1. Bài văn mẫu 4 về cảm nhận chất dân gian trong bài thơ 'Tương tư'
Thơ Nguyễn Bính thể hiện rõ chất dân gian, gợi lại vẻ đẹp của hồn xưa đất nước qua những câu thơ giản dị, chân thành, đậm đà tình cảm.
Bài thơ 'Tương tư' là ví dụ điển hình cho phong cách thơ mộc mạc của Nguyễn Bính. Tác phẩm bộc lộ nỗi nhớ nhung, chân thành của chàng trai quê với những cung bậc tình cảm phong phú, đậm chất dân gian và cảm giác ấm áp của vùng quê. Chất dân gian tạo nên bối cảnh thôn quê cho tác phẩm và cũng là đặc trưng của phong cách thơ Nguyễn Bính. Một tác phẩm mang đậm sắc thái dân gian phản ánh tình cảm truyền thống và cách thể hiện thường gặp trong ca dao, dân ca - kho tàng văn học của người lao động.
Bài thơ 'Tương tư' trước hết là sản phẩm của nền Thơ mới, vượt qua những quy ước xưa cũ để thể hiện cái tôi cá nhân một cách chân thực và phong phú. Nhiều nhà thơ, như Nguyễn Bính, chọn viết về tình yêu và khám phá sâu vào thế giới tình cảm này.
Tuy nhiên, Nguyễn Bính có một cách tiếp cận khác biệt. Dù ông không phá vỡ hoàn toàn thi pháp ca dao, thơ của ông vẫn mang dấu ấn sâu đậm của tình yêu dân tộc, phản ánh qua ca dao trong hàng nghìn năm. Thơ ông thể hiện sự chân thật và giản dị của dân tộc. Bài thơ mở đầu bằng tâm tình của chàng trai:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Nỗi nhớ nhung, tương tư được thể hiện với nhiều sắc thái đẹp đẽ. Giọng kể tự nhiên nhưng cũng rất kín đáo, thể hiện tình cảm trong sáng, thánh thiện giống như trong ca dao dân ca:
“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em nhận thì cho anh xin”.
(Ca dao)
Hay một cách tỏ tình tinh tế hơn:
“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?”
(Ca dao)
Chàng trai ẩn mình trong hình ảnh “thôn Đoài”, tình cảm được biểu lộ tế nhị: “ngồi nhớ”, không vồ vập hay lộ liễu. Người xưa thường kín đáo mà nồng nhiệt: “chín nhớ mười mong”. Tiếp theo, chàng trai tỏ bày cảm xúc qua:
“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?”
Lời thơ như trách móc nhưng thực chất là mời gọi, để tạo cơ hội trò chuyện. Chắc chắn cô gái đã hiểu tâm tình của chàng trai, dù không dám chủ động hơn vì e ngại. Chàng trai chọn cách gửi lời qua gió, qua trăng:
“Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy cho tình xa xôi…
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!”
Chàng trai tự vấn, cảm thấy tình yêu trong lòng ngày càng cháy bỏng mà không có lời giải đáp. Tưởng chừng nỗi khát khao sẽ thúc đẩy chàng trai tìm sang thôn Đông, nhưng cuối cùng, chàng chỉ tìm thấy nhau trong mộng mơ:
“Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?
Tình yêu thầm kín, biến thành khao khát vĩnh cửu, chỉ là niềm mơ ước xa vời:
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
Đọc thơ Nguyễn Bính mang đến cảm giác nhẹ nhàng, thanh lọc tâm hồn. Mỗi câu thơ đưa ta về với vẻ đẹp của làng quê, dù là tình yêu hợp duyên hay trắc trở, tất cả đều diễn ra trong không gian vườn tược tươi xanh. Màu sắc dân gian của bài thơ 'Tương tư' toát lên từ khung cảnh bình dị, tạo nền cho tình yêu nảy nở. Thơ Nguyễn Bính sử dụng ngôn ngữ dân gian linh hoạt, giàu hình ảnh, gợi nhớ đến ca dao dân ca.
