiêm túc của các quan.
+ Làm nổi bật sự thiếu chuẩn mực trong cách hành xử của quan trường.
Câu 4 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Tác dụng của phép đối trong hai câu thực là gì?
Trả lời:
- Tác dụng của phép đối:
+ Câu thơ “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” gây ấn tượng về sự nhếch nhác của sĩ tử.
+ “Ậm oẹ” là sự ra oai không chân thật, cấu trúc đảo ngữ làm nổi bật hình ảnh quan trường.
Câu 5 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Tiếng cười trào phúng được thể hiện qua việc nhấn mạnh hai hình ảnh “ngoại lai” là quan sứ và mụ đầm như thế nào?
Trả lời:
Tiếng cười trào phúng thể hiện qua việc nhấn mạnh hình ảnh “ngoại lai” như quan sứ và mụ đầm:
- “Lọng cắm rợp trời” gợi cảm giác long trọng và đau đớn khi đón tiếp kẻ xâm lược. Mụ đầm với “váy lê quét đất” tạo nên cảnh tượng nhục nhã giữa chốn thi cử vốn trang nghiêm.
Câu 6 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): “Nhân tài đất Bắc” ám chỉ ai? Tác giả muốn gửi gắm điều gì qua lời nhắn nhủ này?
Trả lời:
- “Nhân tài đất Bắc” ám chỉ các ông nghè, ông cống, những người tự hào về lòng yêu nước ở Sơn Nam và Kinh kỳ Thăng Long.
- Thái độ của tác giả là căm ghét bọn thực dân và kêu gọi sự tự tôn dân tộc.
Câu 7 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Nhân vật nào trong bài thơ để lại ấn tượng mạnh nhất? Tại sao?
Trả lời:
Nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất là sĩ tử vì:
- Sĩ tử là hình mẫu của học thức nhưng lại hiện lên với vẻ lôi thôi, lếch thếch. Điều này phản ánh sự suy đồi của xã hội trong thời kỳ thực dân.
Câu 8 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Cảm xúc chủ đạo của tác giả trong bài thơ là gì?
Trả lời:
Cảm xúc chủ đạo của tác giả:
+ Phê phán sự hỗn loạn, thảm hại của kỳ thi và quan trường.
+ Thể hiện sự đau đớn, chua xót về tình trạng đất nước.
* Viết kết nối với đọc
Bài tập (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Viết một đoạn văn (7 – 9 câu) phân tích chi tiết có tính trào phúng ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu.
Đoạn văn tham khảo:
Bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu thể hiện sự trào phúng qua hai câu “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ, Ậm ọe quan trường miệng thét loa.” “Lôi thôi” nhấn mạnh sự lếch thếch của sĩ tử, vốn thường được kỳ vọng là người có học thức nhưng lại đi thi với vẻ bề ngoài xộc xệch. Trong khi đó, các quan trường không còn giữ được sự nghiêm trang mà chỉ còn lại dáng vẻ ậm ọe, thét loa như ngoài chợ. Từ “ậm ọe” được nhấn mạnh để chỉ sự yếu kém của các quan. Đoạn thơ này phản ánh rõ nét sự suy đồi và hỗn loạn của xã hội qua hình ảnh sĩ tử và quan trường không còn giữ được phẩm giá và sự nghiêm túc.
5. Tài liệu 'Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu' (Ngữ văn 8 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 2
* Trước khi bắt đầu
Câu hỏi 1 (trang 82 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Mục đích của việc tổ chức các kỳ thi cho sĩ tử trong thời kỳ phong kiến xưa là gì?
Trả lời:
- Các kỳ thi thời phong kiến được tổ chức nhằm chọn lựa những người tài đức để phục vụ quốc gia.
Câu hỏi 2 (trang 82 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Sau các cuộc thi (thể thao, nghệ thuật, giáo dục…), buổi lễ xướng danh và trao giải thường có mục đích gì?
Trả lời:
- Buổi lễ xướng danh nhằm tôn vinh những người xuất sắc và đồng thời tuyên truyền để các thế hệ tiếp theo noi gương và nỗ lực học tập.
* Đọc văn bản
Hướng dẫn trả lời các câu hỏi trong bài đọc
- Theo dõi: Các chi tiết miêu tả về con người và cảnh vật trong lễ xướng danh.
- Con người: Sĩ tử lôi thôi, vai đeo lọ
- Khung cảnh: Trường Nam và trường Hà lẫn lộn; quan trường miệng thét loa.
