1. Bài soạn mẫu số 4
Câu 1 (trang 129 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
- Trong câu đầu, tác giả lặp lại từ 'mỗi' ba lần, kết hợp với các danh từ chỉ công cụ nông nghiệp, thể hiện sự chủ động trong công việc.
- Nhịp điệu (2/2/3) và (4/3) ở hai câu thơ đầu thể hiện sự thong thả, ung dung.
- Hai câu thơ này cho thấy:
+ Cuộc sống nhàn hạ của tác giả ở vùng thôn dã.
+ Tâm trạng vui vẻ, hài lòng với cuộc sống tự cung tự cấp và sự kiêu hãnh trước đời.
Câu 2 (trang 129 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
- Cách hiểu:
+ “Nơi vắng vẻ” là sự tĩnh lặng của thiên nhiên và sự yên bình của tâm hồn.
+ “Chốn lao xao” là nơi quan trường, đầy rẫy thủ đoạn, bon chen và đấu đá.
- Quan điểm của tác giả về “dại” và “khôn”:
+ Tác giả tự nhận mình là người “dại” để tìm nơi yên tĩnh, nhường chốn bon chen cho người “khôn”.
+ Dù tự nhận là “dại”, thực ra tác giả rất “khôn”, vì người thật sự khôn ngoan là người biết sống tránh xa danh lợi.
- Tác dụng của nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4: tạo sự so sánh giữa hai triết lý sống, khẳng định triết lý sống của tác giả.
Câu 3 (trang 129 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
- Các sản vật và cảnh sinh hoạt trong câu thơ 5, 6 đáng lưu ý:
+ Thức ăn quê mùa: măng trúc, giá đỗ.
+ Sinh hoạt đơn giản: thích tắm hồ, ao như người dân quê.
+ Hai câu thơ tạo thành bức tranh sinh hoạt bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông, với đủ hương vị và sắc thái.
- Hai câu thơ thể hiện cuộc sống giản dị nhưng thanh cao của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
+ Đạm bạc với thức ăn tự nhiên và tự cung cấp.
+ Cuộc sống hòa hợp với thiên nhiên, giản dị nhưng thanh thoát.
Câu 4 (trang 129 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
- Hai câu cuối của bài thơ thể hiện triết lý sống của tác giả: sống ẩn dật, tránh xa sự bon chen để giữ tâm hồn trong sạch.
- Điều này phản ánh nhân cách thanh cao và trong sạch của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Câu 5 (trang 129 sgk Ngữ văn 10 Tập 1):
- Triết lý sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là hòa hợp với thiên nhiên và xa lánh quyền quý, quan trường để giữ vững cốt cách thanh cao.
- Sống nhàn không phải là thờ ơ với xã hội, mà là rời xa danh lợi, sống hòa hợp với tự nhiên.
- Cuộc sống giản dị ấy mang lại sự thanh thản và trong sạch cho tâm hồn ông.
LUYỆN TẬP
Cảm nhận chung về cuộc sống và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ 'Nhàn'
- Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên giản dị, thanh cao và trong sạch.
- Triết lý sống của ông phản ánh tư tưởng nhân sinh của đạo nho, ứng xử trong thời loạn: sống hòa hợp với thiên nhiên và giữ cho tâm hồn luôn thanh tịnh.
- Nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm là hình mẫu của một nhà nho ẩn sĩ: cao cả, trong sạch và uyên bác.
2. Bài soạn tham khảo số 5
Trả lời câu 1 trang 129 SGK Ngữ văn 10, tập 1
- Việc sử dụng số từ (tính đếm rõ ràng mỗi…mỗi…mỗi) và danh từ (mai, cuốc, cần câu) trong câu 1 cho thấy tác giả đã chuẩn bị kỹ lưỡng mọi dụng cụ lao động cần thiết, thể hiện sự sẵn sàng tận hưởng cuộc sống thanh nhàn của mình.
- Nhịp điệu của hai câu thơ đầu đều là 2/2/3 tạo cảm giác nhẹ nhàng, thư thái, phản ánh trạng thái tự tại của người sống an nhàn.
=> Hai câu thơ gợi lên hình ảnh cuộc sống thanh bình, giản dị của một lão nông tri điền với tâm trạng vui vẻ của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Trả lời câu 2 trang 129 SGK Ngữ văn 10, tập 1
- “Nơi vắng vẻ” là chốn yên bình của thiên nhiên, nơi tâm hồn được thanh thản, trái ngược hoàn toàn với “chốn lao xao” nơi đầy rẫy mưu mô, cạm bẫy của xã hội.
- Tác giả quan niệm rằng “dại” là chấp nhận sự tranh giành danh lợi, còn “khôn” là biết rời bỏ những bon chen để tìm sự an nhàn, hòa mình với thiên nhiên.
- Nghệ thuật đối và lối nói ngược trong hai câu 3 và 4 giúp làm rõ quan điểm về “dại” và “khôn” một cách thú vị và ấn tượng, thể hiện cái nhìn sắc sảo của tác giả về cuộc đời.
