1. Mẫu bài soạn 'Thuý Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh' (Ngữ văn 11- SGK Chân trời sáng tạo) - phiên bản 4
Câu 1. Liệt kê các sự kiện trong văn bản.
- Thúy Kiều bị choáng váng khi phát hiện mình và Thúc Sinh bị mắc bẫy của Hoạn Thư, phải nhẫn nhục hầu rượu.
- Thúc Sinh cũng sốc và đau khổ khi nhận ra tình cảnh tương tự, phải giả vờ không biết Thúy Kiều.
- Thúy Kiều bị Hoạn Thư dùng tư cách chủ nhân để hạ nhục và đe dọa Thúc Sinh.
- Hoạn Thư cảm thấy hả dạ, còn Thúc Sinh thì ê chề và nhục nhã.
- Thúy Kiều trải qua tâm trạng tủi nhục và đau đớn.
Câu 2. Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích, chú ý lời kể và độc thoại nội tâm của Thúy Kiều.
- Trước cuộc hầu rượu:
- Độc thoại nội tâm: thể hiện sự bất ngờ và hoang mang khi nhận ra âm mưu của Hoạn Thư và tình cảnh khó khăn của mình như “Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai”, “Thôi thôi đã mắc vào tay ai rồi”.
- Lời miêu tả của người kể chuyện: mô tả tâm lý Thúy Kiều qua các dòng “Bước ra một bước một dừng/Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa/Càng trông mặt, càng ngẩn ngơ/Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời/Sợ uy chẳng dám vâng lời/Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.”
- Trong cuộc hầu rượu: cảm giác ngượng ngùng và nhục nhã, bị buộc phải đứng chực và mời rượu; hầu đàn: cảm thấy đau khổ và tan nát lòng.
- Hầu rượu “Vợ chồng chén tạc chén thù/Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi/Bắt khoan bắt nhặt đến lời/Bắt quỳ tận mặt, bắt mời tận tay.”
- Hầu đàn: “Bốn dây như khóc như than/Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng/Cùng trong một tiếng tơ đồng/Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.”
- Sau cuộc hầu rượu, hầu đàn: “Bây giờ mới rõ tăm hơi… Bể sâu sóng cả có tuyền được vay”; cuối cuộc hầu rượu: “Một mình âm ỉ đêm chầy/Đĩa dầu vơi, nước mắt đầy năm canh.”
Câu 3. So sánh hành động và cảm xúc của Hoạn Thư và Thúc Sinh trong các tình huống sau:
Tình huống
Nhân vật
Hành động/ vẻ bề ngoài
Nội tâm
Thúy Kiều mời rượu
Hoạn Thư
Ra lệnh cho Kiều hầu đàn, “xem mặt hỏi tra” Thúc Sinh, “thơn thớt nói cười” khen ngợi giả tạo, mỉa mai về lòng hiếu của Thúc Sinh.
“Nham hiểm giết người không dao”, âm mưu “làm ra con ở chúa nhà đôi nơi”
Thúc Sinh
“Chén tạc chén thù” quay đi, nói cười gượng gạo, cạn chén theo sự sai khiến của Hoạn Thư
“Phách lạc hồn xiêu” khi biết mình và Kiều “đã mặc vào tay” Hoạn Thư, tan nát lòng “nát ruột tan hồn”.
Thúy Kiều hầu đàn
Hoạn Thư
“Cười nói tỉnh say, chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi”; ngợi khen, quát mắng Thúy Kiều
“Dường đà tâm can”, “khấp khởi mừng thầm”
Thúc Sinh
“Gượng nói, gượng cười”
Cảm thấy “thảm thiết bồi hồi”, “gan héo ruột đầy”, “nỗng lòng càng nghĩ càng đắng lòng”
Câu 4. So sánh cảnh ngộ và tâm trạng của Thúy Kiều trong câu thơ độc thoại Lỡ làng chút phận thuyền quyên/ Bể sâu sóng cả có tuyền được vay? với các câu ca dao:
- Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?
- Lênh đênh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước biết gửi mình về đâu?
Điểm chung là hình ảnh con thuyền nhỏ phiêu bạt giữa sóng cả, lo lắng, bất an về tương lai mờ mịt; câu nghi vấn diễn tả tâm trạng.
