1. Mẫu bài soạn 'Củng cố và mở rộng trang 70' (Ngữ văn 10 - SGK Kết nối tri thức) - phiên bản 4
Câu 1. Theo bạn, yếu tố nào tạo nên vẻ đẹp của thơ ca?
Những yếu tố làm nên vẻ đẹp của thơ ca bao gồm nội dung và nghệ thuật (như ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu…).
Câu 2. Thảo luận nhóm về một trong những chủ đề sau: (1) Vì sao nên đọc thơ? (2) Thế nào là một bài thơ hay?
(1) Vì sao nên đọc thơ?
- Thơ giúp cảm nhận những tình cảm sâu lắng và đẹp đẽ.
- Cải thiện vốn từ và cách diễn đạt…
(2) Thế nào là một bài thơ hay?
- Nội dung có giá trị nhân văn cao.
- Ngôn từ trong sáng và đầy cảm xúc…
Câu 3. Đọc lại tất cả các tác phẩm thơ đã học và sưu tầm thêm một số bài thơ khác cùng thể thơ hoặc chủ đề. Ghi chép lại những cảm nhận của bạn về các bài thơ này.
- Một số bài thơ cùng thể thơ: 'Qua đèo Ngang' (Bà Huyện Thanh Quan, Thất ngôn bát cú Đường luật), 'Đập đá ở Côn Lôn' (Phan Châu Trinh, Thất ngôn bát cú Đường luật)...
- Một số bài thơ cùng chủ đề: 'Mùa xuân nho nhỏ' (Thanh Hải, mùa xuân), 'Sang thu' (Hữu Thỉnh, mùa thu)...
=> Những bài thơ mang cảm xúc mạnh mẽ và hình ảnh độc đáo…
Câu 4. Tìm đọc thêm các bài phân tích thơ và rút ra kinh nghiệm về cảm nhận và phân tích thơ ca.
Các kinh nghiệm trong việc cảm nhận và phân tích thơ ca:
- Tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác, cấu trúc và mạch cảm xúc của bài thơ.
- Nhận xét khái quát về bài thơ.
- Phân tích hình ảnh tiêu biểu trong từng câu thơ, khổ thơ.
- Phân tích tác dụng của các biện pháp tu từ (nếu có)...
Câu 5. Phân tích một bài thơ được đánh giá cao (ngoài bài đã phân tích trong phần viết của bài học).
Gợi ý:
Bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương thể hiện sự trân trọng vẻ đẹp và phẩm giá trong trắng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ niềm cảm thông cho cuộc đời khó khăn của họ:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Bài thơ mang hai ý nghĩa. Đầu tiên là nét tả thực - miêu tả hình ảnh bánh trôi nước. Tác giả mô tả hình dáng bên ngoài: màu sắc (vừa trắng), hình dáng (vừa tròn). Cách làm bánh được nêu rõ: khi bánh nổi lên mặt nước có nghĩa là đã chín, nhân bánh thường làm từ đường phên. Hình ảnh chiếc bánh trôi được mô tả từ hình thức đến cách thức làm bánh.
Hồ Xuân Hương không chỉ miêu tả bánh trôi nước, mà còn thể hiện vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa qua hình ảnh “bánh trôi nước”. Cụm từ “thân em” gợi nhớ đến mô-típ trong ca dao:
“Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”
Hoặc:
“Thân em như ớt chín cây
Càng tươi ngoài vỏ, càng cay trong lòng”
Bài thơ “Bánh trôi nước” cùng các bài ca dao đều xuất phát từ sự thương cảm cho số phận người phụ nữ xưa. Họ là những con người nhỏ bé, cuộc đời bấp bênh và không thể tự quyết định số phận của mình.
Vẻ đẹp của người phụ nữ hiện lên qua hình ảnh “vừa trắng lại vừa tròn” gợi sự đầy đặn, nước da trắng hồng, là chuẩn mực của vẻ đẹp xưa. Dù xinh đẹp, họ vẫn phải chịu nhiều bất hạnh. Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” gợi cuộc đời đầy gian truân. Câu thơ “rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” nói lên số phận phụ thuộc vào người khác. Tuy vậy, người phụ nữ vẫn giữ được tấm lòng thủy chung: “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Bài thơ sử dụng ngôn ngữ giản dị, hình ảnh ẩn dụ, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, làm nổi bật ý nghĩa mà nhà thơ muốn truyền đạt.
“Bánh trôi nước” là một tác phẩm đầy giá trị nhân văn. Chúng ta nên trân trọng và yêu thương người phụ nữ hơn.
2. Mẫu bài soạn 'Củng cố và mở rộng trang 70' (Ngữ văn 10 - SGK Kết nối tri thức) - phiên bản 5
Câu 1 trang 70 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1
Qua bài học này, theo bạn, những gì làm nên vẻ đẹp của thơ ca?
Lời giải
Một trong những yếu tố quan trọng nhất làm nên vẻ đẹp của thơ ca là sự tinh tế của ngôn từ nghệ thuật. Bởi ngôn từ là phương tiện để người nghệ sĩ sáng tác và truyền tải những tư tưởng nghệ thuật. Ngoài ra, vẻ đẹp của thơ ca còn nằm ở nhịp điệu, cách gieo vần, cách sáng tạo hình ảnh thơ, những biện pháp tu từ, giọng điệu thơ,....
Câu 2 trang 70 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1
Thảo luận nhóm về một trong các chủ đề: (1) Tại sao nên đọc thơ? (2) Thế nào là một bài thơ hay?
Lời giải
(1) Tại sao nên đọc thơ?
- Thơ giúp con người cảm nhận được những tình cảm đẹp đẽ.
- Trau dồi vốn từ, cách diễn đạt…
(2) Thế nào là một bài thơ hay?
- Nội dung giàu tính nhân văn.
- Ngôn từ trong sáng, giàu cảm xúc…
Câu 3 trang 70 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1
Đọc lại tất cả những tác phẩm thơ đã học trong bài. Sưu tầm hoặc tập hợp một số bài thơ khác cùng thể thơ hoặc cùng đề tài và ghi chép ngắn gọn những điều bạn tâm đắc khi đọc bài thơ đó.
Lời giải
- Những bài thơ cùng đề tài mùa xuân
+ “Mùa xuân chín” (Hàn Mặc Tử): bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống cùng tâm hồn khát khao giao cảm với cuộc đời của nhà thơ.
+ “Mùa xuân xanh” (Nguyễn Bính): sức sống mùa xuân đậm chất “chân quê”, niềm vui sống, sự chan hoà giữa con người với tạo vật.
+ “Mùa xuân nho nhỏ” (Thanh Hải): bức tranh mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, đất nước và con người, thể hiện những ước nguyện cống hiến khiêm nhường mà cao đẹp của nhà thơ.
+ “Nguyên tiêu” (Hồ Chí Minh): bức tranh thiên nhiên mùa xuân nơi núi rừng tràn ngập sức sống, thi vị, thể hiện tình yêu thiên nhiên, tinh thần lạc quan và ý thức trách nhiệm với dân tộc của Bác.
Câu 4 trang 70 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1
Tìm đọc thêm một số bài phân tích thơ, từ đó rút ra những kinh nghiệm về cảm nhận và phân tích thơ ca.
