1. Bài soạn 'Một thời đại trong thi ca' (Ngữ văn 11 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu số 4
Trước khi đọc
Câu 1. Có bao giờ bạn băn khoăn khi phải phân biệt cái mới với cái cũ? Hãy chia sẻ trải nghiệm của mình.
- Ý kiến cá nhân: Có/Chưa
- Chia sẻ: Lựa chọn giữa món đồ chơi cũ, mới….
Câu 2. Bạn hãy lựa chọn và so sánh một bài thơ thuộc phong trào Thơ mới với một bài thơ thuộc thời kì trung đại để tìm ra những điểm khác biệt.
- So sánh bài thơ: Nam quốc sơn hà và Vội vàng
- Giống nhau: Đều là thơ
- Khác nhau:
- Nam quốc sơn hà: Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, tuân thủ nghiêm ngặt quy định về niêm, luật, vần
- Vội vàng: Thể thơ tự do, không tuân theo niêm, luật
Đọc văn bản
Câu 1. Cái khó khi phân biệt rạch ròi thơ mới - thơ cũ là gì?
Thời đại nào cũng có những tác phẩm hay, dở
Câu 2. Tiêu chí nào được nêu để phân biệt thơ mới - thơ cũ?
Tinh thần thời xưa - thơ cũ và tinh thần thời nay - thơ mới có thể gom lại trong hai chữ tôi và ta.
Câu 3. Tình trạng “cái tôi” khi mới xuất hiện trong văn học Việt Nam.
Tình trạng “cái tôi” khi mới xuất hiện: chập chững, lạ lâm, bỡ ngỡ
Câu 4. Những biểu hiện khác nhau của “cái tôi” trong Thơ mới.
- Ngày một ngày hai nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta lại còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá.
- Tâm hồn của thi nhân chỉ vừa thu xong khuôn khổ chữ “tôi”.
- Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ “tôi”. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu.
- Làm cho thơ Việt Nam buồn và xôn xao, cùng lòng tự tôn, ta mất luân cả cái bình yên thời trước.
Sau khi đọc
Câu 1. Để làm sáng tỏ luận để “tinh thần Thơ mới”, Hoài Thanh đã nêu lên những luận điểm nào? Chỉ ra mối quan hệ giữa các luận điểm đó.
- Những luận điểm được tác giả nêu:
- Nguyên tắc xác định tinh thần thơ mới.
- Tinh thần thơ mới với “cái tôi”
- Sự vận động của thơ mới và cái bi kịch của nó.
- Các luận điểm bổ sung, hỗ trợ cho nhau để làm nổi bật vấn đề được nghị luận.
Câu 2. Ở phần đầu văn bản, tác giả đưa ra các tiêu chí so sánh thơ cũ - thơ mới nhằm mục đích gi?
Tác giả đưa ra tiêu chí so sánh thơ cũ - thơ mới nhằm mục đích khẳng định cái khó khăn nhưng cũng là khao khát trong việc tìm ra được tinh thần thơ mới.
Câu 3. Hãy nhận xét cách diễn giải về “cái tôi” của Hoài Thanh trong văn bản (đặc biệt chú ý đoạn: “Đời chúng ta... cùng Huy Cận”).
- Các nhà thơ mới trốn tránh hiện thực và thoát li hiện thực.
- Chủ đề được khai triển theo: khái quát về hướng tìm tòi và hệ quả chung.
- Điểm qua những gương mặt điển hình cũng như qua các lãnh địa riêng tiêu biểu của các nhà thơ mới qua một số nhà thơ tiêu biểu ta thấy được sự phân hóa đa dạng, bế tắc của ý thức cá nhân.
Câu 4. Phân tích cách sử dụng bằng chứng trong nghệ thuật lập luận của Hoài Thanh được thể hiện qua văn bản.
Cách sử dụng bằng chứng trong lập luận của Hoài Thanh vô cùng sáng tạo và góp phần quan trọng làm sáng tỏ luận điểm:
- LD1: Đưa ra sự so sánh đối chiếu để chỉ ra mối quan hệ của Thơ mới và thơ truyền thống
+ Tác giả đưa ra 2 câu thơ khá nổi tiếng trong 2 hoàn cảnh khác nhau, một cái thuộc Thơ mới nhưng lại mạng nét cổ kính và cái còn cái thuộc thơ truyền thống nhưng lại mang nét hiện đại → Sự khác nhau của 2 thể loại không phụ thuộc vào giai đoạn mà phụ thuộc vào cái hay của chúng.
- Chỉ ra điểm khác nhau giữa chúng
+ Trước hết là khi mới lộ diện, tác giả đưa ra dẫn chứng để cho thấy sự khó khăn, rẻ rúng của “cái tôi” trong xã hội lúc bấy giờ: “Ở phương Tây, nhất là từ khi có đạo Thiên Chúa, không bao giờ cá nhân lại bị rẻ rúng đến thế.”
+ Sau khi phân biệt “cái tôi”, “cái ta”, tác giả đưa ra tên tuổi của một số nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư…
- Khẳng định lại sự độc đáo, mới lạ và chưa từng có của Thơ mới.
+ Trích dẫn câu nói của chủ báo Nam Phong: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn.” → khẳng định ngôn ngữ là phương tiện cơ bản để thể hiện cái bản sắc dân tộc. → Để thể hiện cái mới mẻ, cái hay của Thơ mới, tác giả đã sử dụng một hệ thống lập luận chặt chẽ, sắc sảo cũng những dẫn chứng cụ thể để làm nổi bật lên sự mới mẻ, tiến bộ của Thơ mới. Qua đó nhằm khẳng định cái hay, cái đẹp của Thơ mới.
Câu 5. Hãy chỉ ra và phân tích giá trị đặc sắc của những biện pháp tu từ được tác giả sử dụng ở cuối văn bản.
Câu trả lời số 1:
Ở cuối văn bản “Một thời đại trong thi ca”, những biện pháp tu từ được tác giả sử dụng là điệp từ và so sánh.
+ Điệp từ: “Chưa bao giờ”.
+ So sánh: Tinh thần giống nòi với các thể thơ xưa.
→ Giá trị đặc sắc của những biện pháp tu từ trên là khẳng định sự đa dạng, mới mẻ của tiếng Việt và kho tàng văn học dân tộc ta đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của nó trong nhận thức của con người về vai trò của cá nhân trong xã hội.
Câu trả lời số 2:
Ở cuối văn bản “Một thời đại trong thi ca”, tác giả Hoài Thanh sử dụng các biện pháp tu từ để làm nổi bật giá trị đặc sắc của Thơ mới như:
+ Điệp từ: “Chưa bao giờ”.
+ So sánh: Tinh thần giống nòi với các thể thơ xưa.
+ Ngoài ra, Hoài Thành còn sử dụng những từ ngữ uyển chuyển, những cụm từ tả cảm xúc chân thật, truyền tải được cảm xúc của mình đến với độc giả, từ đó tạo sự đồng cảm và cảm nhận với những tác phẩm của Thơ mới.
→ Có thể thấy những biện pháp tu từ được tác giả Hoài Thanh sử dụng ở cuối văn bản “Một thời đại trong thi ca” đều giúp tạo nên sự chân thực, cảm động và đặc sắc cho Thơ mới, làm cho người đọc hiểu rõ hơn về thể loại thơ này.
Câu 6. Qua văn bản, bạn hiểu được những gì về phong trào Thơ mới và lối văn phê bình của Hoài Thanh?
- Hiểu biết về phong trào Thơ mới: Theo Hoài Thanh, khái niệm thơ Mới phải được hiểu là mới cả về mặt nội dung và hình thức, mà trước hết là về nội dung, ông cũng cho rằng, thơ ca Việt Nam đi từ thời cổ điển sang hiện đại là đi từ chữ “ta” đến chữ “tôi” (Một thời đại trong thi ca). Ban đầu, thơ Mới được hiểu là thơ tự do nhưng đến chặng phát triển đỉnh cao của nó, khái niệm về thơ Mới được bổ sung và hoàn chỉnh. Thơ Mới là thơ ca phản ánh cái Tôi cá nhân của người nghệ sĩ với tất cả các cung bậc phong phú đa dạng, phức tạp của nó thông qua hình thức nghệ thuật có nhiều đổi mới, cách tân nhằm phát huy cá tính sáng tạo độc đáo của mỗi người nghệ sĩ.
- Lối văn phê bình của Hoài Thanh:
+ Đặt vấn đề rõ, gọn.
+ Dẫn dắt vấn đề khoa học, khéo léo và dễ hiểu, đảm bảo liền mạch trong hệ thống luận điểm.
+ Câu văn nghị luận giàu chất thơ, có sức gợi cảm xúc, gây hứng thú cho người đọc.
+ Nghệ thuật lí luận chặt chẽ, thấu đáo khoa học.
Kết nối đọc - viết
Hoài Thanh cho rằng: Các nhà thơ của phong trào Thơ mới đã "dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt". Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của bạn về ý kiến này.
Bài tham khảo 1:
Nhận xét về phong trào Thơ mới, Hoài Thanh cho rằng: Các nhà thơ phong trào Thơ mới đã “dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”. Trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, có nhiều cách biểu lộ lòng yêu nước…. Các nhà Thơ mới đành gửi lòng yêu nước thương nòi của mình vào tình yêu tiếng Việt. Vì họ nghĩ rằng, tiếng Việt đã hứng vong hồn dân tộc những thế hệ qua. Vận mệnh dân tộc đã gắn bó với vận mệnh tiếng Việt. Họ dùng tiếng nói của dân tộc để sáng tác thơ, duy trì tiếng nói và các thể thơ mang hồn cốt dân tộc. Qua thơ, họ ngợi ca thiên nhiên đất nước, gửi gắm nỗi buồn mất nước. Qua thơ, các nhà Thơ mới đã phát triển, đổi mới ngôn từ, làm cho tiếng Việt trở nên rất phong phú, trong sáng, tinh tể, hiện đại. Trong khi văn học trung đại sáng tác văn học bằng chữ Hán, chữ Nôm (ảnh hưởng chữ Hán) và các thể thơ chủ yếu là Đường luật; thì các nhà Thơ mới làm thơ bằng tiếng Việt, chữ quốc ngữ, tôn vinh các thể thơ truyền thống như: thơ lục bát, thơ bốn chữ, thơ năm chữ…Họ coi tiếng nói của cha ông là là hương hỏa quý giá, mang hồn thiêng dân tộc, nên đã trau chuốt từ ngữ, hình ảnh. Tình yêu tiếng Việt, yêu nghệ thuật thơ ca, yêu bản sắc văn hóa dân tộc của các nhà Thơ mới rất phong phú sâu sắc. Đó một biểu hiện tinh tế của tình yêu quê hương đất nước.