2. Mẫu bài soạn về 'Thuý Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh' (Ngữ văn 11- SGK Chân trời sáng tạo) - phiên bản 5
HƯỚNG DẪN ĐỌC
Câu 1: Hãy liệt kê các sự kiện chính trong văn bản.
Trả lời
- Các sự kiện chính trong văn bản:
+ Thúc Sinh trở về quê, được Hoạn Thư tiếp đón nồng nhiệt và vui vẻ.
+ Hoạn Thư và Thúc Sinh tổ chức tiệc rượu để trò chuyện và tâm tình.
+ Hoạn Thư yêu cầu Thúy Kiều phục vụ rượu, nhằm hạ nhục Kiều và cảnh cáo Thúc Sinh.
+ Thúc Sinh nhận ra Thúy Kiều và cảm thấy buồn bã, tâm trạng trở nên nặng nề, lòng đầy cay đắng.
Câu 2: Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích, chú ý lời người kể chuyện và các đoạn độc thoại nội tâm của Kiều.
Trả lời
Tâm trạng của Thúy Kiều khi hầu rượu là một chuỗi cảm xúc phức tạp và sâu sắc:
- Khi mới bước ra, Kiều ngạc nhiên và sốc, chỉ biết thốt lên “Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai” khi nhận ra tình cảnh.
- Sau khi hiểu rõ hành động của Hoạn Thư, Kiều cảm thấy căm ghét và chán nản trước vẻ bề ngoài của Hoạn Thư và những thủ đoạn của nàng.
- Kiều cảm thấy rối bời, không thể phản kháng vì sợ bị Hoạn Thư làm hại.
- Tâm trạng Kiều trở nên tê tái và vô thức, cảm giác như đã chết trong lòng, với sự mâu thuẫn giữa vẻ bề ngoài bình thường và nỗi đau trong lòng.
- Thúy Kiều càng nghĩ càng đau đớn, khóc lóc vì phận mình đầy oan trái và nghiệt ngã.
Câu 3: So sánh hành động và cảm xúc của Hoạn Thư và Thúc Sinh trong các tình huống dưới đây:
Tình huống
Nhân vật
Hành động/vẻ bề ngoài
Nội tâm
Thúy Kiều mời rượu
Hoạn Thư
- Vui vẻ, ân cần, nói cười
- Hoạn Thư giả vờ ân cần, ân cần hỏi han Thúc Sinh khi chứng kiến chàng khóc
- Thực chất, Hoạn Thư âm thầm hại Kiều, lợi dụng Thúy Kiều để thỏa mãn lòng ghen
- Ghen tị khi thấy Thúc Sinh khóc, lợi dụng cơ hội để ra lệnh và mắng mỏ Thúy Kiều
Thúc Sinh
- Ngỡ ngàng, bối rối.
- Buồn bã, khóc lóc vì nhớ mẹ và xót thương Thúy Kiều khi nhận ra nàng.
Thúy Kiều hầu đàn
Hoạn Thư
- Ra vẻ ân cần, yêu cầu Thúy Kiều gảy đàn khác để làm vui lòng Thúc Sinh.
- Hả hê khi thấy Thúy Kiều đau đớn và gảy khúc đàn buồn.
Thúc Sinh
- Gượng cười, buồn bã.
- Xót xa và cay đắng, nhưng cố gắng giữ bình tĩnh để tránh làm khó Thúy Kiều hơn.
Câu 4: So sánh cảnh ngộ và tâm trạng của Thúy Kiều với các câu ca dao dưới đây. Vì sao có sự tương đồng như vậy?
- Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?
- Lênh đênh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước biết gửi mình về đâu?
Trả lời
- Thúy Kiều và các nhân vật trong ca dao đều mang số phận bất hạnh, bị xã hội đẩy đến đường cùng và cảm thấy lạc lối trong cuộc sống.
- Cả hai đều bị cuộc đời xô đẩy, không biết làm thế nào để vượt qua khó khăn, chỉ biết lặng lẽ chịu đựng và chấp nhận số phận.
- Sự tương đồng nằm ở sự bế tắc và sự bất lực trước tương lai mờ mịt, khi cả hai đều tìm kiếm lối thoát và hy vọng.
PHẦN THAM KHẢO MỞ RỘNG
Câu 1: Hãy nêu giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Thúy Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh.