Lời giải
Kinh nghiệm cảm thụ và phân tích thơ:
- Tìm hiểu về hoàn cảnh, bố cục và mạch cảm xúc của bài thơ.
- Khái quát về bài thơ.
- Phân tích những hình ảnh tiêu biểu trong từng câu thơ, khổ thơ.
- Phân tích tác dụng của các biện pháp tu từ (nếu có) …
Câu 5 trang 70 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1
Hãy phân tích một bài thơ được đánh giá là hay (ngoài bài đã được phân tích trong phần Viết của bài học).
Lời giải
Bài tham khảo
Mẫu 1: Phân tích bài thơ Bánh trôi nước - Hồ Xuân Hương
Bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương đã thể hiện sự trân trọng trước vẻ đẹp, phẩm chất trong trắng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ niềm thương cảm cho cuộc đời lận đận của họ:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Bài thơ mang hai nét nghĩa. Trước hết là nét nghĩa tả thực - miêu tả hình ảnh bánh trôi nước. Tác giả đã miêu tả hình dáng bên ngoài: màu sắc (vừa trắng), hình dáng (vừa tròn). Cùng với đó là cách thức làm bánh luộc bánh trong nước, khi nào bánh nổi lên mặt nước có nghĩa là đã chín. Bên trong nhân bánh thường được làm bằng đường phên. Viên bánh rắn hay nát phụ thuộc vào tay người nắn có khéo léo. Hình ảnh tả thực chiếc bánh trôi từ hình thức đến cách thức.
Nhưng không chỉ mang nét nghĩa như vậy, Hồ Xuân Hương còn muốn nói đến vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa qua hình ảnh “bánh trôi nước”. Mở đầu bằng cụm từ “thân em” - đây là một mô-típ đã rất quen thuộc trong ca dao:
“Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”
Hay như:
“Thân em như ớt chín cây
Càng tươi ngoài vỏ, càng cay trong lòng”
Ở bài thơ “Bánh trôi nước” hay các bài ca dao, dân ca đều xuất phát từ niềm thương cảm, xót xa cho số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa. Họ là những con người nhỏ bé trong xã hội. Cuộc đời trôi nổi, bấp bênh và không được tự quyết định cuộc sống của bản thân, chịu sự chi phối của người khác.
Vẻ đẹp của người phụ nữ hiện lên “vừa trắng lại vừa tròn” gợi ra một thân hình khá đầy đặn, nước da trắng hồng. Đó là chuẩn mực của người phụ nữ đẹp trong xã hội xưa. Xinh đẹp là vậy, nhưng cuộc đời lại nhiều bất hạnh. Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” gợi ra một cuộc đời vất vả, gặp nhiều gian truân. Câu thơ “rắn nát mặc dầu tay kẻ nạn” đã nói lên số phận phải phụ thuộc vào người khác, không được tự mình quyết định. Nhưng dù có chịu nhiều bất hạnh, người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương vẫn gìn giữ được tâm hồn cao quý: “Mà em vẫn giữ tấm lòng son”. : Dù cuộc đời có khó khăn, khổ cực thì họ vẫn giữ được tấm lòng thủy chung, son sắc và không thay đổi. Hình ảnh người phụ nữ hiện lên với đầy đủ nét đẹp từ ngoại hình đến tâm hồn. Bài thơ sử dụng ngôn ngữ bình dị, hình ảnh ẩn dụ, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt cô đọng, hàm súc… nhằm làm nổi bật nên ý nghĩa mà nhà thơ muốn gửi gắm.
Như vậy, “Bánh trôi nước” là một tác phẩm giàu giá trị nhân văn sâu sắc. Từ đó, chúng ta cần phải trân trọng, yêu thương những người phụ nữ hơn.
Mẫu 2: Phân tích bài thơ Thu điếu (Câu cá mùa thu)
Cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, tưởng chừng như cùng với sự kết thúc của chế độ xã hội phong kiến suy tàn lạc hậu, nền văn học Việt Nam trung đại sẽ rơi vào ngõ cụt của sự bế tắc với một phương thức phản ánh đã lỗi thời. Nhưng thật kì lạ là trong sự suy thoái tưởng chừng đã đến đỉnh điểm ấy lại xuất hiện một tài năng thơ ca vào loại xuất chúng như Nguyễn Khuyến.
Ông để lại cho quê hương, cho đất nước một di sản văn chương phong phú, đồ sộ. Nhưng nói đến nhà thơ Nguyễn Khuyến, người đọc mệnh danh ông là nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam, vì ông đã viết nhiều bài thơ hay về cảnh làng quê. Đặc biệt là chùm thơ thu của ông, trong đó có bài thơ Thu điếu:
Bài thơ được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình tượng là biểu cảm. Cảnh thu, trời thu của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngòi bút thần tình của Nguyễn Khuyến. Hai câu đầu nhà thơ hầu như không hứng thú gì với chuyện câu cá mà đắm say với không khí cảnh sắc mùa thu, ngay câu đầu nhà thơ đã gọi cái ao của mình là ao thu, và với tính chất lạnh lẽo nước trong veo thì đó đúng là ao thu chứ không phải là môi trường thích hợp cho việc câu cá.
Không gian được mở rộng, bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời xanh ngắt với những từng mây lơ lửng trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là xanh ngắt. Ở Thu vịnh là Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Thu ẩm là Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt, và Thu điếu là Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt.
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng thu. Tất cả cảnh vật, từ mặt nước Ao thu lạnh lẽo đến chiếc thuyền câu bé tí teo, từ sóng biếc đến lá vàng, từ tầng mây lơ lửng đến ngõ trúc... đều hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh thoáng chút bâng khuâng, man mác, rất gần gũi, thân thiết với mọi người Việt Nam.
Tựa gối ôm cần là tư thế đợi chờ mòn mỏi của người câu cá. Người xưa có kẻ lấy câu cá làm việc đợi thời, đợi người xứng đáng để phò tá. Văn thơ truyền thống lấy việc câu cá để từ chối việc làm quan và coi câu cá là việc câu người, câu quạnh, câu lưỡi. Bài thơ Thu điếu này cũng thể hiện khát vọng câu thanh, câu vắng cho tâm hồn của một nhà thơ có phẩm chất thanh cao.
Cái âm thanh cá đớp động gợi lên sự mơ hồ xa vắng, đánh thức tỉnh. Bài thơ Câu cá mùa thu là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa vèo trong làn gió thu tiếng cá đớp động chân bèo - đó là tiếng thu dân dã, thân thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương đất nước.
3. Bài giảng 'Củng cố và mở rộng trang 70' (Ngữ văn 10 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 6
Câu 1. Qua bài học này, theo bạn, những gì làm nên vẻ đẹp của thơ ca?
Trả lời:
Điều làm nên vẻ đẹp của thơ ca chính là ngôn ngữ, hình ảnh và giọng điệu trong những câu thơ, khổ thơ. Mỗi bài thơ sẽ truyền tải một thông điệp, tâm trạng khác nhau của nhân vật và tác giả là người tạo ra nó bằng những câu thơ giàu hình ảnh, cảm xúc kết hợp với việc sử dụng các biện pháp tu từ.
Câu 2. Thảo luận nhóm về một trong các chủ đề: (1) Tại sao nên đọc thơ? (2) Thế nào là một bài thơ hay?