Bài tham khảo 2:
Thơ mới đã góp phần hiện đại hoá tiếng Việt. Câu thơ co, duỗi tự nhiên. Lời thơ giản dị, dễ hiểu, giàu cảm xúc và hình ảnh. Các nhà thơ mới đã gửi gắm tấm lòng trân trọng và yêu quý tiếng Việt. Hoài Thanh đã dùng hình ảnh "tấm lụa" và "tấm hồn bạch" để nói lên tình cảm đẹp đẽ đó: "Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng". Qua thơ, các nhà Thơ mới đã phát triển, đổi mới ngôn từ, làm cho tiếng Việt trở nên rất phong phú, trong sáng, tinh tể, hiện đại. Họ coi tiếng nói của cha ông là là hương hỏa quý giá, mang hồn thiêng dân tộc, nên đã trau chuốt từ ngữ, hình ảnh.
Bài tham khảo 3:
Sự xuất hiện của Thơ mới có thể coi là một bước tiến lớn trong văn học, Hoài Thanh cũng khẳng định: Các nhà thơ của phong trào Thơ mới đã "dần tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt." Nếu như các nhà thơ cũ luôn chỉ nhìn vào những cái bao quát, thì các nhà Thơ mới thể hiện một khía cạnh mới mẻ đó là cái cá tính, sự táo bạo của bản thân thể hiện qua những bài thơ có phần phóng túng, lời thơ bay nhảy. Họ đã chứng tỏ cho chúng ta thấy, tiếng Việt cũng đẹp, cũng hay nếu nó được sử dụng đúng cách, đó là tiếng nói của quê hương, dân tộc bởi vậy nó phải thể hiện tâm tư, nguyện vọng của những người sống trong dân tộc đó. Chính vì sự nhận thức đó, các nhà Thơ mới thực sự đã kéo thơ ca đến gần với những giá trị to lớn hơn, đó là tình yêu quê hương, đất nước ẩn sau sự giàu đẹp của tiếng Việt.
2. Soạn bài 'Một thời đại trong thi ca' (Ngữ văn 11 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 5
Một thời đại trong thi ca
(Trích Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh)
I. Trước khi đọc.
Câu 1. Có bao giờ bạn băn khoăn khi phải phân biệt cái mới và cái cũ? Hãy chia sẻ trải nghiệm của mình.
Trả lời:
– Em đã từng rất nhiều lần băn khoăn khi phải phân biệt giữa cái mới và cái cũ. Đôi khi chỉ đơn giản là việc lựa chọn trang phục để mặc, đã có lần em mất rất nhiều thời gian vì không biết nên mặc cái áo mới mẹ mua hay cái váy cũ bố tặng bởi áo mới thì đẹp nhưng em không thích hoa văn của nó trong khi cái cũ thì hoa văn và kiểu cách em đều thích. Hay đến việc chọn bạn, nhiều lúc có truyện vui, em không biết nên kể cho bạn quen từ lâu nghe hay kể cho bạn mới quen nhưng thân thiết… Đôi khi nó khiến em khá là bối rối và mất thời gian vì những suy nghĩ cân đo đong đếm khiến bản thân không biết lên lựa chọn như nào cho hợp lý.
Câu 2. Bạn hãy lựa chọn và so sánh một bài thơ thuộc phong trào Thơ mới với một bài thơ thuộc thời kì trung đại để tìm ra những điểm khác biệt.
Trả lời:
* Hai bài thơ: Qua Đèo Ngang (Bà Huyện Thanh Quan) và Vội vàng (Xuân Diệu)
* So sánh:
– Giống nhau: cả hai bài thơ đều thể hiện tâm tư, tình cảm, suy ngẫm của nhà thơ về cuộc đời
– Khác nhau:
Tên tác phẩm
Qua Đèo Ngang
Vội vàng
Thể thơ
– Thất ngôn bát cú Đường luật.
– Tự do
Nhịp điệu
4/3
3/5, 2/1/2
Nội dung
– Qua con mắt của một người tha hương, bài thơ là bức tranh thiên nhiên và con người nơi Đèo Ngang vắng vẻ, hiu quạnh cùng đượm buồn với nỗi nhớ nước thương nhà của tác giả.
– Bài thơ là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt, nhưng đằng sau đó là một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống.
Nghệ thuật
– Tả cảnh hữu tình, lấy cảnh vật để tả tâm trạng con người.
– Nghệ thuật đảo ngữ, sử dụng từ láy.
– Câu đặc biệt, câu cảm thán.
– Câu hỏi tu từ.
– Ẩn dụ, động từ mạnh.
II. Trong khi đọc.
Câu 1. Chú ý vấn đề được nêu để bàn luận.
Trả lời:
– Vấn đề được đưa ra để bàn luận ở đây là về tinh thần thơ mới.
Câu 2. Cái khó khi phân biệt rạch ròi thơ mới – thơ cũ là gì?
Trả lời:
– Theo tác giả, cái khó khi phân biệt rạch ròi thơ mới và thơ cũ ở chỗ không phải nhà thơ cũ nào cũng sẽ viết những câu thơ mang hương vị truyền thống, ảm đạm, buồn và không phải nhà thơ mới nào cũng sẽ viết những câu thơ nhí nhảnh, táo bạo mà đôi khi họ cũng sẽ viết những câu thơ mang phong thái cổ xưa. Đó là sự linh hoạt về mặt cảm xúc của mỗi nhà thơ ở mỗi thời đại, họ nhìn đời bằng lăng kính chủ quan của mình để cho ra những lời thơ ý nghĩa, tùy thuộc vào hoàn cảnh chứ không hề cố định.
Câu 3. Tiêu chí nào được nêu để phân biệt thơ mới – thơ cũ?
Trả lời:
– Tiêu chí được nêu ra để phân biệt thơ mới và thơ cũ không được nêu ra rõ ràng bởi mỗi thời đại đều có những nhà thơ theo trường phái nhất định vì vậy họ mới có thể viết ra những câu thơ cũ trong thời đại mới và những câu mới trong thời đại cũ. Cách duy nhất để hiểu được tinh thần thơ cho đúng là phải so sánh các bài thơ với nhau.
Câu 4. Chú ý cách lập luận của tác giả.
Trả lời:
– Cách lập luận của tác giả rất đặc biệt, phân biệt cái cũ với cái mới chỉ gói gọn trong hai từ “ta” và “tôi” và tác giả gợi mở ra phía sau sẽ chỉ ra sự khác nhau giữa chúng.
Câu 5. Tình trạng “cái tôi” khi mới xuất hiện trong văn học Việt Nam.
Trả lời:
– Tình trạng của “cái tôi” khi mới xuất hiện ở Việt Nam là nó mang theo nhiều sự bỡ ngỡ, nghi hoặc bởi ra đời trong hoàn cảnh khi trong nước đã có sẵn một cái quan niệm khác đang tồn tại. Nơi mà quan niệm đoàn thể đang lấn chiếm xã hội, chủ nghĩa cá nhân trở lên nhỏ bé và thậm chí là bị bài trừ. Nhưng trong số những người đó, có những người vẫn mang trong mình chủ nghĩa cá nhân lớn mạnh, đi ngược lại với thời cuộc, nói lên cái cá nhân của mình nhưng thường ẩn sau chữ “ta” thay vì phô ra trước mọi người. Nhưng rồi, “cái tôi” được người đời để ý đến, họ đón nhận nó một cách từ từ và biến nó thành của mình từ đó xuất hiện các nhà thơ của phong trào thơ mới.
Câu 6. Những biểu hiện khác nhau của “cái tôi” trong Thơ mới.
Trả lời:
– Điểm khác nhau của “cái tôi” trong Thơ mới nằm ở chủ đề của tác phẩm. Khác với các nhà thơ đi trước, Thơ mới luôn mang một cái gì đó rất sâu, rất cá nhân thay vì cái gì đó rộng, nhưng nông cạn. Ví dụ như các nhà thơ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử… họ đắm mình trong những cảm xúc thăng hoa của tình yêu, điên cuồng, say mê và ngẩn ngơ nhưng cũng đượm buồn, thấm nhuần sự bất hạnh của thói đời.
Câu 7. Ý nghĩa của “cái tôi” Thơ mới.
Trả lời:
– “Cái tôi” trong Thơ mới là nơi để tác giả thả hồn mình vào với những cung bậc cảm xúc khác nhau. Để khi chúng ta nhìn vào đó, ta thấy được một tâm hồn đang tồn tại, vui tươi hay đượm buồn, hạnh phúc hay bất hạnh từ đó ta thấy đồng cảm, đồng điệu cùng với cảm xúc của nhà thơ.
Câu 8. Chú ý cách sử dụng các biện pháp tu từ trong lời văn nghị luận.
Trả lời:
– Biện pháp tu từ được tác giả sử dụng ở đây là biện pháp điệp cấu trúc (Chưa bao giờ). Qua biện pháp đó, tác giả muốn nhấn mạnh sự độc đáo, tiến bộ và phát triển của Thơ mới, là một sáng kiến vĩ đại của con người chưa từng thấy trước đây.
III. Sau khi đọc.
Câu 1. Để làm sáng tỏ luận để “tinh thần Thơ mới”, Hoài Thanh đã nêu lên những luận điểm nào? Chỉ ra mối quan hệ giữa các luận điểm đó.