Trả lời
- Giá trị nội dung:
Đoạn trích mô tả cảnh Thúy Kiều bị bắt phải hầu rượu Hoạn Thư và Thúc Sinh, thể hiện những cảm xúc và tâm trạng phức tạp của các nhân vật, cho thấy sự bất hạnh và sự kìm hãm của Kiều.
- Giá trị nghệ thuật:
- Nhân vật phản diện được khắc họa rõ nét qua các hành động và thái độ của họ.
- Ngôn ngữ văn học dân tộc được sử dụng tinh tế, thể hiện sự hoàn thiện và sự phong phú của ngôn ngữ.
Câu 2: Nêu nội dung chính của đoạn trích Thúy Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh.
Trả lời
Đoạn trích kể về việc Thúy Kiều bị bắt hầu rượu vợ chồng Hoạn Thư.
3. Bài phân tích 'Thúy Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh' (Ngữ văn lớp 11 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 6
Câu chuyện về Hoạn Thư và lòng ghen của nàng
Hẳn ai cũng biết đến Hoạn Thư và sự ghen tuông nổi tiếng của nàng. Tuy nhiên, ít ai hiểu sâu về “đức” ghen này. Hoạn Thư thường được biết đến như một người đàn bà độc ác, tàn nhẫn với việc hành hạ Thúy Kiều, khiến tên nàng trở thành biểu tượng của sự ghen tuông dữ dội.
Vào những năm 50-60 ở miền Nam Việt Nam, có nhiều vụ đánh ghen ghê rợn, như đốt chồng hay tạt axít vào tình địch. Tuy nhiên, ghen của Hoạn Thư lại được nhớ đến nhiều hơn và vẫn được xem là điển hình của sự ghen tuông.
Nếu nghiên cứu kỹ về cách Hoạn Thư ghen trong “Đoạn Trường Tân Thanh”, ta sẽ thấy nàng không hẳn là một người tàn nhẫn như người ta thường nghĩ. Thực tế, Hoạn Thư không hề thù ghét Thúy Kiều mà chỉ tức giận vì chồng nàng. Nàng từng viết:
Từ nghe vườn mới thêm hoa,
Miệng người đã lắm, tin nhà thì không.
Lửa tâm càng dập càng nồng,
Giận người đen bạc ra lòng trăng hoa.
Ví bằng thú thật cùng ta,
Cũng dong kẻ dưới mới là lượng trên.
Dại chi chẳng giữ lấy nền,
Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình.
Hoạn Thư không muốn dính đến tiếng xấu của sự ghen vì lễ giáo Nho giáo chấp nhận việc đàn ông có nhiều thê thiếp, miễn là thông báo cho chính thất biết. Thêm vào đó, nàng còn chưa có con nối dõi.
Khi Thúc Sinh đang yêu Thúy Kiều, Kiều khuyên chàng phải làm theo lễ nghi:
Xin chàng liệu kíp lại nhà,
Trước người đẹp ý, sau ta biết tình.
Đêm ngày giữ mực giấu quanh,
Rày lần mai lữa như hình chưa thông!
Dù không muốn rời xa Kiều, nhưng thấy lời khuyên hợp lý, Thúc Sinh quyết định về nhà. Khi tiễn biệt, Kiều còn nhắc nhở:
Nàng rằng: Non nước xa khơi,
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.
Dễ lòa yếm thắm trôn kim,
Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng.
Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,
Đến nhà trước hãy nói sòng cho minh.
Dù khi sóng gió bất tình,
Lớn ra uy lớn, tôi đành phận tôi.
Hơn điều giấu ngược giấu xuôi,
Lại mang những việc tày trời đến sau.
Về nhà, Thúc Sinh không nhắc đến việc có vợ nhỏ ở Lâm Truy, và Hoạn Thư không nhắc gì về điều đó, có lẽ nàng muốn chồng phải tự lên tiếng. Vì vậy:
Thấy lời thủng thẳng như chơi,
Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn.