- Chú ý: Sự xuất hiện của các nhân vật nước ngoài trong kỳ thi.
Các nhân vật nước ngoài: quan sứ và mụ đầm.
* Sau khi đọc
Nội dung chính: Văn bản phản ánh sự tồi tệ của kỳ thi năm Đinh Dậu (1897) và thể hiện nỗi đau xót của tác giả trước hiện thực hỗn loạn và bất ổn của xã hội thực dân nửa phong kiến.
Gợi ý trả lời các câu hỏi sau khi đọc
Câu 1 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Bài thơ được chia thành bao nhiêu phần và các phần đó là gì?
Trả lời:
Bài thơ chia thành 4 phần:
- Phần 1: Hai câu đề, giới thiệu về kỳ thi năm Đinh Dậu.
- Phần 2: Hai câu thực, mô tả thực tế của cảnh trường thi.
- Phần 3: Hai câu luận, miêu tả sự xuất hiện của người nước ngoài.
- Phần 4: Hai câu kết, thể hiện tâm trạng của tác giả.
Câu 2 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Hai câu đề cung cấp thông tin gì về chế độ thi cử cuối thế kỉ XIX ở nước ta?
Trả lời:
Hai câu đề cho thấy:
- Thời gian: Mỗi kỳ thi mở cách ba năm.
- Hình thức: Trường Nam và trường Hà lẫn lộn.
=> Điều này phản ánh sự lộn xộn, thiếu tổ chức, đồng thời chỉ trích sự bất lực của chính quyền trong việc tổ chức thi cử.
Câu 3 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Biện pháp tu từ nào được sử dụng trong “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” và “Ậm ọe quan trường miệng thét loa”? Nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó trong việc mô tả các sĩ tử và quan viên.
Trả lời:
- Biện pháp đảo ngữ: Lôi thôi sĩ tử; ậm ọe quan trường.
- Tác dụng:
+ Tạo ấn tượng về sự nhếch nhác, không chỉnh tề của sĩ tử và người quản lý trong kỳ thi.
+ Nâng cao sự bất cập của người coi thi với phong cách nói năng ậm ọe, gượng gạo.
Câu 4 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Phân tích tác dụng của phép đối trong hai câu thực của bài thơ.
Trả lời:
- Phép đối trong hai câu thực có tác dụng:
+ Câu “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” tạo hình ảnh hài hước, châm biếm, nhấn mạnh vẻ ngoài bừa bộn của sĩ tử.
+ “Ậm oẹ” gợi sự hăm dọa. Đưa “ậm oẹ” lên đầu câu để làm nổi bật hình ảnh các quan trường “miệng thét loa”.
Câu 5 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Tiếng cười trào phúng thể hiện qua việc miêu tả hai hình ảnh “ngoại lai” là quan sứ và mụ đầm như thế nào?
Trả lời:
Tiếng cười trào phúng được thể hiện qua miêu tả hai hình ảnh “ngoại lai” là quan sứ và mụ đầm bằng cách:
- “Lọng cắm rợp trời” thể hiện sự tiếp đón long trọng cho “quan sứ”, kẻ xâm lược, một nghi thức thể hiện nỗi đau mất nước. Đặc biệt, mụ đầm với “váy lê quét đất” tạo nên cảnh tượng nhục nhã trong trường thi vốn nghiêm túc và phong kiến trước đó.
Câu 6 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Khi nhắc đến “nhân tài đất Bắc”, tác giả ám chỉ ai? Cảm nhận thái độ của tác giả qua lời nhắn nhủ này.
Trả lời:
- “Nhân tài đất Bắc” ám chỉ các trí thức, nhân tài ở vùng Sơn Nam và Kinh kỳ Thăng Long, nơi tập trung tinh hoa của đất nước.
- Thái độ của tác giả: căm ghét thực dân xâm lược và khơi dậy lòng tự hào dân tộc.
Câu 7 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Nhân vật nào trong bài thơ gây ấn tượng sâu sắc nhất với em? Tại sao?
Trả lời:
Nhân vật gây ấn tượng nhất là sĩ tử, vì:
- Sĩ tử là hình ảnh của học trò có học vấn, nhưng lại lôi thôi trong hoàn cảnh thực dân. Đây là bức tranh châm biếm về các sĩ tử trong thời kỳ này. Ngược lại, quan trường lại thể hiện sự kém cỏi với giọng “ậm ọe” không ra gì.
Câu 8 (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Cảm xúc chủ đạo của tác giả trong bài thơ này là gì?