2. Mẫu 5 bài văn phân tích chất dân gian trong bài thơ 'Tương tư'
Khi nhắc đến thơ mới, thường nghĩ ngay đến ảnh hưởng mạnh mẽ từ phương Tây qua các tác giả như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Hoàng Chương... Nhưng thơ Nguyễn Bính, dù không hòa tan trong dòng chảy đó, vẫn giữ được nét “chân quê” mộc mạc nhờ ảnh hưởng từ thơ dân gian. Thi phẩm “Tương tư” là một minh chứng rõ nét cho dấu ấn cổ truyền này.
Tiêu đề bài thơ “Tương tư” mang chủ đề về nỗi nhớ trong tình yêu đôi lứa, không phải là nỗi nhớ gia đình mà là tình yêu đôi mình. Đây là một chủ đề quen thuộc trong ca dao, dân ca, với nhiều bài thơ thể hiện nỗi nhớ thương:
“Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?”
“Buồn trông chềnh chếch sao mai
Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ?”
Hoặc:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai?”...
Nguyễn Bính tiếp thu từ ca dao dân gian đã tạo ra một giọng điệu mượt mà với thể lục bát đặc trưng, mang hình ảnh mộc mạc nhưng đầy tình cảm. Sự tinh tế và cảm xúc của thể thơ lục bát dân gian được ông trân trọng và nâng niu.
“Thôn Đoài/ ngồi nhớ/ thôn Đông
Một người/chín nhớ/ mười mong / một người
Nắng mưa/ là bệnh/ của trời
Tương tư/ là bệnh/ của tôi/ yêu nàng”.
Nhịp điệu và cách gieo vần của lục bát rất hợp với tình yêu nơi thôn dã. Hình ảnh trong thơ dân gian như “thôn Đoài”, “thôn Đông” và hình ảnh trầu cau được Nguyễn Bính mượn để diễn tả tình cảm tương tư:
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liền phòng”
Trầu cau gắn với sự hòa hợp, thủy chung trong tình yêu:
“Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân”
“Giầu này giầu tính giầu tình”
“Giầu loan giầu phượng giầu mình với ta”
“Giầu này em têm từ tối hôm qua”
“Giấu thầy giấu mẹ em mang cho chàng”
Nguyễn Bính dùng hình ảnh trầu cau để thể hiện sự tiếc nuối và trách móc vì tình yêu không thành. Những hình ảnh như “lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng” chỉ sự phôi pha tình cảm. Lý do là “cách trở đò giang”, nhưng thực tế không phải xa xôi. Nhà mình cách nhà ta chỉ “một đầu đình”, nơi ngày xưa là nơi hẹn hò của trai gái:
“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen”
Vậy nên chàng trai băn khoăn: sao không thành đôi? Đối diện với nỗi “tương tư” không dứt, chàng hỏi:
“Biết cho ai hỏi ai người biết cho
Bao giờ bến mới gặp đò?”
Nguyễn Bính sử dụng hình ảnh quen thuộc từ thơ dân gian để thể hiện nỗi nhớ thương, sự phức tạp trong tình yêu. Thơ của ông không những kế thừa mà còn làm nổi bật nét đẹp của thơ ca dân gian, khẳng định phong cách riêng của mình trong nền văn học dân tộc.
3. Phân tích nét dân gian trong bài thơ 'Tương tư' - mẫu 6
Trong phong trào Thơ mới, mỗi nhà thơ mang đến một dấu ấn riêng biệt. Nếu Xuân Diệu được biết đến với phong cách 'Tây' và 'hiện đại,' thì Nguyễn Bính lại nổi bật với hình ảnh 'nhà quê'. Ông đã đánh thức vẻ đẹp của đời sống nông thôn trong thơ mình, như Hoài Thanh nhận xét, 'Nguyễn Bính đã khơi dậy tâm hồn quê trong mỗi chúng ta.' Những hình ảnh chân quê, tình quê, và không gian làng xóm đặc trưng cho phong cách thơ của Nguyễn Bính, và 'Tương tư' là một ví dụ tiêu biểu. Nguyễn Bính, một tên tuổi lớn trong thơ lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1932-1945, đã đưa thể thơ lục bát vào chiều sâu của cảm xúc dân gian. Thơ của ông, với sự hòa quyện giữa vẻ đẹp dân gian và tinh thần hiện đại, tạo ra một phong cách độc đáo, gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.