Vì không thông báo, Hoạn Thư đã lên kế hoạch riêng. Nàng cử đội biệt kích sang Lâm Truy bắt cóc Thúy Kiều và đưa về Vô Tích để hành hạ Thúc Sinh. Đội biệt kích đã thành công và thay Kiều bằng một xác không rõ danh tính để lừa gạt gia đình Thúc Sinh. Thúy Kiều được đưa về cho mẹ Hoạn Thư để học làm tôi tớ trước khi được đưa về nhà Hoạn Thư. Tuy không quá tàn nhẫn với Kiều, Hoạn Thư vẫn muốn dằn mặt chồng. Một ngày, nàng hỏi Kiều về tài đánh đàn:
Phải đêm êm ả chiều trời,
Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày.
Lĩnh lời nàng mới lựa dây,
Nỉ non thánh thót dễ say lòng người !
Tiểu thư xem cũng thương tài,
Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.
Hoạn Thư rõ ràng không giống những người phụ nữ ghen tuông khác. Nàng có lòng khoan dung và không quá khắc nghiệt với Kiều, điều này chứng tỏ sự ghen của nàng không giống như sự ghen thường thấy.
Khi Thúc Sinh trở về Vô Tích, ông đã làm tang lễ cho Kiều, thực ra chỉ là xác vô chủ. Thúc Sinh tìm thầy phù thủy để tìm Kiều và được biết nàng còn sống, nhưng phải chờ một năm mới gặp lại. Trong khi chờ đợi, Thúc Sinh sống trong nỗi thương nhớ và trở về Vô Tích. Khi gặp lại Kiều, cả hai đều bất ngờ nhận ra nhau và sợ hãi. Hoạn Thư đã tổ chức một bữa tiệc “tẩy trần” và bắt Kiều phục vụ:
Vợ chồng chén tạc chén thù,
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.
Bắt khoan bắt nhặt đến lời,
Bắt quì tận mặt, bắt mời tận tay.
Thúc Sinh cảm thấy thương xót cho Kiều và từ chối uống rượu. Hoạn Thư dọa đánh Kiều, chàng phải ép mình uống. Sau đó, Hoạn Thư bắt Kiều đàn cho Thúc Sinh nghe:
Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.
Cùng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.
Giọt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt sương.
Khi Kiều bị Hoạn Thư trách móc, Thúc Sinh gượng cười cho qua. Cuộc ghen tuông của Hoạn Thư kết thúc nhẹ nhàng, không tàn nhẫn như những cuộc ghen khác. Kiều tiếp tục làm thị tì nhưng luôn buồn bã. Hoạn Thư hỏi và Kiều dâng một lá đơn:
Cúi đầu quì trước sân hoa,
Thân cung nàng mới dâng qua một tờ.
Diện tiền trình với tiểu thư,
Thoắt xem dường có ngẩn ngơ chút tình.
Liền tay trao lại Thúc sinh,
Rằng: Tài nên trọng mà tình nên thương!
Ví chăng có số giầu sang,
Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên !
Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời.
Hoạn Thư đã đồng ý cho Kiều đi tu, mặc dù tình trạng nô lệ của Kiều vẫn còn nhưng nhẹ nhàng hơn. Thúc Sinh lén đến thăm Kiều và được nàng cầu xin:
Liệu bài mở cửa cho ra,
Ấy là tình nặng, ấy là ân sâu.
Khi Hoạn Thư phát hiện, nàng không xuất hiện ngay mà đứng nghe lén. Khi nghe xong, Hoạn Thư an tâm vì Thúc Sinh đã dứt khoát với Kiều và khuyên nàng trốn đi. Hoạn Thư vui vẻ khi thấy Kiều viết Kinh, và không còn oán trách. Khi Kiều báo ân và trả oán, nàng đã tha cho Hoạn Thư:
Rằng: Tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Nghĩ cho khi các viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng, riêng cũng kính yêu,
Chồng chung chưa dễ ai chiều được ai.
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?
Cuối cùng, Kiều đã tha cho Hoạn Thư và thấy nàng không thực sự đáng trách. Hoạn Thư chỉ muốn dằn mặt Thúc Sinh vì sự bất kính. Nàng đã đạt được mục đích và mãn nguyện, không còn truy đuổi Kiều khi nàng bỏ trốn.
Tạ Quang Khôi
4/2001
Theo truyenkimvankieu.blogspot.com
4. Phân tích bài thơ 'Thuý Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh' (Ngữ văn 11 - SGK Chân trời sáng tạo) - ví dụ 1
* Suy ngẫm và phản hồi:
Nội dung chính:
Bài thơ diễn tả những cảm xúc sâu sắc và đa chiều của Thúy Kiều khi hầu rượu cho Thúc Sinh và Hoạn Thư.