Trả lời câu 3 trang 129 SGK Ngữ văn 10, tập 1
- Các sản vật dân dã như măng trúc, giá đỗ và hình ảnh sinh hoạt đơn giản như mùa xuân tắm hồ sen, mùa hè tắm ao phản ánh cuộc sống giản dị, thanh tao, hòa hợp với thiên nhiên.
- Hai câu thơ 5 và 6 sử dụng nghệ thuật đối và hình ảnh dân dã để tạo ra một bức tranh về sinh hoạt thôn quê với đầy đủ hương vị và màu sắc của các mùa.
Trả lời câu 4 trang 130 SGK Ngữ văn 10, tập 1
- Hai câu cuối sử dụng điển tích về giấc mơ của Thuần Vu Phần.
- Qua việc sử dụng điển tích này, tác giả thể hiện cái nhìn sâu sắc, coi phú quý công danh chỉ là giấc mơ phù du.
=> Nhân cách thanh cao, trí tuệ hơn người và thái độ coi thường danh lợi.
Trả lời câu 5 trang 130 SGK Ngữ văn 10, tập 1
- Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sống xa lánh quyền quý, giữ gìn cốt cách thanh cao, hòa hợp với thiên nhiên.
- Đây là một quan niệm sống tích cực, hướng con người đến sự thanh thản và trí tuệ, vượt qua danh lợi tầm thường.
Luyện tập
Câu hỏi (trang 130 SGK Ngữ văn 10 tập 1)
Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Giới thiệu tác phẩm Nhàn.
- Dẫn dắt vấn đề.
Thân bài:
- Hoàn cảnh sáng tác.
1, Hai câu đề: Cuộc sống lao động giản dị nơi thôn quê.
- Liệt kê: mai, cuốc, cần => cuộc sống lao động giản dị.
- Điệp từ: một (3 lần) => tư thế sẵn sàng lao động.
=> Hình ảnh người nông dân với công cụ lao động quen thuộc.
- “Thơ thẩn” gợi trạng thái thảnh thơi, ung dung không lo lắng về danh lợi.
=> Cuộc sống của nhà thơ khi về quê ẩn dật: ung dung, thanh thản với công cụ lao động giản dị.
- Quan niệm nhàn: ung dung, tự tại, giản dị.
2, Hai câu thực: Quan niệm về sống “nhàn” của tác giả.
- “Nơi vắng vẻ” và “chốn lao xao” mang ý nghĩa biểu tượng.
+ “Tìm nơi vắng vẻ” không phải là xa lánh cuộc đời mà là tìm nơi sống an nhàn và thoải mái.
+ “Chốn lao xao”: là nơi phồn hoa, nơi đầy mưu mô và tranh giành.
- Tự nhận mình dại, cho người khôn => Cách nói ngược, thể hiện sự hài hước và mỉa mai. Theo tác giả, “dại” mà “khôn”, “khôn” mà “dại”.
+ Biện pháp nói ngược: “ta dại” và “người khôn”.
+ Biện pháp ẩn dụ: lối sống gần gũi thiên nhiên và thanh bạch.
=> Thái độ và phương châm sống của tác giả pha chút mỉa mai đối với người khác.
=> Nhân cách trong sáng, tránh xa sự bon chen của đời thường.
3, Hai câu luận: Cuộc sống sinh hoạt nơi thôn dã thật bình dị và thanh cao.
- Mùa thu ăn măng trúc, đông ăn giá => Món ăn giản dị nhưng không cơ cực.
- Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao => Thú vui thanh tao.
=> Cuộc sống thôn quê giản dị, thanh cao.
4, Hai câu kết: Chân lý về cuộc sống.
- Phú quý chỉ là giấc mơ, ảo mộng.
- Thái độ coi thường danh lợi.
=> Quan niệm sống cao cả của một bậc đại nhân.
=> Bài học về lẽ sống: Sống thanh thản, yêu thương, giữ gìn nhân cách cao quý và phê phán lối sống chạy theo vật chất.
- Tóm tắt giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
3. Bài soạn tham khảo số 6
Câu 1 (trang 129 SGK Ngữ văn 10 tập 1)
- Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu hai câu thơ đầu có gì đáng chú ý? Hai câu thơ ấy cho ta hiểu hoàn cảnh cuộc sống và tâm trạng của tác giả như thế nào?
- Cách sử dụng số từ “một…, một…, một…” cho ta thấy tác giả đã chuẩn bị sẵn sàng cho công việc và có sự chủ động (mai để đào đất, cuốc để xới đất và cần câu để câu cá) chứ hoàn toàn không phải là hành động của một phút cao hứng.
- Cách nhắt nhịp 2/2/3 tạo cho câu thơ sự thảnh thơi, nhàn nhã. Câu thơ thứ hai càng nêu bật sự nhàn nhã trong cuộc sống của cụ trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. Mặc kệ “ai” với những thú vui nào, cụ Trạng vẫn thơ thẩn với cuộc sống ruộng vườn của mình, không lo toan, không vướng bận. Tác giả làm việc với tâm trạng thư thái, vui với niềm vui thôn quê.