Nguyễn Bính, dù giữ hồn thơ 'chân quê,' vẫn là một nhà thơ mới, đã thành công trong việc hòa quyện cảnh vật, con người, và tình cảm quê hương vào thơ mình. Đọc thơ của ông, người ta như bước vào một không gian làng quê huyền ảo, nơi cảm nhận được những tâm tình sâu lắng của nhân vật. Tuy nhiên, nỗi tương tư của nhân vật trong thơ Nguyễn Bính không chỉ là những cảm xúc giản đơn mà còn phản ánh sự khao khát, nỗi buồn, và cả những trách móc. Đây là một phần của cái tôi thơ mới, đầy ắp khát vọng và cảm xúc mãnh liệt.
Thể thơ lục bát của Nguyễn Bính có nét đặc sắc riêng so với các thi sĩ khác trong phong trào Thơ mới. Trong khi lục bát của Huy Cận có phần cổ điển, lục bát của Nguyễn Bính lại mang đậm màu sắc dân gian. Ông viết lục bát với sự tự nhiên, dễ dàng như lời nói thường ngày, và các câu thơ của ông vừa hiện đại vừa lưu giữ hồn của ca dao truyền thống.
'Tương tư' diễn tả nỗi nhớ nhung trong tình yêu, không chỉ đơn thuần là sự nhớ thương mà còn chứa đựng những ước vọng, hờn giận, và trách móc. Nhân vật trong bài thơ, chàng trai thôn Đoài, nhớ cô gái thôn Đông, tạo nên một nỗi tương tư sâu sắc và chân thực. Tâm trạng của chàng trai được thể hiện qua những hình ảnh và cảm xúc phức tạp, từ sự mong đợi đến nỗi buồn mỏi mòn.
Chàng trai đợi chờ, mơ tưởng về một tương lai, và hình ảnh trầu-cau trong thơ không chỉ mang đậm chất dân gian mà còn phản ánh câu chuyện tình yêu chân thành. Bài thơ còn xây dựng một hệ thống các hình ảnh cặp đôi, làm nổi bật mối tương tư và khát vọng tình yêu, từ đó tạo nên một bức tranh tình cảm đầy sắc thái và ý nghĩa.
Khát vọng tình yêu trong 'Tương tư' đại diện cho cái tôi cá nhân trong thời kỳ thơ mới, mang đến vẻ đẹp của một bài thơ dân gian mới mẻ và cuốn hút. Nguyễn Bính đã làm cho lục bát trở nên quyến rũ và sâu lắng, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người yêu thơ.
4. Phân tích đặc trưng dân gian trong bài thơ 'Tương tư' - mẫu 1
Trong khi nhiều nhà thơ thời kỳ mới – như Hoài Thanh đã nhận xét – thường chịu ảnh hưởng từ các nhà thơ Pháp, Nguyễn Bính lại chọn con đường riêng, trở về với văn hóa dân gian qua những câu hát cửa đình, cây đa, bến nước, và các biểu tượng truyền thống khác. Ông đã trở thành người dẫn đầu trường phái 'thơ mới dân gian' cùng với các tác giả như Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân. Dù thơ Nguyễn Bính cũng mang tiếng hát tình yêu như nhiều nhà thơ mới khác, nhưng nó không dữ dội như trong thơ Xuân Diệu, hay bi thương như thơ Hàn Mặc Tử. Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính hiện lên chân thật, mộc mạc, phản ánh đời sống dân gian qua ca dao. Bài thơ 'Tương tư' là minh chứng rõ nét cho hồn thơ và giọng điệu của Nguyễn Bính trong thể loại thơ tình. Bài thơ kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống và hiện đại, mang cả sự mộc mạc dân gian và cái hồn của thơ mới.