Câu 1 (trang 50 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Liệt kê các sự kiện được trình bày trong văn bản.
Trả lời:
Các sự kiện trong văn bản được người kể chuyện mô tả như sau:
- Thúy Kiều bị choáng váng và sợ hãi khi phát hiện mình và Thúc Sinh đã rơi vào bẫy của Hoạn Thư, buộc phải nhẫn nhục phục vụ rượu cho Hoạn Thư và Thúc Sinh.
- Thúc Sinh cũng cảm thấy choáng váng, đau đớn khi nhận ra mình và Kiều đã mắc mưu Hoạn Thư, đành phải giả vờ không biết Thúy Kiều.
- Thúy Kiều mời rượu Hoạn Thư và Thúc Sinh; Hoạn Thư lợi dụng địa vị để áp chế và nhục mạ Thúy Kiều.
- Thúy Kiều phục vụ đàn cho Hoạn Thư và Thúc Sinh, trong khi Hoạn Thư tiếp tục hạ nhục Kiều và đe dọa Thúc Sinh.
- Hoạn Thư cảm thấy hài lòng, trong khi Thúc Sinh đầy xấu hổ và nhục nhã.
- Thúy Kiều trải qua nỗi đau và tủi nhục.
Câu 2 (trang 50 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích (chú ý lời người kể chuyện và các đoạn độc thoại nội tâm của Thúy Kiều).
Trả lời:
- Độc thoại nội tâm: Thể hiện sự bất ngờ và hoang mang khi nhận ra mưu kế tinh vi của Hoạn Thư và tình cảnh khó xử của mình: “Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai”, “Thôi thôi đã mắc vào tay ai rồi”. Nghệ thuật độc thoại nội tâm (12 dòng, vừa tự vấn vừa tự khẳng định; bộc lộ niềm hoang mang, không phải lời nửa trực tiếp).
- Lời miêu tả của người kể chuyện: Diễn tả tâm trạng Thúy Kiều, như ở các dòng: Bước ra một bước một dừng,/ Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa./ Càng trông mặt, càng ngẩn ngơ/ Ruột tầm đòi đoạn như tơ rối bời./ Sợ uy dám chẳng vâng lời,/ Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
- Trong cuộc hầu rượu, hầu đàn: Cảm thấy ngượng ngùng, đau khổ, ê chề, nhục nhã. Hầu rượu: Vợ chồng chén tạc chén thù,/ Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi./ Bắt khoan bắt nhặt đến lời,/ Bắt quỳ tận mặt bắt mời tận tay.
Gián tiếp miêu tả Thúy Kiều qua sự đối lập giữa hành động bên ngoài và tâm trạng bên trong của Hoạn Thư và Thúc Sinh: Thúy Kiều bị rơi vào tình trạng mắc kẹt, sợ hãi, choáng váng, đau đớn, nhục nhã.
Hầu đàn:
– Người kể chuyện tả tâm trạng: Nàng đà tán hoán tề mê,/ Vàng lời ra trước bình the vặn đàn.
- Người kể chuyện tả tiếng đàn và tác động não nùng của tiếng đàn: Bốn dây như khóc như than,/ Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng./ Cùng trong một tiếng tơ đồng/ Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.
Sau cuộc hầu rượu, hầu đàn: Sự tương phản “tay ba”:
– Hoạn Thư: Tiểu thư trông mặt đường đà cam tâm/ Lòng riêng khấp khởi mừng thầm (2 dòng), độc thoại nội tâm: Vui này đã bỏ đau ngầm xưa nay.
- Thúc Sinh: Sinh thì gan héo ruột đầy,/ Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng (2 dòng).
– Thúy Kiều: Sau lời dẫn là độc thoại nội tâm: 'Bây giờ mới rõ tăm hơi ... Bể sâu sóng cả có tuyển được vayệ” (10 dòng) và cuối cuộc hầu rượu, hầu đàn: Một mình âm ỉ đêm cháy,/ Đĩa đầu vơi, nước mắt đầy năm canh (2 dòng).