Câu 2 (trang 129 SGK Ngữ văn 10 tập 1)
+ “nơi vắng vẻ”: là nơi không người cầu cạnh ta và ta cũng không cầu cạnh người; là nơi tĩnh tại của thiên nhiên và nơi thảnh thơi của tâm hồn.
+ “chốn lao xao”: chốn quan trường, đường hoạn lộ; nơi sang trọng, đầy thủ đoạn, bon chen, luồn lọt, sát phạt
- Tác giả tự nhận mình là “dại”, chấp nhận tiếng dại của “miệng thế” chê bai để “tìm nơi vắng vẻ”, mặc cho “Người khôn, người đến chốn lao xao”. Câu thơ sử dụng cách nói ngược nghĩa. Tuyết Giang Phu Tử với sự thâm trầm, trải đời đã tận hiểu sự đua chen, trói buộc của vòng danh lợi, bởi thế ông phủi tay với những sự đua chen ở “chốn lao xao”. Tự nhận là “dại”, song thực chất là “khôn”, cũng giống như những người trải nghiệm, cứ luẩn quẩn trong vòng danh lợi, cứ nghĩ mình “khôn” nhưng thực chất là “dại”.
- Nghệ thuật đối: “ta” đối với “người”, “dại” đối với “khôn”, “nơi vắng vẻ” đối với “chốn lao xao”. Ta tìm nơi vắng vẻ tức tìm đến sự tĩnh lặng của tự nhiên, tìm đến sự yên tĩnh trong tâm hồn, không bon chen. Còn người tìm đến chốn lao xao là tìm đến chốn quan trường, tuy sang trọng, quyền quý, song phải bon chen, đối chọi, cảnh giác…
=> Nghệ thuật đối tạo sự so sánh giữa hai cách sống, qua đó khẳng định triết lí sống của tác giả.
Câu 3 (trang 129 SGK Ngữ văn 10 tập 1)
+ Thức ăn quê mùa, dân dã: măng trúc, giá đỗ
+ Sinh hoạt: thích tắm hồ, tắm ao như bao người dân quê khác
+ Hai câu thơ tạo thành bức tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, có mùi vị, có hương sắc.
- Cuộc sống ẩn cư ở nông thôn của tác giả tuy đạm bạc mà không kham khổ, đạm bạc mà thanh cao: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”. Món ăn của ông là những thức có sẵn ở ruộng vườn, mùa nào thức nấy. Cuộc sống sinh hoạt của cụ giống như một người nông dân thực thụ, cũng tắm hồ, tắm ao.
=> Hai câu thơ vẽ nên cảnh sinh hoạt bốn mùa của tác giả, mùa bào cũng thong dong, thảnh thơi. Cách sống thanh cao, nhẹ nhàng, bình yên vô cùng.
Câu 4 (trang 129 SGK Ngữ văn 10 tập 1)
Hai câu cuối thể hiện vẻ đẹp trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm là một bậc thức giả uyên thâm, cũng đã từng vào ra chốn quan trường, đã tận hiểu quy luật biến dịch của cuộc đời, cũng hiểu danh lợi chỉ là phù du, do đó đã phủi tay với vòng danh lợi, tìm sự tĩnh lặng cho tâm hồn, hòa nhập cùng thiên nhiên. “Rượu, đến cội cây, ta sẽ uống. Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao” Xem phú quý chỉ là một giấc chiêm bao, một giấc mộng hư ảo, đó là cái nhìn của một nhân cách lớn, của một trí tuệ lớn.
Câu 5 (trang 129 SGK Ngữ văn 10 tập 1)
Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là trốn tránh sự vất vả để tận hưởng sự nhàn rỗi, cũng không phải là thái độ lánh đời, không quan tâm tới xã hội. Cần hiểu chữ “nhàn” thái độ lánh đời, không quan tâm tới xã hội. Cần hiểu chữ “nhàn” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm nói là thái độ không đua chen trong vòng danh lợi để giữ cốt cách thanh cao, nhàn là về với ruộng vườn để hòa hợp với thiên nhiên, vui thú cùng cây cỏ. Nhàn là làm một lão nông “Một mai, một cuốc, một cần câu” và “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá; Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”, nuôi dưỡng tinh thần trong sự khoáng đạt của tự nhiên. Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn thân nhưng không nhàn tâm. Nên hiểu, dẫu ẩn cư ở ruộng vườn nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn luôn canh cánh trong lòng nỗi lo cho dân, cho nước. Một người bộc trực, thẳng tính, vì lo lắng cho xã tắc đã từng dâng sớ xin vua chém mười tám lộng thần không thể nào trở thành một người vô ưu trước những tình cảnh của dân của nước được. Đặt trong hoàn cảnh chế độ phong kiến đang trên đà khủng hoảng, những giá trị đạo đức đang có biểu hiện suy vi, người hiền không có đất dụng thi quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một quan niệm sống tích cực.
Luyện tập
Câu hỏi (trang 130 SGK Ngữ văn 10 tập 1)
"Nhàn" là một chủ đề lớn trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhàn theo quan niệm của nhà thơ là sống thuận lợi theo lẽ tự nhiên, không màng danh lợi. Bài thơ này là lời tâm sự về cuộc sống và sở thích cá nhân. Nó cũng đồng thời thể hiện một quan niệm nhân sinh độc đáo của nhà thơ.