Trả lời:
Cảm xúc chủ đạo của tác giả:
+ Phê phán sự tồi tệ của kỳ thi và quan trường.
+ Thể hiện nỗi đau và sự chua xót của nhà thơ trước tình hình đất nước.
* Viết kết nối với đọc
Bài tập (trang 83 sgk Ngữ văn 8 Tập 1): Viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) phân tích một chi tiết trào phúng nổi bật trong bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu”.
Đoạn văn tham khảo
Bài thơ “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” nổi bật với sự trào phúng, đặc biệt là hai câu “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ, Ậm ọe quan trường miệng thét loa.” Từ “lôi thôi” được nhấn mạnh ở đầu câu, làm nổi bật sự lếch thếch của các sĩ tử. Thí sinh đi thi với vẻ bề ngoài bừa bộn, không còn vẻ trang trọng. Đối tượng quan trường cũng bị châm biếm với phong cách “ậm ọe” và “thét loa” không đáng tin cậy. Đây là hình ảnh của một kỳ thi hỗn loạn, nơi sĩ tử lôi thôi và quan viên cũng thiếu nghiêm túc.
6. Soạn bài 'Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu' (Ngữ văn 8 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 3
I. Về tác giả bài thơ 'Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu'
- Trần Tế Xương (1870 - 1907), thường được biết đến với tên gọi Tú Xương.
- Xuất thân từ làng Vị Xuyên, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định (hiện thuộc phường Vị Hoàng, thành phố Nam Định).
- Cuộc đời ngắn ngủi, đầy trắc trở:
+ Ông chỉ gắn bó với các kỳ thi, trải qua tổng cộng tám lần, gồm các kỳ: Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu (1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903); Bính Ngọ (1906).
+ Sau ba lần trượt, ông mới đỗ tú tài vào kỳ Giáp Ngọ (1894), nhưng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm).
+ Dù kiên trì, ông không thể đạt được cử nhân. Kỳ Quý Mão (1903) ông đổi tên thành Trần Cao Xương để cầu may, nhưng vẫn thất bại.
- Thơ của Tế Xương hòa quyện giữa hiện thực, trào phúng và trữ tình, với trữ tình là chủ đạo.
- Bức tranh hiện thực trong thơ ông thường u ám, phản ánh sự thối nát của xã hội thực dân nửa phong kiến.
- Với giọng văn châm biếm sắc sảo, thơ ông chỉ trích thực dân phong kiến, quan lại tay sai, những kẻ bán rẻ lương tâm vì lợi ích cá nhân, và những kẻ lố lăng trong thời kỳ giao thời.
- Ông để lại hơn 100 bài thơ chủ yếu bằng chữ Nôm, với nhiều thể thơ như thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát, và một số bài văn tế, phú, câu đối,...
- Một số tác phẩm tiêu biểu: Vịnh khoa thi Hương, Giễu người thi đỗ, Ông cò, Phường nhơ, Thương vợ, Văn tế sống vợ,...
II. Phân tích tác phẩm 'Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu'
Thể loại
Bài thơ thuộc thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
- Sau khi Pháp xâm lược, văn hóa phương Tây tràn vào Việt Nam, khiến Hán học suy tàn, các nho sĩ chuyển sang dùng bút sắt thay vì bút lông. Các kỳ thi truyền thống không còn giữ được sự nghiêm túc, thay vào đó là tình trạng hỗn loạn.
- Trong kỳ thi năm 1897 (năm Đinh Dậu), kỳ thi Hương ba năm một lần vốn tổ chức ở Hà Nội bị Pháp bãi bỏ và tổ chức chung cho thí sinh trường Nam Định và Hà Nội. Tú Xương sáng tác bài thơ này để phản ánh hiện thực hỗn loạn, đau xót.
Phương thức biểu đạt
Bài thơ 'Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu' sử dụng phương thức biểu đạt cảm xúc.
Bố cục văn bản
Bài thơ chia thành ba phần:
- Phần 1: Hai câu thơ đầu giới thiệu về kỳ thi Đinh Dậu.
- Phần 2: Bốn câu thơ tiếp theo mô tả thực tế kỳ thi.
- Phần 3: Hai câu thơ cuối thể hiện tâm trạng và thái độ của tác giả.
Tóm tắt
Bài thơ ghi lại cảnh nhập trường và lễ xướng danh, đồng thời diễn tả nỗi đau đớn và chua xót của tác giả trước hiện thực hỗn loạn, đau thương của đất nước.