Câu 3 (trang 50 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Kẻ bảng dưới đây vào vở, liệt kê một số chi tiết có tác dụng làm nổi bật sự khác biệt giữa hành động, vẻ bề ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên trong của hai nhân vật Hoạn Thư và Thúc Sinh trước các tình huống khác nhau:
Tình huống
Nhân vật
Hành động/ vẻ bề ngoài
Tâm trạng, cảm xúc bên trong
Thúy Kiều
mời rượu
Hoạn Thư
Thúc Sinh
Thúy Kiều
hầu đàn
Hoạn Thư
Thúc Sinh
Trả lời:
Tình huống
Nhân vật
Hành động/ vẻ bề ngoài
Tâm trạng, cảm xúc bên trong
Thúy Kiều
mời rượu
Hoạn Thư
Buộc Thúy Kiều phải hầu đàn, “xem mặt hỏi trả” Thúc Sinh, “thơn thớt nói cười” khen ngợi vờ vịt, mỉa mai lòng hiếu thảo của Thúc Sinh.
“Nham hiểm giết người không dao”; mưu toan “làm ra con ở chúa nhà đôi nơi”.
Thúc Sinh
“Chén tạc chén thù”, ngoảnh mặt đi, chợt nói, chợt cười, cạn chén rượu mà Thúy Kiều mời như một con rối; nhất cử nhất động theo sự sai khiến của Hoạn Thư.
“Phách lạc hồn xiêu”, khi biết cả Kiều và bản thân “đã mắc vào tay” Hoạn Thư; tan nát lòng “nát ruột tan hồn”.
Thúy Kiều
hầu đàn
Hoạn Thư
“Cười nói tỉnh say, chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi”; ngợi khen, quát mắng Thúy Kiều.
“Dường đà cam tâm”; “khấp khởi mừng thầm”
Thúc Sinh
“Vội vàng gượng nói gượng cười”.
Càng “thảm thiết bồi hồi”, “gan héo ruột đầy”, “nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng”.
Nhà thơ đã tả sự đối lập, tương phản giữa hai con người bề ngoài, bên trong của Hoạn Thư và Thúc Sinh, như “đi guốc trong bụng” nhân vật:
- Hoạn Thư: Bề ngoài thơn thớt nói cười/ Mà trong nham hiểm giết người không dao.
- Thúc Sinh: Người ngoài cười nụ cười trong khóc thầm.
Câu 4 (trang 50 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Cảnh ngộ, tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều qua hai dòng thơ độc thoại nội tâm Lỡ làng chút phận thuyền quyên/ Bể sâu sóng cả có tuyển được vay? Và cảnh ngộ, tâm trạng theo chủ thể trữ tình trong các câu ca dao dưới đây có điểm gì gần gũi nhau? Theo bạn, vì sao có sự gần gũi như vậy?
- Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?
- Lênh đênh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước biết gửi mình về đâu?
Trả lời:
- Cảnh ngộ, tâm trạng của Thúy Kiều được ví như con thuyền nhỏ trôi nổi giữa biển sâu, sóng cả, không rõ số phận mình sẽ ra sao; cảm giác lo lắng và bất an trước một tương lai mù mịt, câu hỏi nghi vấn gợi tả sự lo lắng của nhân vật và sự xót thương của người kể.
- Cảnh ngộ, tâm trạng của các nhân vật trong ca dao cũng được ví như trái bần trôi và chiếc thuyền tình lênh đênh giữa bể sâu sóng cả, không biết sẽ tấp vào đâu. Ca dao cũng dùng câu nghi vấn để thể hiện sự lo lắng và bất an.
- Sự tương đồng trong cảnh ngộ (trôi nổi, bất định, phiêu bạt) và tâm trạng (lo lắng, bất an) đến từ sự tương đồng trong cách sử dụng hình ảnh biểu tượng (thuyền quyên lỡ làng, trái bần trôi, chiếc thuyền tình lênh đênh) và hình thức biểu đạt (câu nghi vấn). Nguyễn Du và tác giả dân gian đều thể hiện sự đồng cảm và xót thương sâu sắc đối với Thúy Kiều và những người phụ nữ trong ca dao.
5. Bài phân tích 'Thúy Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh' (Ngữ văn 11 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 2
Tác giả
Nguyễn Du
Thông tin cá nhân
- Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.