Bài thơ mở đầu bằng những ngôn từ thật vô cùng giản dị:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Đó là cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm, của cụ Trạng. Nó thuần hậu và thanh khiết biết bao. Câu thơ đưa ta trở về với cuộc sống chất phác nguyên sơ của cái thời "nước giếng đào, cơm cày ruộng". Cuộc sống tự cung tự cấp mà vẫn ung dung ngông ngạo trước thói đời. Hai câu đầu còn là cái tâm thế nhàn tản, thong dong. Nhịp câu thơ nghe như nhân vật trữ tình đang nhẹ nhàng đếm bước: một... một... một...
Đến hai câu luận nhà thơ lại tiếp tục nhấn thêm một chút tình điệu thôn quê nữa để người đọc cảm nhận thực sự được cái vui của "cuộc sống nhàn":
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Vẫn là những ngôn từ giản dị, vẫn là những hình ảnh nghệ thuật dân dã, đời thường, vậy mà hai câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm "sang trọng" biết bao. Nó chăng những không gợi ra vẻ gì khắc khổ mà còn toát lên toàn bộ vẻ thanh cao. Thanh cao trong cách ăn uống sinh hoạt và cả trong cái niềm thích thú khi được hòa mình vào cuộc sống thiên nhiên.
Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là thế, rất giản dị, rất tự nhiên mà vẫn thanh cao và thú vị vô cùng.
Nếu chỉ đọc bốn câu thơ miêu tả về cuộc sống, chúng ta có thể nghĩ ngay đến hình ảnh một bậc danh nho đang muốn lánh đời. Thế nhưng trở về với hai câu thực, chúng ta sẽ hiểu hơn cái quan niệm "lánh đời" của nhà thơ:
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Vậy ra, Tuyết Giang phu tử về với thiên nhiên là để thoát ra khỏi vòng danh lợi, thoát ra khỏi chốn nhiễu nhương đầy những ganh tị, bon chen. Hai câu thơ diễn ý bằng nói ngược. Vì thế nó tạo cho người đọc một liên tưởng thật hóm hỉnh, sâu cay. Câu thơ đúng là trí tuệ sắc sảo của một bậc đại quan - trí tuệ để nhận ra cái khôn và cái dại thật sự ở đời.
Hai câu thơ kết khép lại bằng một phong thái ung dung tự tại:
Rượu đến cội cây, ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Hai câu thơ chẳng biết đang vẽ cảnh đời hay tiên cảnh. Ở đó nhân vật trữ tình cũng không biết đang tình hay mơ. Tất cả cứ hòa cùng làm một dưới cái nhãn quan tỏ tường và thông tuệ của nhà thơ.
4. Bài phân tích tham khảo số 1
Bố cục
- 6 câu đầu: Cuộc sống giản dị và lẽ sống “nhàn” của tác giả
- 2 câu cuối: Chiêm nghiệm về ý nghĩa cuộc đời
Câu 1 (Trang 129 sgk ngữ văn 10 tập 1)
Nhịp điệu của câu thơ diễn tả sự thư thái, ung dung:
Một mai/ một cuốc,/ một cần câu (2/2/3)
Thơ thẩn dầu ai/ vui thú nào (4/3)
- Tâm trạng thư thái trong những công việc hàng ngày
- Cuộc sống nghèo nàn nhưng thanh cao cho thấy nhà thơ ưa thích sự khiêm nhường, giản dị.
Câu 2 (Trang 129 sgk ngữ văn 10 tập 1)
Sử dụng nghệ thuật đối: dại >< khôn, vắng vẻ >< lao xao, ta >< người
- Quan điểm sống của tác giả có chút châm biếm, ngạo nghễ
+ Tác giả tự nhận mình “ngu” dại, nhưng thực chất là “khôn”
+ Ông khiêm tốn, không khoe khoang mà thể hiện cái thức của người trí thức
- Vắng vẻ: không phải xa lánh cuộc đời mà là tìm nơi yên tĩnh, sống hòa mình với thiên nhiên, tránh xa chốn quan trường để giữ nhân cách thanh cao
- Chốn lao xao: chỉ nơi quan trường tuy quyền quý nhưng đầy cạnh tranh
→ Nghệ thuật đối lập khẳng định triết lý sống của tác giả, ông mượn cách nói đời thường để diễn đạt quan niệm sống của mình- xa lánh danh lợi để sống an nhiên, tự tại
Câu 3 (Trang 129 sgk ngữ văn 10 tập 1)
Cảnh vật, khung cảnh bình dị, đạm bạc mà thanh cao hòa nhập với thiên nhiên
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Nhịp thơ: 1/3/1/2 gợi tả cảnh sinh hoạt của tác giả trong từng mùa, cách sống thanh bình là hòa mình với tự nhiên
+ Mỗi mùa một thức: thu- trúc, đông- giá, xuân- hồ sen, hạ- ao
+ Mọi sinh hoạt đều gắn liền với cuộc sống giản dị ở quê
+ Tác giả vui vẻ khi hòa nhịp với thiên nhiên
→ Sự thanh thản trong cuộc sống “nhàn” tỏa sáng nhân cách của bậc trí thức
- Cảnh sống nhàn ẩn dật mang triết lý của nho sĩ: trong lúc loạn lạc, người có nhân cách thanh cao là người tìm đến nơi yên tĩnh
Hòa mình với thiên nhiên và giữ nhân cách trong sạch.