Trả lời:
Để làm sáng tỏ luận để “tinh thần Thơ mới”, Hoài Thanh đã nêu lên những luận điểm:
– Đưa ra sự so sánh đối chiếu để chỉ ra mối quan hệ của Thơ mới và thơ truyền thống
– Chỉ ra điểm khác nhau giữa chúng
– Ý nghĩa của “cái tôi” trong Thơ mới
– Khẳng định lại sự độc đáo, mới lạ và chưa từng có của Thơ mới.
→ Giữa các luận điểm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, được trình bày theo trình tự hợp lí. Đầu tiên để hiểu được sự ra đời của nó, tác giả chỉ ra sự khác nhau và khó phân biệt giữa 2 thể loại thơ này. Sau đó, ông làm rõ sự khác nhau đó bằng việc khẳng định “cái tôi” trong Thơ mới là một cái gì đó rất riêng và hay. Cuối cùng, ông tổng kết lại, sự ra đời của Thơ mới thể hiện một sự tiến bộ vượt bậc trong nhận thức của các nhà thơ khi họ dám đứng ra nói lên tâm tư, tình cảm của mình một cách táo bạo.
Câu 2. Ở phần đầu văn bản, tác giả đưa ra các tiêu chí so sánh thơ cũ – thơ mới nhằm mục đích gì?
Trả lời:
– Mở đầu, tác giả đưa ra các tiêu chí so sánh thơ cũ, mới nhằm chỉ ra ranh giới không rõ ràng để phân biệt giữa Thơ mới và thơ cũ bởi trong thơ truyền thống cũng có người dũng cảm, dám nói lên cái tôi cá nhân của mình và trong Thơ mới, cũng có những nhà thơ mang tâm hồn trĩu nặng tâm trạng mà viết lên những dòng tâm trạng như những nhà thơ xưa. Điều đó khẳng định không thể dựa vào giai đoạn để nói về 2 thể loại này mà phải dựa vào cái giá trị, cái hay của nó để so sánh.
Câu 3. Hãy nhận xét cách diễn giải về “cái tôi” của Hoài Thanh trong văn bản (đặc biệt chú ý đoạn: “Đời chúng ta… cùng Huy Cận”).
Trả lời:
– Cách diễn giải về “cái tôi” của Hoài Thanh khá sâu sắc. Ông chỉ ra rằng Thơ mới chủ yếu đào sâu vào nội tâm tình cảm, tâm hồn của con người, khác với thơ truyền thống họ thường thể hiện trên bề rộng, mơ hồ và cố định. Xong ông đưa ra ví dụ về các nhà thơ mới, họ thể hiện cái tôi, cái nội tâm của mình một cách phong phú có đôi chút phóng túng như tình yêu cháy bỏng của bản thân, nỗi buồn về thiên nhiên, cảnh vật… Từ đó giúp ta hiểu Thơ mới luôn phản ánh tốt nhất về thế giới nội tâm ẩn sau trong tâm hồn của con người.
Câu 4. Phân tích cách sử dụng bằng chứng trong nghệ thuật lập luận của Hoài Thanh được thể hiện qua văn bản.
Trả lời:
Cách sử dụng bằng chứng trong lập luận của Hoài Thanh vô cùng sáng tạo và góp phần quan trọng làm sáng tỏ luận điểm:
– Luận điểm 1: Đưa ra sự so sánh đối chiếu để chỉ ra mối quan hệ của Thơ mới và thơ truyền thống
+ Tác giả đưa ra 2 câu thơ khá nổi tiếng trong 2 hoàn cảnh khác nhau, một cái thuộc Thơ mới nhưng lại mạng nét cổ kính và cái còn cái thuộc thơ truyền thống nhưng lại mang nét hiện đại → Sự khác nhau của 2 thể loại không phụ thuộc vào giai đoạn mà phụ thuộc vào cái hay của chúng.
– Chỉ ra điểm khác nhau giữa chúng:
+ Trước hết là khi mới lộ diện, tác giả đưa ra dẫn chứng để cho thấy sự khó khăn, rẻ rúng của “cái tôi” trong xã hội lúc bấy giờ: “Ở phương Tây, nhất là từ khi có đạo Thiên Chúa, không bao giờ cá nhân lại bị rẻ rúng đến thế.”
+ Sau khi phân biệt “cái tôi”, “cái ta”, tác giả đưa ra tên tuổi của một số nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư…
– Khẳng định lại sự độc đáo, mới lạ và chưa từng có của Thơ mới.
+ Trích dẫn câu nói của chủ báo Nam Phong: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn” → khẳng định ngôn ngữ là phương tiện cơ bản để thể hiện cái bản sắc dân tộc → Để thể hiện cái mới mẻ, cái hay của Thơ mới, tác giả đã sử dụng một hệ thống lập luận chặt chẽ, sắc sảo cũng những dẫn chứng cụ thể để làm nổi bật lên sự mới mẻ, tiến bộ của Thơ mới. Qua đó nhằm khẳng định cái hay, cái đẹp của Thơ mới.
Câu 5. Hãy chỉ ra và phân tích giá trị đặc sắc của những biện pháp tu từ được tác giả sử dụng ở cuối văn bản.
Trả lời:
– Biện pháp tu từ được sử dụng: điệp từ “Chưa bao giờ”, so sánh (tinh thần giống nòi – các thể thơ xưa)
– Giá trị của các biện pháp tu từ: khẳng định sự đa dạng, mới mẻ của tiếng Việt. Sự xuất hiện của nó là một bước tiến mới trong nhận thức của con người về tầm quan trọng của cá nhân trong xã hội. Cái mới mẻ của nó chưa từng được bắt gặp ở đâu và đó chính là điều đáng quý của Thơ mới. Mang theo cơn gió của thời đại, thổi hồn vào thơ, phản ánh một thời đại huy hoàng của thơ ca Việt Nam.
Câu 6. Qua văn bản, bạn hiểu được những gì về phong trào Thơ mới và lối văn phê bình của Hoài Thanh.
Trả lời:
– Qua văn bản, em hiểu được sự khác biệt giữa “cái tôi” trong Thơ mới và “cái ta” trong thơ truyền thống. Thơ mới luôn mang đến cho người đọc một cảm giác mới mẻ về thế giới quan của con người khi “cái tôi” được đề cao, con người được tự do thể hiện cảm xúc của mình một cách táo bạo và chân thực nhất. Đặc biệt, qua lối văn phê bình của Hoài Thành đã giải thích cặn kẽ được sự khác biệt cũng như tiến bộ lớn nhất của Thơ mới với thơ truyền thống, giúp người đọc có cái nhìn toàn diện và chính xác hơn về Thơ mới.
IV. Kết nối đọc – viết.
Hoài Thanh cho rằng: Các nhà thơ của phong trào Thơ mới đã “dần tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”. Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của bạn về ý kiến này.
Đoạn văn tham khảo 1:
Sự xuất hiện của phong trào Thơ mới (1932-1945) có thể coi là một bước tiến lớn trong văn học, Hoài Thanh cũng khẳng định: “Các nhà thơ của phong trào Thơ mới đã “dần tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”. Nếu như các nhà thơ cũ luôn chỉ nhìn vào những cái bao quát, thì các nhà Thơ mới thể hiện một khía cạnh mới mẻ đó là cái cá tính, sự táo bạo của bản thân thể hiện qua những bài thơ có phần phóng túng, lời thơ bay nhảy. Họ đã chứng tỏ cho chúng ta thấy, tiếng Việt cũng đẹp, cũng hay nếu nó được sử dụng đúng cách, đó là tiếng nói của quê hương, dân tộc bởi vậy nó phải thể hiện tâm tư, nguyện vọng của những người sống trong dân tộc đó. Chính vì sự nhận thức đó, các nhà Thơ mới thực sự đã kéo thơ ca đến gần với những giá trị to lớn hơn, đó là tình yêu quê hương, đất nước ẩn sau sự giàu đẹp của tiếng Việt.
Đoạn văn tham khảo 2:
Nhận xét về phong trào Thơ mới, Hoài Thanh cho rằng: “Các nhà thơ phong trào Thơ mới đã “dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”. Trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, có nhiều cách biểu lộ lòng yêu nước…. Các nhà Thơ mới đành gửi lòng yêu nước thương nòi của mình vào tình yêu tiếng Việt. Vì họ nghĩ rằng, tiếng Việt đã hứng vong hồn dân tộc những thế hệ qua. Vận mệnh dân tộc đã gắn bó với vận mệnh tiếng Việt. Họ dùng tiếng nói của dân tộc để sáng tác thơ, duy trì tiếng nói và các thể thơ mang hồn cốt dân tộc. Qua thơ, họ ngợi ca thiên nhiên đất nước, gửi gắm nỗi buồn mất nước. Qua thơ, các nhà Thơ mới đã phát triển, đổi mới ngôn từ, làm cho tiếng Việt trở nên rất phong phú, trong sáng, tinh tể, hiện đại. Trong khi văn học trung đại sáng tác văn học bằng chữ Hán, chữ Nôm (ảnh hưởng chữ Hán) và các thể thơ chủ yếu là Đường luật; thì các nhà Thơ mới làm thơ bằng tiếng Việt, chữ quốc ngữ, tôn vinh các thể thơ truyền thống như: thơ lục bát, thơ bốn chữ, thơ năm chữ… Họ coi tiếng nói của cha ông là là hương hỏa quý giá, mang hồn thiêng dân tộc, nên đã trau chuốt từ ngữ, hình ảnh. Tình yêu tiếng Việt, yêu nghệ thuật thơ ca, yêu bản sắc văn hóa dân tộc của các nhà Thơ mới rất phong phú sâu sắc. Đó một biểu hiện tinh tế của tình yêu quê hương đất nước.
3. Bài viết 'Một thời đại trong thi ca' (Ngữ văn 11 - SGK Kết nối tri thức) - phiên bản 6
Phân tích văn bản “Một thời đại trong thi ca” của Hoài Thanh.