Trong dòng thơ mới 1930-1945, 'Tương tư' của Nguyễn Bính thể hiện phong cách cổ điển dân dã qua cả thể thơ, thi liệu và đề tài. Nếu thơ Xuân Diệu có ảnh hưởng phương Tây, hay thơ Hàn Mặc Tử mang nét siêu thực, thì thơ Nguyễn Bính đậm chất ca dao với thể lục bát truyền thống. Ông sử dụng nhịp điệu đều đặn, hài hòa giống như trong ca dao với nhịp 2/2/2; 2/4 (câu lục) và 2/2/2/2; 4/4 (câu bát). Ví dụ:
'Thôn Đoài / ngồi nhớ / thôn Đông
Một người / chín nhớ / mười mong / một người'
Đề tài của bài thơ là nỗi nhớ, tình yêu của chàng trai dành cho cô gái, một chủ đề phổ biến trong ca dao.
Nhớ ai khổ sở thế nầy
Nhớ ai, ai nhớ, đêm ngày nhớ ai
Nhớ ai, ai có nhớ ai
Nhớ sao da diết, biết có ai nhớ mình
(Ca dao)
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt
(Ca dao)
Thơ lục bát của Nguyễn Bính tự nhiên, mượt mà, không bị gò bó nhưng cũng không rơi vào lối diễn ca. Theo thi sĩ Mộng Tuyết, Nguyễn Bính viết lục bát dễ dàng như viết văn xuôi. Đọc thơ của ông, ta như được thưởng thức những giai điệu êm dịu của ca dao:
Gió mưa là bệnh của trời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đỏ thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành;
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi.
Nguyễn Bính đã phát huy nhịp điệu trầm buồn, mượt mà của lục bát, tạo nên những dòng thơ lục bát rất đẹp, mang đậm phong cách 'chân quê'. Ngôn ngữ thơ của ông gần gũi và chân thành, không cầu kỳ như trong thơ ca dân gian. Ta cảm nhận được tiếng trách móc nhẹ nhàng từ một chàng trai với người mình yêu:
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Hay những lời kể chân chất:
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Bính gần gũi với ca dao nhờ vào hình ảnh, màu sắc và nhạc điệu phong phú. Ông thể hiện thế giới tình cảm trừu tượng qua những sự vật cụ thể, quen thuộc ở thôn quê. Các từ ngữ có nghĩa mờ ảo trong thơ ca dân gian hòa hợp tự nhiên vào 'Tương tư', làm tăng khả năng khái quát tâm trạng:
'Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai biết, ai người biết cho
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này'
Nguyễn Bính sử dụng các biện pháp tu từ của ca dao như ẩn dụ và so sánh. Ông làm phong phú ngôn ngữ thơ bằng cách sử dụng hình ảnh 'hoa – bướm' (hoa khuê các, bướm giang hồ), 'trầu – cau' (giàn giầu / hàng cau liên phòng), 'bến – đò' (Bao giờ bến mới gặp đò).
Nguyễn Bính cũng sử dụng lối đan chữ thường thấy trong ca dao, như 'chín nhớ mười mong' được hoán cải từ thành ngữ 'chín nhớ mười thương', để thể hiện nỗi lòng và sự xa cách trong tình yêu:
'Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người'
Lối đan chữ 'chín nhớ mười mong' làm tăng nỗi nhớ mong của chàng trai trong trạng thái 'tương tư'. Dù bài thơ vẫn giữ nét dân gian, nó không bị lấn át bởi tình điệu lãng mạn của thơ mới, thể hiện rõ qua nhịp điệu, hình ảnh và cảm xúc cá nhân. Nguyễn Bính đã làm mới lục bát bằng từ ngữ, hình ảnh và nhịp điệu, thấm đẫm tình cảm thơ mới, đồng thời thổi 'hồn quê' vào tác phẩm, tạo nên diện mạo riêng biệt so với ca dao và các tác phẩm khác trong phong trào Thơ mới.