* Thời đại:
- Thời kỳ biến động với sự thay đổi chủ quyền và sự suy tàn của chế độ phong kiến, cùng với phong trào khởi nghĩa nông dân.
→ Suy ngẫm về cuộc đời và thế thái nhân sinh.
* Quê hương và gia đình:
- Quê hương:
+ Quê cha: Hà Tĩnh – nổi bật với truyền thống văn hóa và học vấn.
+ Quê mẹ: Bắc Ninh – cái nôi của dân ca quan họ.
+ Nguyễn Du sống chủ yếu ở Thăng Long – nơi có lịch sử văn hiến lâu đời.
+ Quê vợ: Thái Bình, nổi bật với nền văn hóa phong phú.
→ Sự tiếp xúc với nhiều nền văn hóa đã tạo điều kiện cho tài năng nghệ thuật của ông phát triển.
- Gia đình:
+ Sinh ra trong gia đình quý tộc phong kiến:
> Cha: Nguyễn Nghiễm, từng làm Tể Tướng triều Lê.
> Anh: Nguyễn Khản, giữ chức Tham tụng (ngang Thừa tướng) trong phủ chúa Trịnh.
→ Điều kiện để ông tiếp thu kiến thức văn hóa và văn học uyên bác.
+ Mẹ: Trần Thị Tần, quê Bắc Ninh, thông minh và nết na, có hiểu biết về văn hóa dân gian.
→ Gia đình có truyền thống văn học và yêu thích nghệ thuật hát xướng.
* Cuộc đời:
- Thời thơ ấu và thanh niên (1765 – 1789): Sống đầy đủ và hào hoa ở Thăng Long trong gia đình quyền quý, hiểu biết về cuộc sống quý tộc phong kiến.
- Mười năm gian khổ (1789 – 1802): Sống nghèo khổ và phong trần, giúp ông có cái nhìn thực tế và gần gũi với quần chúng, học ngôn ngữ dân tộc và suy ngẫm về cuộc đời.
- Từ khi ra làm quan triều Nguyễn (1802 – 1820): Giữ nhiều chức vụ cao, được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc, mở rộng tầm nhìn về xã hội và con người.
Tác phẩm
Đoạn trích 'Thúy Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh'
- Vị trí trong tác phẩm: Từ câu 1799 đến câu 1884 trong Truyện Kiều, mô tả cảnh Thúy Kiều bị bắt hầu rượu vợ chồng Hoạn Thư.
- Thể loại: Truyện thơ Nôm.
- Thể thơ: Lục bát.
- Phương thức biểu đạt: Kể chuyện và miêu tả.
6. Bài phân tích 'Thúy Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh' (Ngữ văn 11 - SGK Chân trời sáng tạo) - mẫu 3
Câu 1 (trang 50, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Liệt kê các sự kiện chính trong văn bản.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ đoạn trích “Thúy Kiều hầu rượu Hoạn Thư - Thúc Sinh”, chú ý các hình ảnh và chi tiết nổi bật để xác định các sự kiện trong văn bản.
Lời giải chi tiết:
- Các sự kiện được kể trong văn bản:
+ Thúc Sinh trở về thăm nhà, được Hoạn Thư niềm nở đón tiếp.
+ Hoạn Thư và Thúc Sinh tổ chức tiệc rượu để trò chuyện và tâm sự.
+ Hoạn Thư gọi Thúy Kiều ra để hầu rượu, nhằm làm nhục Kiều và cảnh cáo Thúc Sinh.
+ Thúc Sinh nhận ra Thúy Kiều và cảm thấy buồn bã, tâm trạng trở nên nặng nề và cay đắng.
Câu 2 (trang 50, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích (chú ý lời người kể chuyện và các đoạn độc thoại của Thúy Kiều).
Phương pháp giải:
Xem xét các chi tiết nổi bật, lời người kể chuyện và các đoạn độc thoại của Thúy Kiều để phân tích sự phát triển tâm trạng của nhân vật.
Lời giải chi tiết:
- Khi mới bước ra, Thúy Kiều ngạc nhiên và vỡ lẽ nhiều điều, chỉ biết thốt lên “Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai”.
- Khi nhận ra hành động của Hoạn Thư, Kiều cảm thấy chán ghét và căm hận, “Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không dao”.