- Mở bài:
Hoài Thanh là một nhà phê bình văn học Việt Nam, đã có những đóng góp về mặt phê bình, lý luận để khẳng định Thơ mới trong văn học Việt Nam thế kỉ XX. Tác phẩm “Thi nhân Việt Nam” do ông và em trai Hoài Chân viết đã đưa tác giả lên vị trí một nhà phê bình lớn của nền văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20. Văn bản “Một thời đại trong thi ca” là phần mở đầu trong tập “Thi nhân Việt Nam”.
- Thân bài:
Nhan đề “Một thời đại trong thi ca” vừa trang trọng vừa có tính khẳng định thành tựu của Thơ mới (1932 – 1945). Phong trào Thơ mới 1932-1945 là phong trào thơ ca lãng mạn làm nên “một cuộc cách mạng trong thi ca” (Hoài Thanh) với những cách tân, đổi mới đầy sáng tạo về cả phương diện nội dung và nghệ thuật đem lại sự đổi thay sâu sắc cho nền thơ dân tộc với đội ngũ thi sĩ đông đảo tiêu biểu như: Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Nguyễn Bính… tạo nên sự đa dạng về về phong cách nghệ thuật. Thơ mới như một vườn hoa muôn màu, muôn sắc.
Tinh thần thơ mới là một nội dung nổi bật được Hoài Thanh nói lên thật sâu sắc trong phần cuối bài tiểu luận “Một thời đại trong thi ca”. Ông chỉ rõ, cái khó trong phê bình đó là ranh giới giữa thơ cũ và thơ mới không rạch ròi, khó nhận ra. Thế nhưng, không để người đọc bị lạc lối trong vườn hoa đầy hương sắc ấy, ông đưa ra cách nhận diện là hãy nhìn vào đại thể, qua mỗi thời đại tiếp nối nhau để nhận ra đặc sắc của mỗi thời đại thi ca. Đó thực sự là một quan điểm khách quan, đúng đắn, khoa học, tránh được phiến diện.
Sau khi chỉ ra hình dáng câu thơ, nhạc điệu câu thơ, sự mềm mại, chỗ ngắt hơi, phép dùng chữ, phép đặt câu,… của thơ mới, ông nói rõ tinh thần thơ mới là điều quan trọng hơn ta hãy đi tìm. Ông đưa ra một tiêu chí là “phải sánh bài hay với bài hay”; ông chỉ ra sự kế thừa của sự vật là “hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ”. Vì các thời đại vẫn nối tiếp theo dòng chảy thời gian nên “muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể”.
Tinh thần thơ mới theo Hoài Thanh biểu hiện rõ nhất ở chữ “tôi”. Trong thơ cũ là chữ “ta”, còn trong thơ mới là chữ “tôi”. Tuy có chỗ giống nhau nhưng vẫn có chỗ khác nhau, đó là điều chúng ta hãy cần tìm hiểu.
Cái “tôi” là bản ngã của mỗi con người mà ai cũng có, là sự tự ý thức về mình. Nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy: quan niệm cá nhân. Lúc đầu chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam “thực bỡ ngỡ“, như một kẻ “lạc loài nơi đất khách”. “Chữ tôi vài cái nghĩa tuyệt đối của nó” lúc đầu xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó đến một mình, “bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu”. Ngày một ngày hai, “mất dần vẻ bở ngỡ rồi được vô số người quen”, cảm thấy “nó đáng thương”, “nó tội nghiệp quá!”.
Bài “Tình già” của Phan Khôi, bài “Trên đường đời”, “Vắng khách thơ” (sau đổi thành “Xuân về”) của Lưu Trọng Lư là ba bài thơ mới được giới thiệu trên báo Phụ nữ tân văn vào năm 1932. Sáu năm sau, 1938, tập “Thơ thơ” của Xuân Diệu ra đời. Ta có thế giới thiệu hai đoạn thơ làm ví dụ để thấy được “hình dáng câu thơ”, thấy được cái tôi từ chỗ “bỡ ngỡ” lúc đầu rồi về sau được “vô số người quen” như thế nào?
Năm vừa rồi
Chàng cùng tôi
Nơi vùng giáp Mộ
Trong gian nhà cổ
Tôi quay tơ,
Chàng ngâm thơ.
Vườn sau oanh giục giã,
Nhìn ra hoa đua nở,
Dừng tay tôi kêu chàng:
“Này, này! bạn! xuân sang”
Chàng nhìn xuân mặt hớn hở
Tôi nhìn chàng lòng vồn vã
(Xuân về – Lưu Trọng Lư)
Và đây là bốn câu thơ trích trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu:
Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa;
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân…
Cái “ta” thống trị trong tư tưởng của nền thơ cũ suốt cả nghìn năm. Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân, chỉ có đoàn thể, chỉ đề cập đến những vấn đề thế sự, lớn lao của dân tộc: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân “chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”.
Những bậc kì tài (như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương, Tú Xương,…), “thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong văn thơ”, thẳng hoặc trong thơ văn họ cũng dùng đến chữ tôi để nói chuyện với người khác. Trong thợ cũ thường chỉ có chữ ta, các thi sĩ “ẩn mình sau chữ ta một chữ có thể chí chung nhiều người”.
Bài thơ “Tỏ Lòng” của Phạm Ngũ Lão nêu cao lý tưởng sống của cả một dân tộc. Nhân vật trữ tình trong bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi cũng mang nỗi buồn nhưng đây là nỗi buồn chung của cả một thời đại, không bộc lộ nỗi niềm riêng tư của con người cá nhân. Tuy vẫn có cái tôi xuất hiện nhưng nó chưa mang ý nghĩa tuyệt đối như thơ mới, vẫn còn đứng khuất lấp sau cái ta chung. Nói như Hoài Thanh: “Chưa giám vỗ ngực xưng tên” vì hòa nhập vào cộng đồng nên tinh thần của con người trong thơ cũ bao giờ cũng đầy tự tin, hiên ngang và khí phách thậm chí kiêu ngạo.
Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
(Bà Huyện Thanh Quan)
Gặp ta nay, xuân chớ lạ lùng
Tóc có khác nhưng lòng chẳng khác
Kế từ thuở biết xuân bốn mươi chín năm về trước
Vẫn rượu thơ non nước thú làm vui
Đến xuân này ta tuổi đã năm mươi
Tính trăm tuổi đời người, ta mới nửa
Rồi sau lại bao nhiêu xuân nữa
Mặc trời cho ta chửa hỏi chi
Sẵn rượu đào xuân uống với ta đi…
(Gặp xuân – Tản Đà)
Tinh thần thơ mới đề cao chữ tôi, bản chất. Đó là cái tôi cá nhân mang ý nghĩa tuyệt đối. Các nhà thơ có ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân. Họ mạnh mẽ bộc lộ những nỗi niềm riêng tư của con người cá nhân: Những nỗi buồn riêng những mong muốn, bế tắc hay cô đơn Họ dám đường hoàng bộc lộ ko sợ sệt không che dấu. “Vội vàng” của Xuân Diệu ý thức mới mẻ về quan niệm sống: sống vội, sống gấp gáp, sống cuồng say.
Vì đứng tách riêng với cộng đồng nên cái tôi trong thơ mới bao giờ cũng cảm thấy nhỏ bé, bơ vơ, cô đơn và tội nghiệp. Nhà thơ đặt cái tôi trong quan hệ với cái ta để tìm ra điểm giống và khác nhau giữa chúng. Họ sống và viết trung thực, sâu sắc và hết sức tinh tế.
Quá trình xuất hiện của cái tôi lúc ban đầu còn bỡ ngỡ dần đi đến cái nghĩa tuyệt đối của nó, hết bỡ ngỡ. Lúc ban đầu, người ta cũng thấy thật khó chịu bởi chưa quen. Lâu dần rồi nhiều người quen. Quen rồi thành thân. Đó là cái mới của thơ mới và các nhà thơ mới. Xuất phát từ cái nhìn chân thực và biện chứng, đem lại giá trị cho luận điểm khoa học.
Theo dõi sự vận động của thơ mới với cái “tôi”, Hoài thanh chỉ ra tính chất tội nghiệp của cái tôi. Nó không có cốt cách ngang tàng. Nó không có tự trọng trước cơ hàn. Nó rên rỉ, nói cái khổ, cái thảm, mất cả bình yên. Điều đó khẳng định tấn bi kịch đang diễn ra trong tâm lí thế hệ trẻ đương thời và của cả thời đại.
Để thoát khởi nó, các nhà thơ đã tự mình tìm kiếm hướng giải thoát. Thế Lữ thoát lên tiên; Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên điên cuồng; Xuân Diệu say đắm trong tình yêu; Huy Cận ngẩn ngơ buồn trong thế giới vạn cổ sầu. Họ tuyệt vọng. Bởi thế, khi tiếp cận Thơ mới, người đọc “càng đi sâu càng thấy lạnh”. Hoài thanh thấy rõ những nổ lực đào sâu và cũng là trốn chạy vào ý thức cá nhân của các nhà thơ mới.
Để người đọc hiểu rõ, Hoài Thanh triển khai thành hai phần. Thứ nhất, ông khái quát hướng tìm tòi, hệ quả chung. Thứ hai, ông điểm qua những gương mặt điển hình cùng lãnh địa cá nhân điển hình để thấy sự phân hóa đa dạng và sự quẩn quanh bế tắc của ý thức cá nhân. Tác giả sử dụng ngôn ngữ phi khái niệm nhưng vẫn diễn đạt được bản chất của đối tượng. Tạo ra hình ảnh một người yêu thơ theo dấu chân các nhà thơ tiêu biểu bước vào cõi riêng của mỗi vị. Đoạn văn giàu hình ảnh, nhịp điệu.