Trả lời:
- Chủ đề (1): Chúng ta nên đọc thơ vì:
- Đọc thơ để cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, cảm nhận được tâm trạng con người qua thiên nhiên và từ đó thấy được cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ, hình ảnh.
- Có thể trau dồi thêm vốn từ ngữ phong phú hơn, vốn từ ngữ giàu tình cảm, giàu sắc thái; học cách biểu đạt cảm xúc, tâm trạng qua ngôn ngữ viết.
- Người đọc cũng có thể phát triển kĩ năng ngôn ngữ và kĩ năng giao tiếp thông qua việc đọc thơ.
- Chủ đề (2): Một bài thơ hay là
- Là bài thơ có lời thơ trong sáng, ý thơ hàm súc và phải có tính truyền cảm khiến cho người đọc cảm thấy xúc động, xao xuyến khi đọc thơ.
- Là bài thơ có âm điệu, giọng điệu hay, có kết cấu chặt chẽ, tài tình hoặc phải theo một quy luật nhất định về niêm - luật.
- Một bài thơ hay là một bài thơ mà người đọc cảm nhận được nó, hiểu được tác giả viết gì, miêu tả cái gì và truyền tải quan niệm, suy nghĩ gì.
Câu 3. Đọc lại tất cả những tác phẩm thơ đã học trong bài. Sưu tầm hoặc tập hợp một số bài thơ khác cùng thể thơ hoặc cùng đề tài và ghi chép ngắn gọn những điều bạn tâm đắc khi đọc bài thơ đó.
Trả lời:
Một số các tác phẩm thơ cùng thể thơ hoặc cùng chủ đề:
- Cùng thể thơ: Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, Tự tình của Hồ Xuân Hương,…
- Cùng chủ đề: Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, Sang thu của Hữu Thỉnh, Tiếng thu của Lưu Trọng Lư,…
Câu 4. Tìm đọc thêm một số bài phân tích thơ, từ đó rút ra những kinh nghiệm về cảm nhận và phân tích thơ ca.
Trả lời:
Những kinh nghiệm về cảm nhận và phân tích thơ ca:
- Phân tích thơ trước hết cần chú ý đến hoàn cảnh ra đơi, thể thơ và đặc điểm hình thức thơ. Tiếp đến là khái quát nội dung, chủ đề bài thơ: tả cảnh, tả người, …
- Phân tích, cảm nhận từng hình ảnh, chi tiết trong từng câu thơ, khổ thơ. Cảm nhận từng câu một không ngắt quãng, bỏ dở, đi từng câu, từng khổ thơ.
- Phân tích tác dụng của các biện pháp tư từ như phép đối, phép ẩn dụ, so sánh,… để làm nổi bật ý nghĩa câu thơ, khổ thơ.
- Nhận xét, đánh giá được phong cách nghệ thuật của tác giả.
Câu 5: Hãy phân tích một bài thơ được đánh giá là hay (ngoài bài đã được phân tích trong phần Viết của bài học).
Trả lời:
- Phân tích bài thơ "Thu Điếu" của Nguyễn Khuyến.
Dàn ý:
Mở bài
- Đôi nét về tác giả Nguyễn Khuyến: một tác giả chịu ảnh hưởng đậm nét tư tưởng Nho giáo, sáng tác của ông thường về đạo đức con người, người quân tử. Sau khi thấy thực tại rối ren, ông ở ẩn sáng tác các tác phẩm thể hiện sự hòa hợp với thiên nhiên thanh tịnh
- Bài thơ Câu cá mùa thu: Là một bài thơ trong chùm thơ thu ba bài được sáng tác trong thời gian tác giả ở ẩn
Thân bài
* Hai câu đề
- Mùa thu gợi ra với hai hình ảnh vừa đối lập vừa cân đối hài hoà "ao thu", "chiếc thuyền câu" bé tẻo teo;
+ Màu sắc "trong veo": sự dịu nhẹ, thanh sơ của mùa thu
+ Hình ảnh: Chiếc thuyền câu bé tẻo teo ⇒ rất nhỏ
+ Cách gieo vần "eo": giàu sức biểu hiện
- Cũng từ ao thu ấy tác giả nhìn ra mặt ao và không gian quanh ao ⇒ đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ.
⇒ bộc lộ rung cảm của tâm hồn thi sĩ trước cảnh đẹp mùa thu và của tiết trời mùa thu, gợi cảm giác yên tĩnh lạ thường
* Hai câu thực
- Tiếp tục nét vẽ về mùa thu giàu hình ảnh:
+ Sóng biếc: Gợi hình ảnh nhưng đồng thời gợi được cả màu sắc, đó là sắc xanh dịu nhẹ và mát mẻ, phải chăng là sự phản chiếu màu trời thu trong xanh
+ Lá vàng trước gió: Hình ảnh và màu sắc đặc trưng của mùa thu Việt Nam
- Sự chuyển động:
+ hơi gợn tí ⇒ chuyển động rất nhẹ ⇒sự chăm chú quan sát của tác giả
+ "khẽ đưa vèo" ⇒ chuyển động rất nhẹ rất khẽ ⇒ Sự cảm nhận sâu sắc và tinh tế
⇒ Nét đặc sắc rất riêng của mùa thu làng quê được gợi lên từ những hình ảnh bình dị, đó chính là "cái hồn dân dã"
* Hai câu kết
- Xuất hiện hình ảnh con người câu cá trong không gian thu tĩnh lặng với tư thế "Tựa gối buông cần":
+ " Buông": Thả ra (thả lỏng) đi câu để giải trí, ngắm cảnh mùa thu
+ "Lâu chẳng được" : Không câu được cá
⇒ Đằng sau đó là tư thế thư thái thong thả ngắm cảnh thu, đem câu cá như một thú vui làm thư thái tâm hồn ⇒ sự hòa hợp với thiên nhiên của con người
- Toàn bài thơ mang vẻ tĩnh lặng đến câu cuối mới xuất hiện tiếng động:
+ Tiếng cá "đớp động dưới chân bèo" → sự chăm chú quan sát của nhà thơ trong không gian yên tĩnh của mùa thu, nghệ thuật "lấy động tả tĩnh"
⇒ Tiếng động rất khẽ, rất nhẹ trong không gian rộng lớn càng làm tăng vẻ tĩnh vắng , "cái tĩnh tạo nên từ một cái động rất nhỏ"
⇒ Nói câu cá nhưng thực ra không phải bàn chuyện câu cá, sự tĩnh lặng của cảnh vật cho cảm nhận về nỗi cô quạnh, uẩn khúc trong tâm hồn nhà thơ, đó là tâm sự đầy đau buồn trước tình cảnh đất nước đầy đau thương.
*Nghệ thuật
- Bút pháp thuỷ mặc (dùng đường nét chấm phá) Đường thi và vẻ đẹp thi trung hữu hoạ của bức tranh phong cảnh
- Vận dụng tài tình nghệ thuật đối.
- Nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng thành công
- Cách gieo vẫn "eo" và sử dụng từ láy tài tình
Kết bài
- Khẳng định lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của bài thơ
- Bài thơ đem đến cho độc giả những cảm nhận sâu lắng về một tâm hồn yêu nước thầm kín mà thiết tha
Bài làm mẫu
Nguyễn Khuyến là một tác giả chịu ảnh hưởng đậm nét tư tưởng Nho giáo, sáng tác của ông thường về đạo đức con người, người quân tử. Sau khi thấy thực tại rối ren, ông ở ẩn sáng tác các tác phẩm thể hiện sự hòa hợp với thiên nhiên thanh tịnh. Thu điếu nằm trong chùm thơ thu gồm ba bài nức danh nhất về thơ Nôm của Nguyễn Khuyến. Bài thơ nói lên một nét thu đẹp tĩnh lặng nơi làng quê xưa, biểu lộ mối tình thu đẹp mà cô đơn, buồn của một nhà Nho nặng tình với quê hương đất nước. Thu điếu cũng như Thu ẩm, Thu vịnh chỉ có thể được Nguyễn Khuyến viết vào thời gian sau khi ông đã từ quan về sống ở quê nhà (1884)
Thu điếu" được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình tượng và biểu cảm. Cảnh thu, trời thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngọn bút thần tình của Nguyễn Khuyến.
Hai câu đầu nói về ao thu và chiếc thuyền câu. Nước ao "trong veo" toả hơi thu "lạnh lẽo". Sương khói mùa thu như bao trùm cảnh vật. Nước ao thu đã trong lại trong thêm, khí thu lành lạnh lại trở nên"lạnh lẽo". Trên mặt nước hiện lên thấp thoáng một chiếc thuyền câu rất bé nhỏ -"bé tẻo teo". Cái ao và chiếc thuyền câu là hình ảnh trung tâm của bài thơ, cũng là hình ảnh bình dị, thân thuộc, đáng yêu của quê nhà. Theo Xuân Diệu cho biết vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam có cơ man nào là ao, nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà "bé tẻo teo":
"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo".
Các từ ngữ: "lạnh lẽo", "trong veo","bé tẻo teo" gợi tả đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng về. Hai câu thơ tiếp theo trong phần thực là những nét vẽ tài hoạ làm rõ thêm cái hồn của cảnh thu:
"Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo".
Màu "biếc" của sóng hoà hợp với sắc "vàng" của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực rất điêu luyện, "lá vàng" với "sóng biếc", tốc độ "vèo" của lá bay tương ứng với mức độ "tí" của sóng gợn. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi chữ "vèo" trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra mới có được một câu thơ vừa ý trong bài "Cảm thu, tiễn thu", "Vèo trông lá rụng đầy sân".
Hai câu luận mở rộng không gian miêu tả. Bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời "xanh ngắt" với những tầng mây "lơ lửng" trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là "xanh ngắt":
- "Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
(Thu vịnh)
- "Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt".
(Thu ẩm)
- "Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt".
(Thu điếu)
"Xanh ngắt" là xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây (mây xám), mà xanh ngắt một màu thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi, ông lơ đãng đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê. Hình như người dân quê đã ra đồng hết. Xóm thôn vắng lặng, vắng teo. Mọi con đường quanh co, hun hút, không một bóng người qua lại:
"Ngõ trúc quanh co khách vắng teo".
Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng mùa thu. Tất cả cảnh vật từ mặt nước "ao thu lạnh lẽo" đến "chiếc thuyền câu bé tẻo teo", từ "sóng biếc" đến "lá vàng", từ"tầng mây lơ lửng đến "ngõ trúc quanh co" hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh, ... có khi thoáng chút bâng khuâng, man mác, nhưng rất gần gũi, thân thiết với mỗi con người Việt Nam. Phong cảnh thiên nhiên của mùa thu quê hương sao đáng yêu thế!
Cái ý vị của bài thơ "Thu điếu" là ở hai câu kết:
"Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo".
"Tựa gối ôm cần" là tư thế của người câu cá cũng là một tâm thế nhàn của nhà thơ đã thoát vòng danh lợi. Cái âm thanh"cá đâu đớp động", nhất là từ "đâu" gợi lên sự mơ hồ, xa vắng và chợt tỉnh. Người câu cá ở đây chính là nhà thơ, một ông quan to triều Nguyễn, yêu nước thương dân nhưng bất lực trước thời cuộc, không cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp đã cáo bệnh, từ quan. Đằng sau câu chữ hiện lên một nhà nho thanh bạch trốn đời đi ở ẩn. Đang ôm cần đi câu cá nhưng tâm hồn nhà thơ đang đắm chìm trong giấc mộng mùa thu, bỗng chợt tỉnh trở về thực tại khi"Cá đâu đớp động dưới chân bèo". Cho nên cảnh vật ao thu, trời thu êm đềm, vắng lặng như chính nỗi lòng của nhà thơ vậy — buồn cô đơn và trống vắng.
Âm thanh tiếng cá"đớp động dưới chân bèo" đã làm nổi bật khung cảnh tịch mịch của chiếc ao thu. Cảnh vật như luôn luôn quấn quýt với tình người. Thiên nhiên đối với Nguyễn Khuyến như một bầu bạn tri kỉ. Ông đã trang trải tình cảm, gửi gắm tâm hồn, tìm lời an ủi ở thiên nhiên, ở sắc "vàng" của lá thu, ở màu"xanh ngắt" của bầu trời thu, ở làn "sóng biếc" trên mặt ao thu "lạnh lẽo"...
Thật vậy, "Thu điếu" là một bài thơ tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, những nét vẽ xa gần, tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa"vèo" trong làn gió thu, tiếng cá"đớp động" chân bèo - đó là tiếng thu dân dã, thân thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương đất nước.
Nghệ thuật gieo vần của Nguyễn Khuyến rất độc đáo. Vần "eo" đi vào bài thơ rất tự nhiên thoải mái, để lại ấn tượng khó quên cho người đọc; âm hưởng của những vần thơ như cuốn hút chúng ta: trong veo - bé tẻo teo - đưa vèo - vắng teo - chân bèo. Thi si Xuân Diệu đã từng viết: "Cái thú vị của bài "Thu điếu" ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi"...
Thơ là sự cách điệu tâm hồn. Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình quê nồng hậu. Ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Đọc"Thu điếu","Thu vịnh","Thu ẩm", chúng ta yêu thêm mùa thu quê hương, yêu thêm xóm thôn đồng nội, đất nước. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một địa vị vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.
4. Bài soạn 'Củng cố và mở rộng trang 70' (Ngữ văn 10 - SGK Kết nối tri thức) - Mẫu 1
Câu 1 (trang 70 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
- Một trong những yếu tố quan trọng nhất làm nên vẻ đẹp của thơ ca là sự tinh tế của ngôn từ nghệ thuật. Bởi ngôn từ là phương tiện để người nghệ sĩ sáng tác và truyền tải những tư tưởng nghệ thuật. Ngoài ra, vẻ đẹp của thơ ca còn nằm ở nhịp điệu, cách gieo vần, cách sáng tạo hình ảnh thơ, những biện pháp tu từ, giọng điệu thơ,....
Câu 2 (trang 70 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
Chủ đề (1): Tại sao nên đọc thơ?
- Đọc thơ giúp:
+ Phát triển khả năng tư duy, kết nối ngôn ngữ và cảm xúc
+ Làm phong phú trí tưởng tượng, làm giàu vốn cảm xúc
+ Rèn luyện khả năng ngôn ngữ, đặc biệt là những ngôn từ nghệ thuật
+ Phát huy năng lực cảm thụ
+ Giúp thư giãn tinh thần
Chủ đề (2): Thế nào là một bài thơ hay?