- Tâm trạng của Kiều trở nên rối bời, không thể phản kháng vì sợ bị Hoạn Thư làm hại, “Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời/ Sợ uy dám chẳng vâng lời”.
- Kiều như đã chết trong lòng, làm việc một cách vô thức, “tán hoán tê mê”, bản đàn của Kiều cũng “tan nát lòng”, khung cảnh bình thường nhưng ẩn chứa mâu thuẫn sâu sắc “người ngoài cười nụ người trong khóc thầm”.
- Tâm trạng Kiều ngày càng đau đớn, cay đắng, khóc than cho số phận nghiệt ngã của mình.
Câu 3 (trang 50, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
Hoàn thiện bảng sau đây về sự khác biệt giữa hành động và vẻ bề ngoài với tâm trạng, cảm xúc bên trong của hai nhân vật Hoạn Thư và Thúc Sinh trong các tình huống khác nhau:
Tình huống
Nhân vật
Hành động/ vẻ bề ngoài
Nội tâm
Thúy Kiều mời rượu
Hoạn Thư
Thúc Sinh
Thúy Kiều hầu đàn
Hoạn Thư
Thúc Sinh
Phương pháp giải:
Xem xét nội dung đoạn trích, chú ý chi tiết để phân biệt hành động, vẻ bề ngoài và tâm trạng bên trong của Hoạn Thư và Thúc Sinh, hoàn thiện bảng theo yêu cầu.
Lời giải chi tiết:
Tình huống
Nhân vật
Hành động/ vẻ bề ngoài
Nội tâm
Thúy Kiều mời rượu
Hoạn Thư
- Niềm nở, vui vẻ, nói cười.
- Hoạn Thư giả vờ ân cần, hỏi han, an ủi Thúc Sinh khi thấy chàng khóc.
- Thực chất mưu mô, dùng thủ đoạn để hại Kiều, bắt Kiều hầu rượu để làm nhục.
- Ghen tị khi thấy Thúc Sinh khóc, dùng cớ để mắng và sai Thúy Kiều đàn cho Thúc Sinh vui.
Thúc Sinh
- Ngỡ ngàng, bàng hoàng.
- Buồn bã, khóc lóc vì tưởng nhớ mẹ và thương cảm cho Thúy Kiều khi nhận ra nàng qua bản đàn.
Thúy Kiều hầu đàn
Hoạn Thư
- Giả vờ ân cần, hỏi han Thúc Sinh; sai người khác đàn cho vui lòng Thúc Sinh.
- Hả hê khi thấy Thúy Kiều đau khổ, đàn khúc đoạn trường.
Thúc Sinh
- Gượng gạo, buồn bã, cười gượng để qua chuyện.
- Xót xa, đau đớn nhưng vẫn cố gắng “gạt thầm giọt thương” để không làm khó Thúy Kiều thêm.
Câu 4 (trang 51, SGK Ngữ Văn 11, tập hai):
So sánh cảnh ngộ, tâm trạng của Thúy Kiều trong hai câu thơ độc thoại nội tâm “Lỡ làng chút phận thuyền quyên/ Bể sâu sóng cả có tuyền được vay?” với các câu ca dao dưới đây. Tìm điểm tương đồng và giải thích lý do:
- Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?
- Lênh đênh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước biết gửi mình về đâu?
Phương pháp giải:
Dựa trên hiểu biết và tài liệu tham khảo, so sánh cảnh ngộ và tâm trạng của Thúy Kiều với các chủ thể trong ca dao, nêu rõ sự tương đồng và lý giải lý do.
Lời giải chi tiết:
- Thúy Kiều và các chủ thể trữ tình đều là phụ nữ phong kiến, có số phận đau khổ, bị áp bức bởi những hủ tục. Họ cảm thấy lạc lối trong cuộc đời, không biết tương lai sẽ ra sao và không biết làm thế nào để vượt qua khó khăn.
- Cả hai đều là những số phận bất hạnh, bị xã hội đẩy vào cảnh cùng quẫn, không thể phản kháng, chỉ biết chấp nhận sự xô đẩy của cuộc đời. Họ cảm thấy bất an và mơ hồ về tương lai.
- Sự gần gũi này xuất phát từ sự bế tắc và cảm giác lạc lõng của những người phụ nữ phong kiến, họ đang tìm kiếm lối thoát và hy vọng tìm được con đường đúng đắn.