Câu 4 (Trang 130 sgk ngữ văn 10 tập 1)
Điển tích vua Thuần Vu thể hiện quan điểm sống triết lý của tác giả- bậc trí thức uyên thâm, từng ra vào chốn quan trường hiểm ác.
- Tác giả giữ sự thanh cao trong tâm hồn: xem phú quý như phù du, phù phiếm…
- Sự suy thịnh thuộc về quy luật của vũ trụ và triều đại, vì vậy nhà Nho chân chính đều tự ý thức sự cao quý của bản thân, cần giữ tâm hồn thanh sạch, không bị thế gian làm ô uế.
- Hai câu cuối cho thấy nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm là kẻ sĩ thanh cao, liêm khiết
Câu 5 (Trang 130 sgk ngữ văn 10 tập 1)
Quan niệm sống “Nhàn” (Nguyễn Bỉnh Khiêm) không phải là bỏ mặc thế sự để sống tản mạn, mà là giữ cốt cách thanh cao mà không thờ ơ với dân chúng
+ Ông sống hòa hợp với tự nhiên, rời bỏ danh lợi để giữ cốt cách thanh cao
+ Ông vẫn lo lắng cho vận nước và sức dân, tìm đến “say” nhưng để “tỉnh” nhận ra phú quý chỉ là phù du
+ Ông luôn bộc trực, không thờ ơ trước tình cảnh của dân chúng (ông dâng sớ xin vua chém mười tám lộng thần)
→ Quan niệm sống “nhàn” của ông chứa đựng yếu tố tích cực khác với lối sống “độc thiện kì thân”
Luyện tập
Bài 1 (Trang 130 sgk ngữ văn 10 tập 1)
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1549 -1585), chứng kiến cảnh sống ngang trái, bất công trong triều đại phong kiến Việt Nam.
- Ông là người ngay thẳng nên từng dâng sớ chém đầu những tên nịnh thần, vua không nghe nên ông cáo quan về quê với triết lý: Nhàn một ngày là tiên một ngày.
- Tư tưởng, triết lý sống của ông là tư tưởng của đạo nho, ứng xử trong thời loạn, sống chan hòa với thiên nhiên, giữ tâm hồn thanh cao.
- Nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm: thanh cao, trong sạch
Nhàn là chủ đề lớn trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, theo quan niệm của ông: sống tự nhiên, không màng danh lợi, đó cũng là triết lý nhân sinh độc đáo của nhà thơ.
- Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ “Nhàn”: giản dị, đạm bạc mà thanh cao, trong sạch
+ Vui thú với lao động, nguyên sơ, chất phác
+ Không ganh tị với đời, vẫn ung dung, ngạo nghễ
- Những hình ảnh dân dã, đời thường trong lối sinh hoạt của tác giả:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
+ Cuộc sống hòa mình với thiên nhiên, thanh tao trong cách ăn uống, sinh hoạt
+ Niềm vui, sự tự tại của tác giả thú vị vô cùng
- Hai câu thơ thực, thấy rõ tâm trạng, lối sống “nhàn” của tác giả:
+ Nghệ thuật đối lập: ta >< người, khôn >< dại, vắng vẻ >< lao xao
+ Suy nghĩ của bậc đại trí, tránh xa chốn quan trường thị phi
+ Ý thơ ngược với câu chữ, liên tưởng hóm hỉnh, sâu cay
- Hai câu kết: tâm thế ung dung tự tại, xem thường phú quý
+ Sử dụng điển tích vua Nghiêu Thuấn để thể hiện nhãn quan tỏ tường của nhà thơ. Phú quý chỉ là phù du, hư ảo như giấc chiêm bao.
→ Bài thơ là lời tâm sự thâm trầm, sâu sắc, quan niệm sống nhàn hòa hợp với tự nhiên, giữ cốt cách, xem thường danh lợi.
5. Đề bài tham khảo số 2
I. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
- Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất:
+ Số từ “một” được lặp lại ba lần: tư thế sẵn sàng lao động.
+ Danh từ: mai, cuốc, cần => cuộc sống lao động giản dị.
=>Hình ảnh người nông dân gắn với những công cụ lao động giản dị, quen thuộc.
- Nhịp điệu hai câu thơ đầu:
+ Câu 1 nhịp thơ ngắt 2/2/3
+ Câu 2 nhịp thơ ngắt: 4/3
=>Sáng tạo hơn so với thơ đường luật. Nhịp thơ cho thấy sự khoan thai, tự tại của chủ thể trữ tình.
- Cuộc sống của nhà thơ khi cáo quan về quê ở ẩn: ung dung, thanh thản gắn liền với những công cụ lao động quen thuộc, giản dị.