- Một bài thơ hay có những yếu tố:
+ Giàu cảm xúc
+ Hình thức độc đáo
+ Ngôn từ tinh tế, mới lạ
+ Tư tưởng nghệ thuật sâu sắc
+ Chứa đựng phong cách nghệ thuật của người sáng tác
Câu 3 (trang 70 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
- Những bài thơ cùng đề tài mùa xuân
+ “Mùa xuân chín” (Hàn Mặc Tử): bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống cùng tâm hồn khát khao giao cảm với cuộc đời của nhà thơ.
+ “Mùa xuân xanh” (Nguyễn Bính): sức sống mùa xuân đậm chất “chân quê”, niềm vui sống, sự chan hoà giữa con người với tạo vật.
+ “Mùa xuân nho nhỏ” (Thanh Hải): bức tranh mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, đất nước và con người, thể hiện những ước nguyện cống hiến khiêm nhường mà cao đẹp của nhà thơ.
+ “Nguyên tiêu” (Hồ Chí Minh): bức tranh thiên nhiên mùa xuân nơi núi rừng tràn ngập sức sống, thi vị, thể hiện tình yêu thiên nhiên, tinh thần lạc quan và ý thức trách nhiệm với dân tộc của Bác.
Câu 4 (trang 70 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
- Khi cảm nhận và phân tích thơ ca cần lưu ý:
+ Đặc trưng thể loại thơ ca: Thơ là sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã được ý thức, Thơ là nghệ thuật của trí tưởng tượng, Tính cá thể hoá của tình cảm trong thơ, Chất thơ của thơ.
+ cần biết rõ hoàn cảnh sáng tác bài thơ, tên tác giả, phong cách nghệ thuật của tác giả.
+ Đọc kỹ bài thơ, cảm nhận ý thơ qua câu chữ, hình ảnh, nhịp điệu, ý thơ ở đây là cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng, cảnh vật,.. Đồng cảm với nhà thơ, dùng liên tưởng tưởng tượng, phân tích khả năng biểu hiện của từ ngữ, chi tiết, vần điệu,... mới cảm nhận được ý thơ, cái tôi trữ tình, nhân vật trữ tình.
+ Từ những câu thơ đẹp, ý thơ lạ, ý thơ hay, từ hình tượng thơ, cái tôi trữ tình, nhân vật trữ tình, hãy nhìn xa và lùi lại để lý giải, đánh giá toàn bài thơ về cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Bài thơ có nét gì độc đáo, sáng tạo gì,...
Câu 5 (trang 70 SGK Ngữ Văn 10 Tập 1)
Mùa thu là một đề tài xuất hiện nhiều trong thi ca, là nguồn cảm hứng dồi dào đối với người nghệ sĩ. Mùa thu không chỉ gợi cảnh vật mà còn gợi những sắc thái trong lòng người. “Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh là một bài thơ như vây. Được sáng tác năm 1977 – sau khi đất nước vừa bước ra từ cuộc kháng chiến hào hùng, khốc liệt, “Sang thu” của Hữu Thỉnh đã bày tỏ những chiêm nghiệm của tác giả về con người và cuộc đời.
Nhan đề gây ấn tượng với bạn đọc bởi biện pháp đảo ngữ: “Sang thu”. Tác giả viết “Sang thu” chứ không phải “Thu sang” nhằm nhấn mạnh khoảnh khắc giao mùa mong manh từ hạ sang thu. Cái khoảnh khắc ấy khiến cho lòng người xao xuyến. Không chỉ thiên nhiên, đất trời đang vào thu mà dường như đó cũng là cái sang thu của con người, của cuộc đời.
Khổ thơ đầu là những cảm nhận tinh tế của tác giả về khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”
Đặt từ “bỗng” ở đầu khổ thơ, tác giả cho thấy, mùa thu đến khá bất ngờ và đột ngột, dường như không hẹn trước. Những tín hiệu báo mùa thu đã về được gợi ra qua hình ảnh “hương ổi”, “gió se” và “sương”. Tín hiệu mùa thu đầu tiên được nhà thơ cảm nhận bằng khứu giác - “hương ổi”, một mùi hương thơm dịu, bình dị, thân thuộc của làng quê Việt Nam. Mùa thu đến đã không chỉ được nhà thơ cảm nhận bằng khứu giác mà còn bằng cả xúc giác. “Gió se” là gió khô, hơi lành lạnh cũng là tín hiệu đặc trưng nhất báo thu về. Hương ổi nồng nàn trong làn gió se, lan tỏa khắp không gian như báo hiệu mùa thu đang đến. Hương ổi không hòa quyện trong gió mà lan tỏa một cách mãnh liệt – “phả vào trong gió se”. Động từ “phả” nhằm thể hiện sức sống mạnh mẽ, tỏa hương ra từng luồng khiến những tín hiệu mùa thu càng trở nên rõ nét. Hình ảnh “sương chùng chình qua ngõ” là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ. Làn sương được nhân hóa qua từ láy “chùng chình” như cố ý đi chậm lại bởi còn lưu luyến, vấn vương mùa hạ. Với cách quan sách độc đáo, người đọc có thể cảm nhận tâm hồn tinh tế và tình yêu thiên nhiên của nhà thơ. Mùa thu dường như đến quá đột ngột và bất ngờ nên dù vui sướng trước tín hiệu mùa thu nhưng nhà thơ vẫn còn dè dặt: “Hình như thu đã về”. Trước phút giây giao mùa đầy ngỡ ngàng, nhà thơ trở nên bối rối, xao xuyến trong chính tâm hồn mình. Qua đó, ta thấy bức tranh thiên nhiên vào thu đã hiện lên thật sống động của cảm nhận của người nghệ sĩ tinh tế, yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời. Khổ thơ thứ hai chính là những cảm nhận về sự chuyển biến của thiên nhiên đất trời trong cái nhìn viễn cảnh:
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Nhà thơ Hữu Thỉnh đã mở ra một không gian cao rộng với những nét hữu hình cụ thể: dòng sông dềnh dàng, đàn chim vội vã và đám mây mùa hạ. Dòng sông được nhân hóa qua từ “dềnh dàng” gợi sự chậm chạp, thong thả, mềm mại như muốn được nghỉ ngơi. Phải chăng đó cũng là tâm trạng của con người như chậm lại để ngẫm ngợi nghĩ suy về những trải nghiệm trong cuộc đời. Đối lập với trạng thái dềnh dàng của dòng sông là sự vội vã của những cánh chim. Nghệ thuật nhân hóa khiến hình ảnh đàn chim trở nên thật sống động. Dường như chim cũng tinh tế như con người, cảm nhận được cái giao mùa thầm lặng đang đến mà nhanh chóng bay về phương nam tránh rét. Nhưng sự “vội vã” ấy cũng chỉ mới bắt đầu bởi thu cũng chỉ mới chớm đến với đất trời. Hình ảnh được sáng tạo độc đáo, gợi cảm nhất trong bài thơ có lẽ chính là hình ảnh đám mây “vắt nửa mình sang thu”. Đám mây mềm mỏng, lững lờ trôi tựa như tấm khăn voan trắng xóa vắt ngang qua bầu trời xanh. Bầu trời ấy một nửa vẫn còn là mùa hạ, một nửa đã nghiêng mình sang thu. Đám mây cũng được nhân hóa như mang tình cảm, suy nghĩ của con người. Cũng giống như làn sương “chùng chình”, con sông “dềnh dàng”, đám mây “vắt nửa mình” như còn dùng dằng, bịn rịn, quyến luyến với mùa hạ. Nhà thơ đã mượn cái hữu hình là đám mây để gợi ra cái vô hình là khoảnh khắc giao mùa. Qua cách diễn tả độc đáo ấy, đám mây hiện lên như một cầu nối giữa mùa hạ và mùa thu. Bằng những cảm nhận vô cùng tinh tế, Hữu Thỉnh đã diễn tả chính xác cái ranh giới mong manh hư ảo trong khoảnh khắc giao mùa. Kết thức bài thơ “Sang thu”, nhà thơ Hữu Thỉnh đã gửi gắm những suy tư, chiêm nghiệm của mình về cuộc đời:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.