Dễ nhận thấy, Cái “tôi” của thơ mời là cái tôi đầy bi kịch. Cũng muốn nói đến cái khổ sở, thảm hại trước “nỗi đời cay cực” của các nhà thi nhân. Cũng nói đến chuyện lên tiên được sống trong giấc mơ tiên (“Tiếng sáo Thiên Thai” – Thế Lữ). Cũng nói đến say, đến cô đơn (“Say đi em”, “Phương xa”,… – Vũ Hoàng Chương). Hoặc phiêu lưu trong trường tình:
Thuyền yêu không ghé bến sầu
Nhớ đêm thiếu phụ bên lầu không trăng
(Một mùa đông – Lưu Trọng Lư)
Hoặc điên cuồng, hoặc đắm say, hoặc bơ vơ, hoặc ngơ ngẩn buồn:
Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh,
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!
Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo.
(Chế Lan Viên)
Chiều đông tàn, lạnh xuống tự trời cao,
Không lửa ấm, chắc hồn buồn lắm đó.
(Huy Cận)
Trăng sáng, trăng xa, trông rộng quá!
Hai người, nhưng chẳng bớt bơ vơ
(Xuân Diệu)
Cái tôi làm cho nền hồn thơ giàu bản sắc của thơ mới, đồng thời cũng chứa đầy bi kịch của thơ mới. Cách phân tích của Hoài Thanh vừa khái quát vừa cụ thể, rất tinh tế và tài hoa. Cách dùng từ chính xác, cách dùng điệp từ, dùng tương phản để tạo giọng điệu và cảm xúc, đọc lên nghe rất lí thú: “Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Những động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.
Phải nắm được cái hồn của thơ mới, và phải rất tài hoa mới viết đúng và viết hay như vậy. Hoài Thanh như dẫn hồn độc giả nhập vào hồn của thơ mới: “Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta. Chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước”.
Một điểm nổi bật nữa của thơ mới là đã góp phần hiện đại hoá tiếng Việt. Câu thơ co, duỗi tự nhiên. Lời thơ giản dị, dễ hiểu, giàu cảm xúc và hình ảnh. Các nhà thơ mới đã gửi gắm tấm lòng trân trọng và yêu quý tiếng Việt. Hoài Thanh đã dùng hình ảnh “tấm lụa” và “tấm hồn bạch” để nói lên tình cảm đẹp đẽ đó: “Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng”.
Đoạn cuối của bài tiểu luận “Một thời đại thi ca”, Hoài Thanh đã trân trọng, quý trọng bày tỏ niềm hi vọng đối với thơ mới và các nhà thơ mới “trong thất vọng sẽ nảy mầm hi vọng”. Thơ mới cũng như các nhà thơ mới kế thừa và phát huy truyền thống tinh thần nòi giống, sẽ kế thừa những tinh hoa của thơ cũ, nền thơ cổ điển Việt Nam, “tìm về dĩ vãng để vin về những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai”. Điệp ngữ “Chưa bao giờ như bây giờ…”! cất lên ba lần làm cho giọng văn vang lên tha thiết, ân tình.
Cách lập luận từ khái quát đến cụ thể; xa đến gần; ngoài vào trong, diện mạo đến diễn biến lịch sử. Lói hành văn chứng tỏ Hoài Thành rất am hiểu đối tượng phân tích của phương pháp tư duy khoa học tạo tính thuyết phục cao. Phương pháp lập luận gắn với nhận định có tính khái quát, thú pháp so sánh được khai thác triệt để, không nhận định một chiều, dẫn dắt theo mạch cảm xúc. Giọng văn linh hoạt, giàu hình ảnh, nhịp điệu. Tất cả khẳng định tài năng, góc nhìn sắc sảo và tinh tế, am tường về thơ, văn phong tài hoa của nhà phê bình Hoài Thanh
- Kết bài:
Những năm 1943, 1944, thơ mới như bị “chững lại“. Nhưng rồi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, kháng chiến chống Pháp diễn ra ác liệt đã thổi lửa cho thơ mới và thế hệ những nhà thơ mới. Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ,… đã trở thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, đã góp phần xứng đáng xây dựng và phát triển nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Bảy thập niên sau, đọc “Một thời đại trong thi ca” trong “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, ta hiểu thêm thơ mới, ta yêu thêm lớp thi sĩ tiền chiến của “một thời đại thi ca”.
4. Đề soạn 'Một thời đại trong thi ca' (Ngữ văn 11 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 1
Nội dung chính
Tác phẩm đã nêu rõ nội dung cốt yếu của tinh thần Thơ mới: Lần đầu tiên chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện trong thi ca đồng thời cũng nói lên cái bi kịch ngấm ngầm trong hồn người thanh niên lúc bấy giờ.
Trước khi đọc 1
Câu 1 (trang 85, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Có bao giờ bạn băn khoăn khi phải phân biệt cái mới và cái cũ? Hãy chia sẻ trải nghiệm của mình.
Phương pháp giải:
Dựa vào trải nghiệm của bản thân để trả lời câu hỏi này.
Lời giải chi tiết:
Em đã từng rất nhiều lần băn khoăn khi phải phân biệt giữa cái mới và cái cũ. Đôi khi chỉ đơn giản là việc lựa chọn trang phục để mặc, đã có lần em mất rất nhiều thời gian vì không biết nên mặc cái áo mới mẹ mua hay cái váy cũ bố tặng bởi áo mới thì đẹp nhưng em không thích hoa văn của nó trong khi cái cũ thì hoa văn và kiểu cách em đều thích. Hay đến việc chọn bạn, nhiều lúc có truyện vui, em không biết nên kể cho bạn quen từ lâu nghe hay kể cho bạn mới quen nhưng thân thiết… Đôi khi nó khiến em khá là bối rối và mất thời gian vì những suy nghĩ cân đo đong đếm khiến bản thân không biết lên lựa chọn như nào cho hợp lý.
Trước khi đọc 2
Câu 2 (trang 85, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Bạn hãy lựa chọn và so sánh một bài thơ thuộc phong trào Thơ mới với một bài thơ thuộc thời kì trung đại để tìm ra những điểm khác biệt.
Phương pháp giải:
Dựa vào sự hiểu biết của bản thân và kết hợp với tìm kiếm thông tin trên mạng để trả lời câu hỏi này.
Lời giải chi tiết:
* Hai bài thơ: Qua Đèo Ngang (Bà Huyện Thanh Quan) và Vội vàng (Xuân Diệu)
* So sánh
- Giống nhau: cả hai bài thơ đều thể hiện tâm tư, tình cảm, suy ngẫm của nhà thơ về cuộc đời
- Khác nhau:
Tên tác phẩm
Tiêu chí
Qua Đèo Ngang
Vội vàng
Thể thơ
Thất ngôn bát cú Đường luật
Tự do
Nhịp điệu
4/3
3/5, 2/1/2
Nội dung
Qua con mắt của một người tha hương, bài thơ là bức tranh thiên nhiên và con người nơi Đèo Ngang vắng vẻ, hiu quạnh cùng đượm buồn với nỗi nhớ nước thương nhà của tác giả.
Bài thơ là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt, nhưng đằng sau đó là một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống.
Nghệ thuật
- Tả cảnh hữu tình, lấy cảnh vật để tả tâm trạng con người
- Nghệ thuật đảo ngữ, sử dụng từ láy
- Câu đặc biệt, câu cảm thán
- Câu hỏi tu từ
- Ẩn dụ, động từ mạnh
Trong khi đọc 1
Câu 1 (trang 85, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Chú ý vấn đề được nêu để bàn luận.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ nội dung câu mở đầu tác phẩm, chú ý vào từ khóa.
Lời giải chi tiết:
Vấn đề được đưa ra để bàn luận ở đây là về tinh thần thơ mới.
Trong khi đọc 2
Câu 2 (trang 85, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Cái khó khi phân biệt rạch ròi thơ mới – thơ cũ là gì?
Phương pháp giải:
Chú ý vào 2 câu thơ được tác giả trích dẫn trong bài.
Lời giải chi tiết:
Theo tác giả, cái khó khi phân biệt rạch ròi thơ mới và thơ cũ ở chỗ không phải nhà thơ cũ nào cũng sẽ viết những câu thơ mang hương vị truyền thống, ảm đạm, buồn và không phải nhà thơ mới nào cũng sẽ viết những câu thơ nhí nhảnh, táo bạo mà đôi khi họ cũng sẽ viết những câu thơ mang phong thái cổ xưa. Đó là sự linh hoạt về mặt cảm xúc của mỗi nhà thơ ở mỗi thời đại, họ nhìn đời bằng lăng kính chủ quan của mình để cho ra những lời thơ ý nghĩa, tùy thuộc vào hoàn cảnh chứ không hề cố định.
Trong khi đọc 3
Câu 3 (trang 85, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Tiêu chí nào được nêu để phân biệt thơ mới – thơ cũ?
Phương pháp giải:
Đọc kỹ đoạn thơ từ “Giá trong thơ cũ chỉ có… với bài hay vậy.”
Lời giải chi tiết:
Tiêu chí được nêu ra để phân biệt thơ mới và thơ cũ không được nêu ra rõ ràng bởi mỗi thời đại đều có những nhà thơ theo trường phái nhất định vì vậy họ mới có thể viết ra những câu thơ cũ trong thời đại mới và những câu mới trong thời đại cũ. Cách duy nhất để hiểu được tinh thần thơ cho đúng là phải so sánh các bài thơ với nhau.
Trong khi đọc 4
Câu 4 (trang 86, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Chú ý cách lập luận của tác giả.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ đoạn từ “Cứ đại thể thì… những chỗ khác nhau.”
Lời giải chi tiết:
Cách lập luận của tác giả rất đặc biệt, phân biệt cái cũ với cái mới chỉ gói gọn trong hai từ “ta” và “tôi” và tác giả gợi mở ra phía sau sẽ chỉ ra sự khác nhau giữa chúng.
Trong khi đọc 5
Câu 5 (trang 86, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Tình trạng “cái tôi” khi mới xuất hiện trong văn học Việt Nam.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ đoạn từ “Ngày thứ nhất – ai biết… cái thảm hại của hết thảy chúng ta.”