Câu 2 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
- Nơi “vắng vẻ: là nơi bình yên trong tự nhiên, nơi thư thái tâm hồn.
- Chốn “lao xao” là chốn đô hội, cửa quyền, nơi con người bon chen danh lợi.
- Quan điểm của tác giả về dại – khôn:
+ Chữ “dại” tác giả tự vận vào mình hóa ra là “không dại” vì thời thế khi những kẻ lộng quyền xấu xa hoành hành thì việc rút lui khỏi chốn quan quyền là điều đúng đắn.
+ Chữ “khôn” tác giả dùng cho “người ta” lại là “không khôn”: xã hội lọan lạc, rối ren con sẽ đánh mất nhân phẩm, một mực bon chen, giành giật để đạt danh vọng, trở thành những kẻ xấu như bao kẻ xấu kia.
=>Tác giả tự nhận mình dại, cho người khôn.
=>Cách nói ngược, hàm ý pha chút hóm hỉnh, mỉa mai. Theo ông khôn mà dại, dại mà khôn.
- Nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4:
+ Khôn ><dại
+ Nơi vắng vẻ><chốn lao xao
=>Nhân cách trong sáng, tránh xa bụi trần và cuộc sống bon chen.
=>Quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh khiêm xuất phát từ trí tuệ uyên thâm, từ nhân cách cao quý.
Câu 3 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
- Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong hai câu thơ 5, 6:
+ Các sản vật: Mùa thu ăn măng trúc, đông ăn giá=>Món ăn dân dã, thanh đạm nhưng không cơ cực.
- Khung cảnh sinh hoạt: xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao =>thú vui tao nhã, thanh bần
=>Cuộc sống thôn quê chất phác, đạm bạc nhưng thanh cao. Sự hòa quyện, gắn bó giữa con người và thiên nhiên.
- Giá trị nghệ thuật:
+ Hình ảnh dung dị, mộc mạc, chân tình.
+ Ngắt nhịp: 1/3/1/2=>nhấn mạnh các mùa trong năm, mùa nào thức nấy.
Câu 4 (trang 130 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
- Điển tích: Thuần Vu Phần uống rượu nằm dưới gốc cây hòe để thức tỉnh, nhận ra chân lý cuộc sống: Phú quý chỉ là một giấc chiêm bao, ảo mộng.
=>Thái độ coi thường, phú quý, danh lợi.
- Tác giả khẳng định cái tồn tại vĩnh hằng là thiên nhiên và nhân cách con người. Phủ nhận danh lợi, vật chất đều là hư vô.
=>Quan niệm sống cao cả của một bậc đại nhân, đại chí.
Câu 5 (trang 130 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm: không màng phú quý. Ông xa lánh nơi quyền quý để giữ cốt cách thanh cao, sống hòa hợp với thiên nhiên cây cỏ. Đó là lối sống không vướng bận, không bon chen.
=>Quan niệm sống tích cực vì trong hoàn cảnh rối ren, nhiều bon chen, phụ bạc tác giả muốn giữ gìn nhân cách, sự thanh thản, tĩnh tại cho mình.
II. Luyện tập
Cảm nhận chung về cuộc sống, nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ Nhàn:
Gợi ý:
a, Mở bài: giới thiệu về tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm và tác phẩm Nhàn.
b, Thân bài:
- Giới thiệu hoàn cảnh sáng tác bài thơ.
- Phân tích bài thơ:
1, Hai dòng thơ đề: Cuộc sống lao động giản dị nơi thôn quê dân dã.
- Liệt kê: mai, cuốc, cần => cuộc sống lao động giản dị.
- Điệp từ: một (3 lần)=> tư thế sẵn sàng lao động
=> hình ảnh người nông dân gắn với những công cụ lao động giản dị, quen thuộc.
- “thơ thẩn” gợi ra trạng thái thảnh thơi, tâm thế ung dung, thanh thản không vướng bận ưu tư, phiền muộn, danh lợi.
=> Cuộc sống của nhà thơ khi cáo quan về quê ở ẩn: ung dung, thanh thản gắn liền với những công cụ lao động quen thuộc, giản dị.
- Quan niệm nhàn: ung dung, tự tại, bình dị.
2, Hai dòng thơ thực: quan niệm về dại khôn của nhà thơ.
- “Nơi vắng vẻ” và “chốn lao xao” mang ý nghĩa biểu tượng.
+ “Tìm nơi vắng vẻ” không phải là xa lánh cuộc đời mà là tìm nơi mình thích thú được sống thoải mái an nhàn .
+ “Chốn lao xao”: là nơi quan trường, chốn vụ lợi giành giật lẫn nhau.
- Tự nhận mình dại, cho người khôn =>Cách nói ngược, hàm ý pha chút hóm hỉnh, mỉa mai. Theo ông khôn mà dại, dại mà khôn.
+ Biện pháp nói ngược: ta dại và người khôn.
+ Biện pháp ẩn dụ: lối sống gán bó với thiên nhiên, lối sông thanh bạch.
=>Bộc lộ thái độ, phương châm sống của mình pha chút mỉa mai người khác.