Từ mùa thu của thiên nhiên đất trời, tác giả kết thúc với hình ảnh mùa thu trong tâm tưởng con người. Vẫn là “nắng, mưa, sấm”-những hiện tượng đặc trưng của mùa hạ nhưng mức độ đã dần khác đi. Bằng phép đảo ngữ và tăng tiến, sử dụng những từ chỉ trạng thái, mức độ “vẫn còn”, “đã vơi”, tác giả càng nhấn mạnh vào sự dùng dằng, giao thoa giữa hạ và thu. Hai câu thơ cuối kết thúc bài thơ mang đầy trăn trở, suy nghĩ của nhà thơ về mùa thu của cuộc đời với biện pháp ẩn dụ độc đáo. “Sấm” chính là ẩn dụ cho những vang động, những thử thách, khó khăn, vất vả của cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người từng trải, đã vượt qua nhiều thử thách trong cuộc sống. Sang thu, sấm nhỏ dần, không còn đủ sức để lay động những hàng cây đã bao mùa thay lá hay phải chăng, chính con người khi bước vào tuổi xế chiều cũng không còn lo lắng, sợ hãi trước những biến cố của cuộc đời. Con người khi bước vào cái tuổi “sang thu” cũng trở nên sâu sắc hơn, chín chắn hơn và vững vàng hơn trước những khó khăn, thử thách bất ngờ của cuộc đời. “Sang thu” không chỉ là sự chuyển giao của thiên nhiên đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi con người. Đặt trong hoàn cảnh sáng tác của bài thơ, hàng cây đứng tuổi còn tượng trưng cho đất nước ta đã trải qua bao hy sinh, mất mát, thiếu thốn, gian khổ của cuộc chiến dựng nước và giữ nước. Bởi vậy, dù đất nước đã hòa bình, với những gian khó trước mắt, dân tộc ta sẽ càng trở nên kiên cường, bất khuất, vững vàng phát triển đi lên.
Với thể thơ năm chữ, cách ngắt nhịp linh hoạt, giọng điệu tự nhiên, nhẹ nhàng, ngôn ngữ hình ảnh trong sáng, tinh tế giàu sức gợi, sức biểu cảm, Hữu Thỉnh đã gửi đến người đọc một bức tranh thiên nhiên lúc sang thu thật sự đẹp, thật duyên, thật tinh tế của một tâm hồn yêu thiên nhiên, quê hương tha thiết. “Sang Thu” của Hữu Thỉnh đã góp vào bản hòa ca mùa thu của quê hương, đất nước một tiếng nói riêng, đầy thi vị, ám ảnh, xúc động.
5. Bài soạn 'Củng cố và mở rộng trang 70' (Ngữ văn 10 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 2
Câu 1
Qua bài học này, theo bạn, những điều gì làm nên vẻ đẹp của thơ ca?
Phương pháp giải:
- Đọc lại những tác phẩm thơ đã học.
- Từ những tác phẩm thơ đã học, chỉ ra điều làm nên vẻ đẹp thơ ca.
Lời giải chi tiết:
Điều làm nên vẻ đẹp của thơ ca chính là ngôn ngữ, hình ảnh và giọng điệu trong những câu thơ, khổ thơ. Mỗi bài thơ sẽ truyền tải một thông điệp, tâm trạng khác nhau của nhân vật và tác giả là người tạo ra nó bằng những câu thơ giàu hình ảnh, cảm xúc kết hợp với việc sử dụng các biện pháp tu từ.
Câu 2
Thảo luận nhóm về một trong các chủ đề: (1) Tại sao nên đọc thơ? (2) Thế nào là một bài thơ hay?
Phương pháp giải:
- Tìm và đọc tài liệu liên quan đến một trong hai chủ đề.
- Dựa vào những tài liệu đó để thảo luận nhóm.
Lời giải chi tiết:
Học sinh tự thảo luận nhóm.
Gợi ý:
* Chủ đề (1): Chúng ta nên đọc thơ vì:
- Đọc thơ để cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, cảm nhận được tâm trạng con người qua thiên nhiên và từ đó thấy được cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ, hình ảnh.
- Có thể trau dồi thêm vốn từ ngữ phong phú hơn, vốn từ ngữ giàu tình cảm, giàu sắc thái; học cách biểu đạt cảm xúc, tâm trạng qua ngôn ngữ viết.
- Người đọc cũng có thể phát triển kĩ năng ngôn ngữ và kĩ năng giao tiếp thông qua việc đọc thơ.
* Chủ đề (2): Một bài thơ hay là
- Là bài thơ có lời thơ trong sáng, ý thơ hàm súc và phải có tính truyền cảm khiến cho người đọc cảm thấy xúc động, xao xuyến khi đọc thơ.
- Là bài thơ có âm điệu, giọng điệu hay, có kết cấu chặt chẽ, tài tình hoặc phải theo một quy luật nhất định về niêm - luật.
- Một bài thơ hay là một bài thơ mà người đọc cảm nhận được nó, hiểu được tác giả viết gì, miêu tả cái gì và truyền tải quan niệm, suy nghĩ gì.
Câu 3
Đọc lại tất cả những tác phẩm thơ đã học trong bài. Sưu tầm hoặc tập hợp một số bài thơ khác cùng thể thơ hoặc cùng đề tài và ghi chép ngắn gọn những điều bạn tâm đắc khi đọc bài thơ đó.
Phương pháp giải:
- Đọc lại tất cả tác phẩm thơ trong bài.
- Sưa tầm hoặc tìm kiếm một số bài thơ cùng thể thơ hoặc cùng chủ đề với những bài thơ đã học.
Lời giải chi tiết:
Một số các tác phẩm thơ cùng thể thơ hoặc cùng chủ đề:
- Cùng thể thơ: Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, Tự tình của Hồ Xuân Hương,…
- Cùng chủ đề: Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, Sang thu của Hữu Thỉnh, Tiếng thu của Lưu Trọng Lư,…
Câu 4
Tìm đọc thêm một số bài phân tích thơ, từ đó rút ra những kinh nghiệm về cảm nhận và phân tích thơ ca.
Phương pháp giải:
- Tìm đọc một số bài phân tích thơ.
- Từ những kiến thức đã học ở phần Viết kết hợp với những gì đã tìm hiểu để rút ra kinh nghiệm về cảm nhận và phân tích thơ ca.