Lời giải chi tiết:
Tình trạng của “cái tôi” khi mới xuất hiện ở Việt Nam là nó mang theo nhiều sự bỡ ngỡ, nghi hoặc bởi ra đời trong hoàn cảnh khi trong nước đã có sẵn một cái quan niệm khác đang tồn tại. Nơi mà quan niệm đoàn thể đang lấn chiếm xã hội, chủ nghĩa cá nhân trở lên nhỏ bé và thậm chí là bị bài trừ. Nhưng trong số những người đó, có những người vẫn mang trong mình chủ nghĩa cá nhân lớn mạnh, đi ngược lại với thời cuộc, nói lên cái cá nhân của mình nhưng thường ẩn sau chữ “ta” thay vì phô ra trước mọi người. Nhưng rồi, “cái tôi” được người đời để ý đến, họ đón nhận nó một cách từ từ và biến nó thành của mình từ đó xuất hiện các nhà thơ của phong trào thơ mới.
Trong khi đọc 6
Câu 6 (trang 87, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Những biểu hiện khác nhau của “cái tôi” trong Thơ mới.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ đoạn từ “Những biểu hiện khác nhau của “cái tôi” trong Thơ mới.
Lời giải chi tiết:
Điểm khác nhau của “cái tôi” trong Thơ mới nằm ở chủ đề của tác phẩm. Khác với các nhà thơ đi trước, Thơ mới luôn mang một cái gì đó rất sâu, rất cá nhân thay vì cái gì đó rộng, nhưng nông cạn. Ví dụ như các nhà thơ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử… họ đắm mình trong những cảm xúc thăng hoa của tình yêu, điên cuồng, say mê và ngẩn ngơ nhưng cũng đượm buồn, thấm nhuần sự bất hạnh của thói đời.
Trong khi đọc 7
Câu 7 (trang 87, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Ý nghĩa của “cái tôi” Thơ mới.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ đoạn từ “Thời trước,… gửi nỗi băn khoăn riêng.”
Lời giải chi tiết:
“Cái tôi” trong Thơ mới là nơi để tác giả thả hồn mình vào với những cung bậc cảm xúc khác nhau. Để khi chúng ta nhìn vào đó, ta thấy được một tâm hồn đang tồn tại, vui tươi hay đượm buồn, hạnh phúc hay bất hạnh từ đó ta thấy đồng cảm, đồng điệu cùng với cảm xúc của nhà thơ.
Trong khi đọc 8
Câu 8 (trang 88, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Chú ý cách sử dụng các biện pháp tu từ trong lời văn nghị luận.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ đoạn còn lại
Lời giải chi tiết:
Biện pháp tu từ được tác giả sử dụng ở đây là biện pháp điệp cấu trúc (Chưa bao giờ). Qua biện pháp đó, tác giả muốn nhấn mạnh sự độc đáo, tiến bộ và phát triển của Thơ mới, là một sáng kiến vĩ đại của con người chưa từng thấy trước đây.
Sau khi đọc 1
Câu 1 (trang 89, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Để làm sáng tỏ luận để “tinh thần Thơ mới", Hoài Thanh đã nêu lên những luận điểm nào? Chỉ ra mối quan hệ giữa các luận điểm đó.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ tác phẩm để trả lời câu hỏi này
Lời giải chi tiết:
Để làm sáng tỏ luận để “tinh thần Thơ mới", Hoài Thanh đã nêu lên những luận điểm:
- Đưa ra sự so sánh đối chiếu để chỉ ra mối quan hệ của Thơ mới và thơ truyền thống
- Chỉ ra điểm khác nhau giữa chúng
- Ý nghĩa của “cái tôi” trong Thơ mới
- Khẳng định lại sự độc đáo, mới lạ và chưa từng có của Thơ mới.
→ Giữa các luận điểm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, được trình bày theo trình tự hợp lí. Đầu tiên để hiểu được sự ra đời của nó, tác giả chỉ ra sự khác nhau và khó phân biệt giữa 2 thể loại thơ này. Sau đó, ông làm rõ sự khác nhau đó bằng việc khẳng định “cái tôi” trong Thơ mới là một cái gì đó rất riêng và hay. Cuối cùng, ông tổng kết lại, sự ra đời của Thơ mới thể hiện một sự tiến bộ vượt bậc trong nhận thức của các nhà thơ khi họ dám đứng ra nói lên tâm tư, tình cảm của mình một cách táo bạo.
Sau khi đọc 2
Câu 2 (trang 89, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Ở phần đầu văn bản, tác giả đưa ra các tiêu chí so sánh thơ cũ – thơ mới nhằm mục đích gì?
Phương pháp giải:
Đọc kỹ đoạn đầu của tác phẩm
Lời giải chi tiết:
Mở đầu, tác giả đưa ra các tiêu chí so sánh thơ cũ, mới nhằm chỉ ra ranh giới không rõ ràng để phân biệt giữa Thơ mới và thơ cũ bởi trong thơ truyền thống cũng có người dũng cảm, dám nói lên cái tôi cá nhân của mình và trong Thơ mới, cũng có những nhà thơ mang tâm hồn trĩu nặng tâm trạng mà viết lên những dòng tâm trạng như những nhà thơ xưa. Điều đó khẳng định không thể dựa vào giai đoạn để nói về 2 thể loại này mà phải dựa vào cái giá trị, cái hay của nó để so sánh.
Sau khi đọc 3
Câu 3 (trang 89, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Hãy nhận xét cách diễn giải về "cái tôi" của Hoài Thanh trong văn bản (đặc biệt chú ý đoạn: "Đời chúng ta... cùng Huy Cận").
Phương pháp giải:
Đọc kỹ đoạn từ “Đời chúng ta… cùng Huy Cận.”
Lời giải chi tiết:
Cách diễn giải về “cái tôi” của Hoài Thanh khá sâu sắc. Ông chỉ ra rằng Thơ mới chủ yếu đào sâu vào nội tâm tình cảm, tâm hồn của con người, khác với thơ truyền thống họ thường thể hiện trên bề rộng, mơ hồ và cố định. Xong ông đưa ra ví dụ về các nhà thơ mới, họ thể hiện cái tôi, cái nội tâm của mình một cách phong phú có đôi chút phóng túng như tình yêu cháy bỏng của bản thân, nỗi buồn về thiên nhiên, cảnh vật… Từ đó giúp ta hiểu Thơ mới luôn phản ánh tốt nhất về thế giới nội tâm ẩn sau trong tâm hồn của con người.
Sau khi đọc 4
Câu 4 (trang 89, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Phân tích cách sử dụng bằng chứng trong nghệ thuật lập luận của Hoài Thanh được thể hiện qua văn bản.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ toàn bộ tác phẩm; chú ý vào những bằng chứng được tác giả sử dụng
Lời giải chi tiết:
Cách sử dụng bằng chứng trong lập luận của Hoài Thanh vô cùng sáng tạo và góp phần quan trọng làm sáng tỏ luận điểm:
- LD1: Đưa ra sự so sánh đối chiếu để chỉ ra mối quan hệ của Thơ mới và thơ truyền thống
+ Tác giả đưa ra 2 câu thơ khá nổi tiếng trong 2 hoàn cảnh khác nhau, một cái thuộc Thơ mới nhưng lại mạng nét cổ kính và cái còn cái thuộc thơ truyền thống nhưng lại mang nét hiện đại → Sự khác nhau của 2 thể loại không phụ thuộc vào giai đoạn mà phụ thuộc vào cái hay của chúng.
- Chỉ ra điểm khác nhau giữa chúng
+ Trước hết là khi mới lộ diện, tác giả đưa ra dẫn chứng để cho thấy sự khó khăn, rẻ rúng của “cái tôi” trong xã hội lúc bấy giờ: “Ở phương Tây, nhất là từ khi có đạo Thiên Chúa, không bao giờ cá nhân lại bị rẻ rúng đến thế.”
+ Sau khi phân biệt “cái tôi”, “cái ta”, tác giả đưa ra tên tuổi của một số nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư…
- Khẳng định lại sự độc đáo, mới lạ và chưa từng có của Thơ mới.
+ Trích dẫn câu nói của chủ báo Nam Phong: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn.” → khẳng định ngôn ngữ là phương tiện cơ bản để thể hiện cái bản sắc dân tộc. → Để thể hiện cái mới mẻ, cái hay của Thơ mới, tác giả đã sử dụng một hệ thống lập luận chặt chẽ, sắc sảo cũng những dẫn chứng cụ thể để làm nổi bật lên sự mới mẻ, tiến bộ của Thơ mới. Qua đó nhằm khẳng định cái hay, cái đẹp của Thơ mới.
Sau khi đọc 5
Câu 5 (trang 89, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Hãy chỉ ra và phân tích giá trị đặc sắc của những biện pháp tu từ được tác giả sử dụng ở cuối văn bản.
Phương pháp giải:
Đọc kỹ đoạn cuối của tác phẩm.
Lời giải chi tiết:
- Biện pháp tu từ được sử dụng: điệp từ “Chưa bao giờ”, so sánh (tinh thần giống nòi – các thể thơ xưa)
- Giá trị của các biện pháp tu từ: khẳng định sự đa dạng, mới mẻ của tiếng Việt. Sự xuất hiện của nó là một bước tiến mới trong nhận thức của con người về tầm quan trọng của cá nhân trong xã hội. Cái mới mẻ của nó chưa từng được bắt gặp ở đâu và đó chính là điều đáng quý của Thơ mới. Mang theo cơn gió của thời đại, thổi hồn vào thơ, phản ánh một thời đại huy hoàng của thơ ca Việt Nam.
Sau khi đọc 6
Câu 6 (trang 89, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Qua văn bản, bạn hiểu được những gì về phong trào Thơ mới và lối văn phê bình của Hoài Thanh.