Giá trị nội dung
- Bài thơ vịnh khoa thi Hương là một tác phẩm tiêu biểu về đề tài thi cử của Tú Xương. Qua việc miêu tả tình trạng thảm hại của kỳ thi năm Đinh Dậu (1897) tại trường Hà Nam, tác giả thể hiện nỗi xót xa và đau đớn trước tình cảnh suy tàn của Nho học và sự hỗn loạn của xã hội thực dân nửa phong kiến.
- Bài thơ phản ánh sự nhốn nháo, hỗn tạp của xã hội thời kỳ đầu thực dân, đồng thời bày tỏ tâm sự của tác giả về tình trạng đất nước.
Giá trị nghệ thuật
- Sử dụng nghệ thuật đối và đảo ngữ.
- Ngôn ngữ khẩu ngữ, trong sáng, giản dị nhưng đầy sức biểu cảm.
III. Phân tích chi tiết tác phẩm 'Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu'
Hai câu đề
- Hai câu đề giới thiệu đặc điểm mới của kỳ thi Đinh Dậu:
Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
- Thời gian thi: Ba năm mở một kỳ.
- Hình thức thi: Trường Nam và trường Hà thi chung.
=> Sự lộn xộn, hỗn loạn, thiếu quy củ trong kỳ thi.
=> Sự hỗn loạn này phản ánh tình trạng đất nước và sự áp đảo của ngoại bang.
Hai câu thực
Hai câu thực miêu tả cảnh nhập trường và lễ xướng danh với hai nét vẽ đặc sắc:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
- Sĩ tử:
+ Vai đeo lọ: dáng vẻ lôi thôi, luộm thuộm.
+ Lôi thôi sĩ tử: đảo ngữ nhấn mạnh vẻ nhếch nhác, không gọn gàng của sĩ tử.
=> Câu thơ tạo nên hình ảnh hài hước, chua chát về sĩ tử thiếu sự tao nhã.
- Quan trường: dáng vẻ ra oai, nạt nộ.
+ Ậm ọe quan trường: đảo ngữ làm nổi bật sự ậm ọe, ấp úng, ra oai gượng gạo của người coi thi.
+ Miệng thét loa: miêu tả sự lộn xộn của cảnh trường thi.
=> Trường thi không còn là nơi nghiêm trang, mà trở nên hỗn loạn, giống như họp chợ, với quan trường ậm ọe và thét loa.
=> Tú Xương sử dụng phép đối tinh tế để tạo nên hai hình ảnh đối lập: sĩ tử lôi thôi và quan trường kém cỏi.
Hai câu luận
Hai câu luận tạo nên bức tranh biếm họa qua hai hình ảnh quan sứ và mụ đầm:
Cờ kéo rợp trời, quan sứ đến
Váy lê quét đất, mụ đầm ra
- Quan sứ và mụ đầm làm tăng tính lố bịch của kỳ thi.
- Cờ kéo rợp trời: cảnh đón tiếp trang trọng.
- Váy lê quét đất: trang phục lòe loẹt, không hợp với hoàn cảnh.
=> Sự phô trương, nhố nhăng và thiếu nghiêm túc.
- Phép đối:
Quan sứ >< mụ đầm
Cờ kéo >< váy lê
=> Bức tranh biếm họa thể hiện sự trái ngược, ngược đời và trớ trêu.
=> Nghệ thuật trào phúng độc đáo của Tú Xương thể hiện nỗi đau và nhục mất nước một cách cay đắng qua hai câu luận này.
Hai câu kết
- Hai câu kết thể hiện nỗi than thở của tác giả, phản ánh sự chua xót từ những gì mắt thấy, tai nghe tại trường Nam năm Đinh Dậu:
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà
- Câu hỏi: Nhân tài đất Bắc nào đó là lời kêu gọi những người có lòng tự tôn dân tộc hãy nhìn nhận tình hình đất nước.
- Ngoảnh cổ: thái độ không cam chịu sống trong cảnh nô lệ.
- Cảnh nước nhà: hiện trạng đất nước và nỗi nhục mất nước.
=> Tú Xương là một trong số hàng vạn sĩ tử dự thi Hương năm Đinh Dậu, từ nỗi đau của mình, ông phản ánh sự nhục nhã của sĩ tử, trí thức và nhân tài đất Bắc, thể hiện lòng yêu nước và sự căm ghét thực dân xâm lược, kêu gọi sự thức tỉnh lòng tự tôn dân tộc.