Lời giải chi tiết:
Những kinh nghiệm về cảm nhận và phân tích thơ ca:
- Phân tích thơ trước hết cần chú ý đến hoàn cảnh ra đơi, thể thơ và đặc điểm hình thức thơ. Tiếp đến là khái quát nội dung, chủ đề bài thơ: tả cảnh, tả người, …
- Phân tích, cảm nhận từng hình ảnh, chi tiết trong từng câu thơ, khổ thơ. Cảm nhận từng câu một không ngắt quãng, bỏ dở, đi từng câu, từng khổ thơ.
- Phân tích tác dụng của các biện pháp tư từ như phép đối, phép ẩn dụ, so sánh,… để làm nổi bật ý nghĩa câu thơ, khổ thơ.
- Nhận xét, đánh giá được phong cách nghệ thuật của tác giả.
Câu 5
Hãy phân tích một bài thơ được đánh giá là hay (ngoài bài đã được phân tích trong phần Viết của bài học).
Phương pháp giải:
- Tìm đọc một số bài thơ hay.
- Chọn một bài thơ và phân tích, cảm nhận giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
Lời giải chi tiết:
Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh.
Mùa thu là đề tài muôn thuở của thơ ca cổ kim, ác nhà thơ đều có những khám phá, phát hiện riêng về mùa thu. Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng vậy, ông là một nhà thơ viết rất hay, rất cảm xúc về cuộc sống, về con người với những vần thơ mềm mại, tinh tế chỉ riêng ông có được. Ít có nhà thơ nào lại có những cảm nhận tinh tế về bước chuyển mình từ hạ sang thu như nhà thơ Hữu Thỉnh trong bài Sang thu. Bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh cho đến nay vẫn được đánh giá là một trong những bài thơ miêu tả hay nhất về mùa thu.
Ngay từ nhan đề của bài thơ đã gợi cho người đọc về khoảnh khắc giao mùa của thiên nhiên, và còn đâu đó ẩn dấu khoảnh khắc giao mùa của đời người. Khổ thơ đầu là những cảm nhận vô cùng tinh tế, là giác quan nhạy bén của tác giả để cảm biết được hết những mong manh tín hiệu khi thu về:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Nếu như nhà thơ Xuân Diệu cảm nhận mùa thu qua những chiếc lá vàng, nhà thơ Xuân Quỳnh cảm nhận mùa thu bằng vẻ đẹp của hoa cúc và làn gió heo may thì cách cảm nhận của Hữu Thỉnh lại vô cùng đặc biệt, tác giả đã đón nhận mùa thu bằng khứu giác: hương ổi - một mùi hương thật thân quen, gần gũi. Hương ổi kết hợp với từ “bỗng” gợi lên biết bao cảm giác đột ngột, ngỡ ngàng, cùng với đó là động từ “phả” cho thấy hương thơm đậm sánh lại hòa vào trong cơn gió se se của mùa thu. Không chỉ vậy từ phả còn cho thấy tư thế chủ động của hương ổi, khiến hương thơm càng sánh, càng đậm hơn.
Từ láy "chùng chình" cho thấy sự quyến luyến, không nỡ rời đi của màn sương. “Sương chùng chình” – nghệ thuật nhân hóa, cho ta thấy dáng vẻ của sương cũng như đang quyến luyến, cố đi chậm thật chậm để tận hưởng nốt cái ấm áp của mùa hè, dường như nó chưa muốn bước hẳn sang thu. Với hệ thống hình ảnh độc đáo, miêu tả sinh động tác giả đã miêu tả một cách tài tình những dấu hiệu đầu tiên của mùa thu. Mỗi một thay đổi của đất trời đều khiến cho con người ta để ý và rung động đến mức khó quên. Đầu tiên là hương ổi và bây giờ là cả màn sương, tất cả cho thấy một mùa thu đang về rồi. Từ "hình như" là một nhận định không rõ ràng diễn đạt cảm xúc mơ hồ, chưa xác định của tác giả trước những thay đổi ấy, dường như nhà thơ vẫn còn đôi chút băn khoăn: liệu có phải mùa thu đã đến thật không? Khổ thơ là những cảm nhận tinh tế, mới mẻ của tác giả lúc thu sang.
Ẩn sau những thay đổi của đất trời khi sang thu là tâm hồn tinh tế của nhà thơ, là niềm vui, hạnh phúc khi thu về. Những băn khoăn của tác giả ở khổ thơ trên, đã được giải đáp bằng những tín hiệu của đất trời thấm đẫm chất thu:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Bắt đầu từ những khúc sông “dềnh dàng”, chậm chạp chảy, ta không còn thấy cái dữ dội, những dòng nước cuồn cuộn như mùa hè nữa mà thay vào đó là dòng sông thu vô cùng trong trẻo, tĩnh lặng, chảy hiền hòa như đang ngẫm ngợi điều gì. Nghệ thuật nhân hóa khiến dòng sông như đang nghỉ ngơi sau một mùa hạ cuộn xiết chảy. Thu đến, dòng sông không còn phải gồng mình lên trước những cơn mưa lũ của mùa hạ, những cánh chim đã bắt đầu đi tìm nơi trú ẩn cho mình trước khi một mùa đông lạnh giá ghé thăm. Và cả những đám mây trắng trên bầu trời cao vợi cũng đã đến lúc nói lời chào tạm biệt mùa hè rồi. Ngược lại, những chú chim lại vội vã về phương Nam tránh rét, đồng thời cũng gợi lên những lo toan, tất bật của cuộc sống đời thường.
Đoạn thơ được tác giả sử dụng một loạt các từ láy "dềnh dàng", "vội vã" là những động từ thể hiện sự chuyển động của sự vật. Những sự vật của tự nhiên được nhân hóa với những hành động khi nhanh, khi chậm, vô cùng sinh động trong con mắt của tác giả. Lại một lần nữa động từ được đặt lên đầu câu. Động từ "Vắt" cho thấy hình ảnh một đám mây mềm mại, vắt ngang trên bầu trời, một nửa còn vấn vương mùa hạ, nửa còn lại đã bước chân sang mùa thu.
Khoảnh khắc giao mùa hiện lên tinh tế, sống động qua những câu thơ giàu chất tạo hình. Ông quả là một người tinh tế và nhạy cảm khi nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong khoảnh khắc giao mùa. Sang đến khổ thơ cuối, nhà thơ Hữu Thỉnh không còn cảm nhận mùa thu bằng những sự thay đổi của tự nhiên nữa mà thay vào đó là sự đan xen những chiêm nghiệm về cuộc đời:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Hữu Thỉnh sử dụng linh hoạt phép đối “vẫn còn – vơi dần” , “nắng – mưa” gợi sự vận động ngược chiều của các hiện tượng thiên nhiên tiêu biểu cho hai mùa. Những cơn mưa mùa hè đã vơi dần, bớt dần; nắng cũng không còn chói gắt, làm người ta lóa mắt nữa mà đã là ánh nắng mùa thu dịu nhẹ như màu mật ong. Tín hiệu thu về đã rõ nét hơn bao giờ hết. Cái đặc sắc, tinh nhạy của Hữu Thỉnh còn được thể trong cách ông sắp xếp từ ngữ giảm dần về mức độ: vẫn còn – vơi – bớt cho thấy sự nhạt dần của mùa hạ, và mùa thu mỗi ngày lại đậm nét hơn.