Phương pháp giải:
Đọc lại tác phẩm và rút ra nhận xét
Lời giải chi tiết:
Qua văn bản, em hiểu được sự khác biệt giữa “cái tôi” trong Thơ mới và “cái ta” trong thơ truyền thống. Thơ mới luôn mang đến cho người đọc một cảm giác mới mẻ về thế giới quan của con người khi “cái tôi” được đề cao, con người được tự do thể hiện cảm xúc của mình một cách táo bạo và chân thực nhất. Đặc biệt, qua lối văn phê bình của Hoài Thành đã giải thích cặn kẽ được sự khác biệt cũng như tiến bộ lớn nhất của Thơ mới với thơ truyền thống, giúp người đọc có cái nhìn toàn diện và chính xác hơn về Thơ mới.
Viết
Câu hỏi (trang 89, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Hoài Thanh cho rằng: Các nhà thơ của phong trào Thơ mới đã "dần tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt". Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của bạn về ý kiến này.
Phương pháp giải:
Dựa vào cảm nhận của bản thân để trả lời câu hỏi này
Lời giải chi tiết:
Sự xuất hiện của Thơ mới có thể coi là một bước tiến lớn trong văn học, Hoài Thanh cũng khẳng định: Các nhà thơ của phong trào Thơ mới đã "dần tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt." Nếu như các nhà thơ cũ luôn chỉ nhìn vào những cái bao quát, thì các nhà Thơ mới thể hiện một khía cạnh mới mẻ đó là cái cá tính, sự táo bạo của bản thân thể hiện qua những bài thơ có phần phóng túng, lời thơ bay nhảy. Họ đã chứng tỏ cho chúng ta thấy, tiếng Việt cũng đẹp, cũng hay nếu nó được sử dụng đúng cách, đó là tiếng nói của quê hương, dân tộc bởi vậy nó phải thể hiện tâm tư, nguyện vọng của những người sống trong dân tộc đó. Chính vì sự nhận thức đó, các nhà Thơ mới thực sự đã kéo thơ ca đến gần với những giá trị to lớn hơn, đó là tình yêu quê hương, đất nước ẩn sau sự giàu đẹp của tiếng Việt.
5. Bài soạn 'Một thời đại trong thi ca' (Ngữ văn 11 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu số 2
Câu hỏi 1 (trang 85 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Có bao giờ bạn băn khoăn khi phải phân biệt cái mới với cái cũ. Hãy chia sẻ trải nghiệm của mình.
Trả lời:
Đã có lần tôi băn khoăn khi phải phân biệt cái mới và cãi cũ. Cái mới sẽ được sử dụng nhiều hơn trong cuộc sống hằng ngày, cái cũ sẽ được lưu giữ lại như những kỉ niệm đã qua. Thông thường cái mới sẽ được xây dựng và phát triển trên nền tảng của cái cũ.
Câu hỏi 2 (trang 85 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Bạn hãy lựa chọn và so sánh một bài thơ thuộc phong trào Thơ mới với một bài thơ thuộc thời kì trung đại để tìm ra những điểm khác biệt.
Trả lời:
Chọn bài thơ trung đại Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương và bài Thơ mới Quê hương – Tế Hanh.
So sánh:
- Về nội dung:
+ Thơ trung đại chủ yếu bày tỏ nỗi lòng với thân phận con người (Thi dĩ ngôn chí), nặng tính chất giáo huấn.
+ Thơ mới có cái nhìn mở rộng hơn, phóng khoáng hơn, không bị ràng buộc bởi các lễ nghi, lễ giáo như ở văn học trung đại. Thơ mới chủ yếu thể hiện “cái tôi” cá nhân trước con người và thế giới: một cái tôi thiết tha, say đắm trước thiên nhiên và con người nhưng có lúc không tránh được nỗi buồn cô đơn, bơ vơ giữa cuộc đời và không gian vô tận. Ở đây, tác giả được biểu lộ cái tôi cá nhân vào bài viết.
- Về hình thức:
+ Thơ trung đại mang tính quy phạm, thể thơ gò bó vào niêm luật, hình ảnh mang nặng tính ước lệ, công thức. Hệ thống ước lệ phức tạp, nghiêm ngặt.
VD: Bài thơ “Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương” với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Bài thơ chỉ vẻn vẹn trong 4 câu thơ (lời ít, ý nghĩa) nhưng đã khắc họa rõ nét số phận cũng như những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
+ Thơ mới không sử dụng nhiều hệ thống ước lệ phức tạp, thoát khỏi cách diễn đạt theo quy tắc cứng nhắc, thể thơ tự do (số tiếng, số dòng, vần, nhịp…) ngôn ngữ thơ cần với lời nói cá nhân, hình ảnh sinh động gần với đời sống.
* Đọc văn bản
- Chú ý vấn đề được nêu để bàn luận.
Vấn đề được nêu để bàn luận: Hãy đi tìm cái điều ta cho là quan trọng hơn: tinh thần thơ mới.
- Cái khó khi phân biệt rạch ròi thơ mới – thơ cũ là gì?
Thơ mới và thơ cũ không có sự phân biệt rạch ròi dễ nhận ra. Trong Thơ mới, Thơ cũ đều có những bài hay, bài dở, bài hay ít, bài dở nhiều. Đó là khó khăn phức tạp nhất.
- Tiêu chí nào được nêu để phân biệt thơ mới – thơ cũ?
Tiêu chí để phân biệt thơ mới – thơ cũ: phải nhìn vào đại thể.
- Chú ý cách lập luận của tác giả.
- Luận điểm: Cái tôi và cái ta trong thơ mới và thơ cũ.
- Lí lẽ: Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi. Nó giống nhau thì vẫn có chỗ giống nhau như chữ tôi vẫn giống chữ ta. Nhưng chúng ta hãy tìm những chỗ khác nhau.
=> Đặt vấn đề rõ, gọn. Câu văn nghị luận giàu chất thơ, có sức gợi cảm xúc, gây hứng thú cho người đọc.
- Tình trạng “cái tôi” khi mới xuất hiện trong văn học Việt Nam.
- Cái “tôi” xuất hiện bỡ ngỡ vì mang quan niệm cá nhân.
- Khi cái “tôi” xuất hiện giữa thi đàn Việt Nam, bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. Nó cứ luôn luôn đi theo những chữ anh, chữ bác, chữ ông đã thấy chướng. Huống bây giờ nó đến một mình!
- Những biểu hiện khác nhau của “cái tôi” trong Thơ mới.
- Ngày một ngày hai nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta lại còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá.
- Tâm hồn của thi nhân chỉ vừa thu xong khuôn khổ chữ “tôi”.
- Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ “tôi”. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu.
- Làm cho thơ Việt Nam buồn và xôn xao, cùng lòng tự tôn, ta mất luân cả cái bình yên thời trước.
- Ý nghĩa của “cái tôi” Thơ mới.
Các nhà thơ lãng mạn cũng như “người thanh niên” bấy giờ đã giải tỏa bi kịch đời mình bằng cách: gửi cả vào tiếng Việt. “Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỷ đã chia sẻ buồn vui với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”. Vì họ nghĩ “Tiếng Việt là tấm lụa xứng đã hứng vong hồn những thế hệ qua” và họ tin vào lời nói triết lí “Truyện Kiều còn tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”.
- Chú ý cách sử dụng biện pháp tu từ trong lời văn nghị luận.
Sử dụng biện pháp điệp ngữ, so sánh đối chiếu ở cấp độ phù hợp, mang lại hiệu quả.
=> Một cách viết văn nghị luận văn chương dễ hiểu mà rất tài hoa, tinh tế, hấp dẫn.
* Sau khi đọc
Nội dung chính Một thời đại trong thi ca
Văn bản đã nêu một vấn đề quan trọng là đi tìm tinh thần Thơ mới. Tác giả đã đưa ra nguyên tắc nhận diện tinh thần Thơ mới: Không căn cứ vào cục bộ và bài dở, phải căn cứ vào đại thể và bài hay. Xác định tinh thần Thơ mới là chữ “tôi” trong Thơ mới đối lập với chữ “ta” trong thơ cũ và cho thấy bi kịch của cái Tôi trong Thơ mới. Cuối cùng chỉ ra sự vận động của cái “tôi” và việc giải quyết bi kịch thời đại của nó bằng cách gửi cả vào tình yêu tiếng Việt.
Câu 1 (trang 89 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Để làm sáng tỏ luận đề “tinh thần Thơ mới”, Hoài Thanh đã nêu lên những luận điểm nào? Chỉ ra mối quan hệ giữa các luận điểm đó.
Trả lời:
Các luận điểm làm sáng tỏ luận đề “tinh thần Thơ mới”:
- Nguyên tắc để xác định tinh thần thơ mới.
- Tinh thần thơ mới: chữ tôi
- Sự vận động của thơ mới xung quanh cái tôi và bi kịch của nó.
Mối quan hệ giữa các luận điểm: Các luận điểm sắp xếp theo trình tự logic: nêu vấn đề, giải quyết vấn đề và kết luận.
Câu 2 (trang 89 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Ở phần đầu văn bản, tác giả đưa ra các tiêu chí so sánh thơ cũ – thơ mới nhằm mục đích gì?
Trả lời:
Ở phần đầu văn bản, tác giả đưa ra các tiêu chí so sánh thơ cũ – thơ mới nhằm mục đích nêu lên được cái khó khăn mà cũng là cái khao khát của kẻ yêu văn quyết tìm cho được tinh thần thơ mới.
Câu 3 (trang 89 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Hãy nhận xét cách diễn giải về “cái tôi” của Hoài Thanh trong văn bản (đặc biệt chú ý đoạn: “Đời chúng ta … cùng Huy Cận”).
Trả lời:
Cách diễn giải về “cái tôi” của Hoài Thanh trong văn bản (đặc biệt chú ý đoạn: “Đời chúng ta … cùng Huy Cận”):
- Các nhà thơ mới trốn tránh hiện thực và thoát li hiện thực.
- Chủ đề được khai triển theo 2 phần chính: khái quát về hướng tìm tòi và hệ quả chung.
- Điểm qua những gương mặt điển hình cũng như qua các lãnh địa riêng tiêu biểu của các nhà thơ mới qua một số nhà thơ tiêu biểu ta thấy được sự phân hóa đa dạng, bế tắc của ý thức cá nhân.