=>Nhân cách trong sáng, tránh xa bụi trần và cuộc sống bon chen.
3, Hai dòng thơ luận: Cuộc sống sinh hoạt nơi thôn dã vô cùng bình dị và thanh cao.
- Mùa thu ăn măng trúc, đông ăn giá=>Món ăn dân dã, thanh đạm nhưng không cơ cực.
- Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao =>thú vui tao nhã, thanh bần.
=>Cuộc sống thôn quê chất phác, đạm bạc nhưng thanh cao.
4, Hai dòng thơ cuối: chân lý về cuộc sống.
- Phú quý chỉ là một giấc chiêm bao, ảo mộng.
- Thái độ coi thường, phú quý, danh lợi.
=>Quan niệm sống cao cả của một bậc đại nhân, đại chí.
=>Bài học về quan niệm sống, lẽ sống: Con người nên sống thanh thản, yêu thương nhau, trân trọng và gìn giữ vẻ đẹp bình dị, nhân cách thanh cao đồng thời phê phán lối sống xa xỉ, chạy theo vật chất, danh lợi cá nhân.
c, Kết bài: Bài thơ thể hiện được quan niệm “nhàn” của nhà thơ và tình yêu thiên nhiên tha thiết.
6. Mẫu bài soạn tham khảo số 3
Hướng dẫn soạn bài
Bố cục
- 6 câu đầu: cuộc sống và lẽ sống “nhàn”của tác giả
- 2 câu cuối: Chiêm nghiệm về cuộc đời
Câu 1 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Cách dùng số từ, danh từ trong câu thơ thứ nhất và nhịp điệu hai câu thơ đầu có một số điểm đáng chú ý:
+ Số từ “một… một… một…” cho thấy tác giả chủ động với công việc
+ Nhịp thơ 2/2/3 tạo sự thảnh thơi, nhàn nhã
+ Chữ “ai” ở câu thơ thứ hai để nói với người: dù cho người ta có “vui thú nào” thì ông vẫn vui vẻ với cuộc sống thôn dã
- Hai câu thơ ấy cho ta thấy cuộc sống nhàn nhã ở nơi thôn dã của tác giả. Ông vui vẻ, hài lòng với đời sống “tự cung tự cấp”, đồng thời hai câu thơ cũng cho thấy sự ngông ngạo trước thói đời. Ngông ngạo mà không ngang tàng vẫn cứ thuần hậu, nguyên thủy
Câu 2 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Cách hiểu về “nơi văng vẻ” và “chốn lao xao”:
+ “nơi vắng vẻ”: là nơi không người cầu cạnh ta và ta cũng không cầu cạnh người; là nơi tĩnh tại của thiên nhiên và nơi thảnh thơi của tâm hồn.
+ “chốn lao xao”: chốn quan trường, đường hoạn lộ; nơi sang trọng, đầy thủ đoạn, bon chen, luồn lọt, sát phạt
- Quan điểm của tác giả về “dại” và “khôn”: tác giả tự nhận mình là người “dại” , chấp nhận mọi điều tiếng để “tìm nơi vắng vẻ”, nhường người “khôn” đến “chốn lao xao”. Ông đã trải đời đã tận hiểu sự đua chen, trói buộc của vòng danh lợi, bởi thế ông phủi tay với những sự đua chen ở "chốn lao xao". Tự nhận là "dại", song thực chất là "khôn", cũng giống như những người trải nghiệm, cứ luẩn quẩn trong vòng danh lợi, cứ nghĩ mình "khôn" nhưng thực chất là "dại".
- Tác dụng biểu đạt ý của nghệ thuật đối trong hai câu thơ 3 và 4: tạo sự so sánh giữa hai triết lí sống, qua đó khẳng định triết lí sống của tác giả.
Câu 3 (trang 129 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1): Các sản vật và khung cảnh sinh hoạt trong hai câu thơ 5, 6 có những điểm đáng chú ý:
+ Thức ăn quê mùa, dân dã: măng trúc, giá đỗ
+ Sinh hoạt: thích tắm hồ, tắm ao như bao người dân quê khác
+ Hai câu thơ tạo thành bức tranh tứ bình về cảnh sinh hoạt với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, có mùi vị, có hương sắc.
- Hai câu thơ cho thấy cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm đạm bạc mà thanh cao.Sự đạm bạc ở những thức ăn cây nhà lá vườn, tự mình làm ra, là công sức của chính mình. Cuộc sống tự nhiên mùa nào thức ấy, không hề nặng nề, ảm đạm mà trái lại nó thanh cao, bình dị.
Câu 4 (trang 130 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
Hai câu thơ cuối thể hiện vẻ đẹp trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Với cái nhìn thông tuệ của mình, ông tìm đến “say” để “tỉnh”. Hình ảnh một ông già ngồi một mình bên gốc cây uống rượu hiện lên với vẻ thoải mái nhưng “lạc lõng”. Nhiều năm trong chốn quan trường kia để ông nhận ra công danh, của cải, quyền quý chỉ là giấc chiêm bao. Đây là cái nhìn của một nhân cách lớn, một trí tuệ lớn.