Hình ảnh ẩn dụ "hàng cây đứng tuổi" gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Ở đây, ta có thể hiểu "hàng cây đứng tuổi" tượng trưng cho một con người từng trải, đã đi qua bao giông bão của cuộc đời để trưởng thành hơn. Mùa thu của đất nước hay chính là mùa thu của đời người, khi đã đi qua những tháng năm xuân, hè của tuổi trẻ rực rỡ, bồng bột thì con người ta trở nên trưởng thành hơn, chín chắn hơn và không còn bị bất ngờ trước những tác động của ngoại cảnh. Có thể nói, đây là một hình ảnh ẩn dụ nhiều ý nghĩa, gợi liên tưởng sâu xa về cuộc đời. Phải là một người từng trải mới có thể có những xúc cảm như vậy.
Bài thơ tuy ngắn gọn với thể thơ năm chữ mộc mạc, ngôn ngữ giản dị nhưng có ý nghĩa sâu sắc, hình ảnh đơn sơ mà gợi cảm, Hữu Thỉnh đã phác họa một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp bằng nhiều cảm xúc tinh nhạy. Sang thu là một khúc giao mùa nhẹ nhàng, thơ mộng, bâng khuâng mà cũng thầm thị triết lí, đã nối tiếp hành trình thơ thu dân tộc, góp một tiếng thu đằm thắm về mùa thu quê hương, đem đến cho chúng ta tình quê hương đất nước qua nét đẹp mùa thu Việt Nam. Đọc thơ Hữu Thỉnh ta càng cảm thấy yêu quê hương đất nước hơn, càng cảm thấy mình cần phải ra sức góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
6. Bài soạn 'Củng cố và mở rộng trang 70' (Ngữ văn 10 - SGK Kết nối tri thức) - mẫu 3
Câu 1 (trang 70 SGK Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Theo bạn, những yếu tố nào tạo nên vẻ đẹp của thơ ca?
Trả lời:
- Vẻ đẹp của thơ ca chủ yếu được thể hiện qua ngôn từ, hình ảnh và âm điệu trong các câu thơ, khổ thơ.
- Mỗi tác giả có cách riêng để truyền tải thông điệp của mình, thông qua các biện pháp tu từ, làm cho câu thơ trở nên đầy cảm xúc và hình ảnh hơn.
Câu 2 (trang 70 SGK Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Thảo luận nhóm về một trong các chủ đề: (1) Tại sao nên đọc thơ? (2) Thế nào là một bài thơ hay?
Trả lời:
* Chủ đề (1): Đọc thơ vì:
- Đọc thơ giúp cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên và tâm trạng con người qua ngôn từ và hình ảnh.
- Có thể làm phong phú vốn từ và cách biểu đạt cảm xúc qua ngôn ngữ viết.
- Đọc thơ cũng giúp phát triển kỹ năng ngôn ngữ và giao tiếp.
* Chủ đề (2): Một bài thơ hay:
- Có âm điệu và giọng điệu hay, cấu trúc chặt chẽ.
- Lời thơ trong sáng, ý thơ sâu sắc và có khả năng truyền cảm khiến người đọc cảm thấy xúc động.
- Một bài thơ hay là khi người đọc hiểu và cảm nhận được ý nghĩa, hình ảnh mà tác giả muốn truyền tải.
Câu 3 (trang 70 SGK Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Đọc lại tất cả các tác phẩm thơ đã học trong bài. Sưu tầm, tập hợp một số bài thơ khác cùng thể thơ hoặc cùng chủ đề và ghi chép những điều bạn ấn tượng khi đọc những bài thơ đó.
Trả lời:
Các tác phẩm thơ cùng thể thơ hoặc chủ đề:
- Cùng thể thơ: Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, Tự tình của Hồ Xuân Hương,…
- Cùng chủ đề: Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, Sang thu của Hữu Thỉnh, Tiếng thu của Lưu Trọng Lư,…
Câu 4 (trang 70 SGK Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Tìm đọc thêm một số bài phân tích thơ, từ đó rút ra những kinh nghiệm về cảm nhận và phân tích thơ ca.
Trả lời:
Kinh nghiệm về cảm nhận và phân tích thơ ca:
- Phân tích thơ cần chú ý đến hoàn cảnh ra đời, thể thơ và hình thức thơ. Sau đó, khái quát nội dung và chủ đề của bài thơ.
- Cảm nhận từng hình ảnh, chi tiết trong câu thơ, khổ thơ mà không bỏ sót.
- Phân tích các biện pháp tu từ như đối, ẩn dụ, so sánh để làm nổi bật ý nghĩa của câu thơ.
- Đánh giá phong cách nghệ thuật của tác giả.
Câu 5 (trang 70 SGK Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Phân tích một bài thơ được đánh giá là hay (ngoài bài đã phân tích trong phần Viết của bài học).
Bài viết tham khảo
Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải.
Mùa xuân là đề tài phổ biến trong thi ca, biểu thị sự tươi mới, khát vọng sống và niềm tin vào cuộc đời. Thanh Hải, một thi sĩ từ Huế, đã viết bài thơ Mùa xuân nho nhỏ khi đang nằm trên giường bệnh, thể hiện vẻ đẹp của mùa xuân ngay cả khi đau ốm. Đây là một món quà cuối cùng mà ông dành cho cuộc đời.
Dù trong hoàn cảnh khó khăn, bài thơ của Thanh Hải vẫn đầy lạc quan và thanh thản. Ông nhìn mùa xuân qua cửa sổ nhỏ và cảm nhận được vẻ đẹp của mùa xuân thông qua hình ảnh bông hoa tím và tiếng chim chiền chiện.
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Màu tím đặc trưng của Huế hiện lên giữa màu xanh của dòng sông, kết hợp với âm thanh vui tươi của chim chiền chiện. Nhà thơ cảm nhận sự tinh tế và trân trọng vẻ đẹp thiên nhiên.
Nhà thơ tiếp tục miêu tả mùa xuân qua hình ảnh những người chiến sĩ và nông dân, thể hiện sự hối hả và xôn xao trong công việc của họ.
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao…
Màu xanh của lá cây và nương mạ hiện diện trong khổ thơ. Các chiến sĩ và nông dân đều hối hả với công việc của mình, mang mùa xuân đến cho đất nước.
Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước
Nhà thơ thể hiện sự tự hào về đất nước, với tinh thần vươn lên dù gặp khó khăn.
Nhà thơ mong muốn trở thành một phần của cuộc sống, góp một phần vào bản hòa ca cuộc đời:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
Mong ước giản đơn nhưng vĩ đại, thể hiện tâm hồn của thi sĩ. Dù ở bất kỳ lứa tuổi nào, mỗi người đều góp phần vào mùa xuân chung của đất nước.
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
Kết thúc bài thơ, tác giả ngân vang khúc ca Huế, thể hiện tình yêu quê hương bất diệt:
Mùa xuân ta xin hát
Khúc Nam ai, Nam Bình
Nước non ngàn dặm tình
Nước non ngàn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế.
Bài thơ mang đến ý nghĩa sâu sắc về cuộc sống và khát vọng sống mãnh liệt, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.