Câu 4 (trang 89 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Phân tích cách sử dụng bằng chứng trong nghệ thuật lập luận được Hoài Thanh thể hiện qua văn bản.
Trả lời:
Bằng chứng trong văn bản:
- Nhưng chính Xuân Diệu còn viết…
- Và một nhà thơ cũ tả cảnh thu lại có những câu nhí nhảnh và lả lơi…
- Đừng có tìm ở họ cái khí phách ngang tàng của một thi hào đời xưa như Lý Thái Bạch…
- Không biết trong khi rên rỉ như thế Xuân Diệu…
- Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ…
- …
=> Hoài Thanh lấy dẫn chứng thực tế từ những nhà thơ mới đa dạng, cụ thể, giúp cho văn bản có sức thuyết phục cao hơn.
+ Khi tìm cái mới của thơ mới tác giả nhìn vấn đề trong mối quan hệ với thời đại, với tâm lí người thi nhân đương thời thấu đáo, sâu sắc
+ Có cái nhìn thấu đáo về “cái tôi”, “cái ta” có sự so sánh giữa các câu thơ và nhà thơ cũ, mới trong diễn biến lịch sử.
Câu 5 (trang 89 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Hãy chỉ ra và phân tích giá trị đặc sắc của những biện pháp tu từ được tác giả sử dụng ở cuối văn bản.
Trả lời:
Biện pháp nghệ thuật:
- Điệp ngữ: Chưa bao giờ như bây giờ
- So sánh: Tinh thần nòi giống như các thể thơ xưa chỉ biến thiên chứ không sao tiêu diệt.
Giá trị đặc sắc: Làm cho lời văn nghị luận trở nên sinh động, hấp dẫn hơn. Giúp cho người đọc cảm nhận được tinh thần thơ mới và tình cảm của tác giả, dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt, lấy tinh thần nòi giống, tìm dĩ vãng chỗ dựa tinh thần.
Câu 6 (trang 89 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Qua văn bản, bạn hiểu được những gì về phong trào Thơ mới và lối văn phê bình của Hoài Thanh.
Trả lời:
- Hiểu biết về phong trào Thơ mới: Theo Hoài Thanh, khái niệm thơ Mới phải được hiểu là mới cả về mặt nội dung và hình thức, mà trước hết là về nội dung, ông cũng cho rằng, thơ ca Việt Nam đi từ thời cổ điển sang hiện đại là đi từ chữ “ta” đến chữ “tôi” (Một thời đại trong thi ca). Ban đầu, thơ Mới được hiểu là thơ tự do nhưng đến chặng phát triển đỉnh cao của nó, khái niệm về thơ Mới được bổ sung và hoàn chỉnh. Thơ Mới là thơ ca phản ánh cái Tôi cá nhân của người nghệ sĩ với tất cả các cung bậc phong phú đa dạng, phức tạp của nó thông qua hình thức nghệ thuật có nhiều đổi mới, cách tân nhằm phát huy cá tính sáng tạo độc đáo của mỗi người nghệ sĩ.
- Lối văn phê bình của Hoài Thanh:
+ Đặt vấn đề rõ, gọn.
+ Dẫn dắt vấn đề khoa học, khéo léo và dễ hiểu, đảm bảo liền mạch trong hệ thống luận điểm.
+ Câu văn nghị luận giàu chất thơ, có sức gợi cảm xúc, gây hứng thú cho người đọc.
+ Nghệ thuật lí luận chặt chẽ, thấu đáo khoa học.
* Kết nối đọc – viết
Hoài Thanh cho rằng: Các nhà thơ phong trào Thơ mới đã “dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”. Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của bạn về ý kiến này.
Đoạn văn tham khảo
Nhận xét về phong trào Thơ mới, Hoài Thanh cho rằng: Các nhà thơ phong trào Thơ mới đã “dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”. Trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, có nhiều cách biểu lộ lòng yêu nước…. Các nhà Thơ mới đành gửi lòng yêu nước thương nòi của mình vào tình yêu tiếng Việt. Vì họ nghĩ rằng, tiếng Việt đã hứng vong hồn dân tộc những thế hệ qua. Vận mệnh dân tộc đã gắn bó với vận mệnh tiếng Việt. Họ dùng tiếng nói của dân tộc để sáng tác thơ, duy trì tiếng nói và các thể thơ mang hồn cốt dân tộc. Qua thơ, họ ngợi ca thiên nhiên đất nước, gửi gắm nỗi buồn mất nước. Qua thơ, các nhà Thơ mới đã phát triển, đổi mới ngôn từ, làm cho tiếng Việt trở nên rất phong phú, trong sáng, tinh tể, hiện đại. Trong khi văn học trung đại sáng tác văn học bằng chữ Hán, chữ Nôm (ảnh hưởng chữ Hán) và các thể thơ chủ yếu là Đường luật; thì các nhà Thơ mới làm thơ bằng tiếng Việt, chữ quốc ngữ, tôn vinh các thể thơ truyền thống như: thơ lục bát, thơ bốn chữ, thơ năm chữ…Họ coi tiếng nói của cha ông là là hương hỏa quý giá, mang hồn thiêng dân tộc, nên đã trau chuốt từ ngữ, hình ảnh. Tình yêu tiếng Việt, yêu nghệ thuật thơ ca, yêu bản sắc văn hóa dân tộc của các nhà Thơ mới rất phong phú sâu sắc. Đó một biểu hiện tinh tế của tình yêu quê hương đất nước.
6. Bài phân tích 'Một thời đại trong thi ca' (Ngữ văn 11 - SGK Kết nối tri thức) - Mẫu 3
A. KIẾN THỨC CẦN NHỚ
- Thông tin về tác giả
- Hoài Thanh (1909-1982), tên thật là Nguyễn Đức Nguyện, xuất thân từ một gia đình trí thức yêu nước.
- Quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
- Sự nghiệp:
- Bắt đầu viết từ những năm 30 của thế kỉ XX, tham gia kháng chiến tháng 8 năm 1945 và làm Chủ tịch Hội Văn hóa cứu quốc tại Huế.
- Sau cách mạng tháng 8, hoạt động trong ngành văn hóa-nghệ thuật và giữ nhiều chức vụ quan trọng như Tổng thư kí Hội văn hóa cứu quốc, Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật, và nhiều chức vụ khác.
- Được biết đến như một nhà phê bình văn học xuất sắc nhất trong văn học Việt Nam hiện đại.
- Các công trình nổi bật: Văn chương và hành động, Thi nhân Việt Nam, Nói chuyện thơ kháng chiến, v.v.
2. Tác phẩm
- 'Một thời đại trong thi ca' là một tiểu luận mở đầu cho cuốn Thi nhân Việt Nam, tổng kết một cách sâu sắc phong trào thơ mới. Đoạn trích trong sách giáo khoa là phần kết của bài tiểu luận này, nêu rõ nội dung cốt lõi của tinh thần thơ mới, đó là 'cái tôi' cá nhân đối lập với chữ 'ta' rộng lớn.
- Tác phẩm được viết vào năm 1941 và xuất bản năm 1943, nổi bật với việc làm rõ những điểm quan trọng của phong trào thơ mới và những cá nhân đóng góp tích cực cho phong trào này.
Bố cục của tác phẩm 'Một thời đại trong thi ca'
- Phần 1 (từ đầu đến đại thể): Đặt vấn đề về tinh thần Thơ mới.
- Phần 2 (tiếp theo đến băn khoăn riêng): Phân biệt giữa thơ cũ và Thơ mới; cảm xúc chủ đạo của Thơ mới.
- Phần 3 (còn lại): Niềm tin và hi vọng vào sự phát triển của Thơ mới.
Nội dung chính của 'Một thời đại trong thi ca'
Tác phẩm làm rõ nội dung chính của tinh thần Thơ mới: lần đầu tiên chữ “tôi” với nghĩa tuyệt đối của nó xuất hiện trong thi ca, đồng thời phản ánh cái bi kịch ngấm ngầm trong tâm hồn của người thanh niên thời bấy giờ.
Tóm tắt 'Một thời đại trong thi ca'
Văn bản chia thành ba phần chính. Phần mở đầu đề cập đến khó khăn trong việc tìm kiếm tinh thần thơ mới, nhấn mạnh sự khó khăn trong việc đưa ra và so sánh các tác phẩm trong bối cảnh của thời đại. Sau khi tìm được tinh thần thơ mới, tác giả đi vào cốt lõi của nó, đó là cái “tôi” cá nhân. Cái “tôi” mới lạ vì người ta đã quen thuộc với cái “ta” chung và rộng. Cái “tôi” xuất hiện trong bối cảnh tăm tối của đất nước, khi dân tộc đang bị ngoại xâm. Các nhà thơ như Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử cảm thấy bế tắc và mất niềm tin, nhưng họ tìm thấy niềm tin bằng tình yêu tiếng Việt và tìm về quá khứ để quên đi hiện tại bi thương.
Ý nghĩa của nhan đề 'Một thời đại trong thi ca'
Nhan đề “Một thời đại trong thi ca” phản ánh chủ đề chính của tác phẩm, viết về thơ ca. Nội dung tác phẩm đề cập đến nhiều vấn đề như nguồn gốc Thơ mới, cuộc tranh luận giữa Thơ mới và Thơ cũ, quá trình phát triển của Thơ mới trong mười năm, đặc điểm về hình thức thể loại, triển vọng của Thơ mới, và cái bi kịch của cái tôi.
Giá trị nội dung của 'Một thời đại trong thi ca'
Tác phẩm làm rõ nội dung cốt lõi của tinh thần Thơ mới: lần đầu tiên chữ “tôi” với nghĩa tuyệt đối xuất hiện trong thi ca, đồng thời phản ánh cái bi kịch ngấm ngầm trong tâm hồn của người thanh niên thời bấy giờ.
Giá trị nghệ thuật của 'Một thời đại trong thi ca'
Nghệ thuật lập luận khoa học, chặt chẽ, thấu đáo; văn phong tinh tế, tài hoa và giàu cảm xúc.