Câu 5 (trang 130 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):
Quan niệm sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là: sống hòa hợp với tự nhiên và xa lánh nơi quyền quý, chốn quan trường để giữ cốt cách thanh cao. Với ông, sống nhàn không có nghĩa là không quan tâm đến xã hội, chỉ lo cuộc sống nhàn tản của bản thân mà sống nhàn là cuộc sống xa lánh nơi quyền quý, rời khỏi vòng danh lợi, sống hòa hợp với tự nhiên. Cuộc sống như vậy sẽ vất vả nhưng nó đem đến cho ông sự thoải mái trong tâm hồn, giữ được sự thanh sạch trong đời mình.
Luyện tập
Vẻ đẹp cuộc sống và tâm hồn của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ "Nhàn"
Nguyễn Bình Khiêm là người có học vấn uyên thâm, là nhà thơ lớn của dân tộc . Thơ của ông mang đậm chất triết lí giáo huấn , ngợi ca chí khí của kẻ sĩ ,thú thanh nhàn, đồng thời cũng phê phán những điều sống trong xã hội. “Bạch Vân quốc âm thi tập” một tập thơ tiêu biểu trong sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm và “Nhàn” là một trong những bài thơ tiêu biểu trong tập thơ này. Bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp trong cuộc sống và tâm hồn của nhà thơ.
Với những ngôn từ giản dị, tác giả viết:
“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
Hai câu thơ đầu được mở ra với những dụng cụ lao động quen thuộc của người dân, làm hiện lên hình ảnh một ông lão nông dân với cuộc sống thảnh thơi của mình. Câu thơ đưa ta trở về với cuộc sống chất phác nguyên sơ của cái thời "nước giếng đào, cơm cày ruộng". câu đầu còn là cái tâm thế nhàn tản, thong dong. Nhịp cầu thơ nghe như nhân vật trữ tình đang nhẹ nhàng đếm bước: một... một... một... Tất cả điều đó làm hiện lên một cuộc sống thôn quê nhàn nhã, dù cho ai đang vui với bất kì thú vui nào, ta vẫn mặc đó, ta vui với thú vui giản dị của ta.
Hai câu thơ sau được nối tiếp với những món ăn dân dã theo mùa, những hoạt động thể hiện lối sống nhàn, hòa mình với cuộc sống bình dị:
"Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.”
Vẫn là những ngôn từ giản dị, vẫn là những hình ảnh nghệ thuật dân dã, đời thường. Thu với măng trúc, đông với giá – những món ăn quen thuộc, không chút cầu kì cho thấy một cuộc sống giản dị vô cùng. Những sinh hoạt trong cuộc sống cũng thể hiện lối sống thanh sạch ấy: tắm ở hồ sen và tắm ao. Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm dường như chẳng còn chút gợn gì về một vị quan lớn của triều đình. Đây là một cuộc sống thanh cao trong cách ăn uống sinh hoạt và cả trong cái niềm thích thú khi được hòa mình vào cuộc sống thiên nhiên.
Không chỉ đẹp trong cuộc sống, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn, nhân cách của bản thân khi đưa ra những quan niệm sống của mình:
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Quan niệm của tác giả về “dại” và “khôn” của “ta” và “người” thật khác lạ. Ta là kẻ “dại” nên tìm nơi thôn quê dân giã để về, người “khôn” người vào với trốn quan. Sau những năm tháng làm quan trong triều, Nguyễn Bỉnh Khiêm hiểu ra những góc khuất của trốn này. Và Tuyết Giang phu tử về với thiên nhiên là để thoát ra khỏi vòng danh lợi, thoát ra khỏi chốn nhiễu nhương đầy những ganh tị, bon chen. Phải là một người từng trải mới có thể nhận ra cái dại, cái khôn ở đời. Điều này khiến người đọc ngẫm ra ai mới là kẻ “dại”, ai mới là người “khôn”.
Hai câu thơ kết khép lại bằng một phong thái ung dung tự tại:
Rượu đến cội cây, ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Hai câu thơ cuối là nét vẽ cuối cùng trong bức tranh về cuộc sống nhàn, ở đó nhân vật đang ngồi dưới gốc cây uống rượu để ngẫm về sự đời. Hóa ra, trong cuộc sống nhàn kia lại có biết bao băn khoăn, trăn trở, chứa đựng những nỗi niềm riêng. Đó là khát khao được đem sức của mình ra để phục vụ việc triều chính nhưng đành bất lực trước thế sự trước mắt. Đến đây, ta ngẫm ra một sự thật rằng phú quý, giàu sang chỉ như giấc mơ mà ai ai cũng muốn được với tới. Và chỉ có những người đã thoát ra khỏi trốn quan trường kia mới biết cuộc sống dân giã mới đáng quý thế nào.
Bài thơ không chỉ phác họa một bức tranh bốn mùa với những thức ăn, hoạt động dân giã mà ở đây nó còn thể hiện chân dung của con người hòa mình trong cuộc sống thôn quê, chất phác với những nét đẹp trong cuộc sống và nhân cách, tâm hồn.