Nét nổi bật của hồn quê trong lục bát Nguyễn Bính là sự kết hợp giữa yếu tố truyền thống và cái tâm tư của con người hiện đại. Bài thơ không chỉ kế thừa truyền thống mà còn mang những nét mới, tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính.
5. Phân tích chất dân gian trong bài thơ 'Tương tư' - phiên bản 2
Nguyễn Bính thuộc thế hệ các nhà Thơ mới. Trong khi nhiều thi sĩ cùng thời bị ảnh hưởng mạnh mẽ từ thơ phương Tây, Nguyễn Bính lại trở về với chất dân ca và điệu thơ dân tộc.
“Lỡ bước sang ngang” là tác phẩm nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bính trước cách mạng. Với lối ví von mộc mạc, đậm chất ca dao, tác phẩm mang đến hình ảnh thân thương của quê hương và tình cảm chân thành. Bài thơ “Tương tư” lần đầu xuất hiện trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang”, là một ví dụ tiêu biểu cho phong cách thơ của Nguyễn Bính và cho toàn bộ tập thơ này.
Tương tư, là cảm giác nhớ nhung giữa trai gái yêu nhau phải xa cách. Đây là chủ đề quen thuộc trong cả văn chương dân gian lẫn văn chương bác học. Trước Nguyễn Bính, đã có nhiều thi sĩ nổi tiếng như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ viết về đề tài này. Ngay cả trong phong trào “Thơ mới” cũng có bài thơ nổi tiếng “Tương tư chiều” của Xuân Diệu. Nguyễn Bính đã vượt qua những thử thách đó, mang đến một cách thể hiện mới mẻ cho đề tài này.
Nỗi niềm “Tương tư” của Nguyễn Bính thể hiện những sắc thái truyền thống của chuyện yêu nhau xa cách: từ nhớ nhung, trách móc, giận hờn đến khắc khoải đợi chờ. Mặc dù không mãnh liệt như trong thơ Xuân Diệu, bài thơ vẫn thể hiện sự chân thành và tha thiết:
“Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Ở đây, gió mưa được coi là “căn bệnh” của thiên nhiên, trong khi tương tư là căn bệnh của những người yêu. Nỗi nhớ nhung dù chỉ cách một đầu đình vẫn làm nhân vật trữ tình cảm thấy băn khoăn và hờn dỗi. Sự đau khổ của tình yêu đơn phương, như trong các bài thơ khác của Nguyễn Bính, thể hiện sự nhạy cảm và khao khát yêu thương của nhà thơ. Trong thế giới tình yêu không theo quy tắc, không ai trách Nguyễn Bính đã “tương tư” một cách vu vơ.
Điểm đặc biệt của bài thơ là cách Nguyễn Bính thể hiện nỗi lòng chờ mong một cách mới mẻ. Hình ảnh “tôi” trong bài thơ được diễn tả trực diện, không vòng vo:
“Gió mưa là bệnh của trời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Thêm vào đó, tác giả đã thành công khi đưa lời ăn tiếng nói của người dân quê vào bài thơ. Những lời này xuất hiện tự nhiên, tạo nên không khí dân dã, gần gũi:
“Hai thôn chung lại một làng,
Có sao bên ấy chẳng sang bên này?
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?”
Nguyễn Bính cùng các nhà Thơ mới đã mang lại một mùa quả ngọt từ việc sử dụng hình ảnh và lối thơ dân dã. Thơ của họ trở nên gần gũi, phát hiện những điều mới mẻ về con người và thiên nhiên, điều mà thi ca bác học chưa làm được. Bài thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính không chỉ thể hiện nỗi lòng thiết tha mà còn gợi lên “hồn xưa đất nước”, như nhận xét của Hoài Thanh. “Hồn xưa đất nước” không nằm ở chi tiết cụ thể mà toát ra từ toàn bộ bài thơ qua hình ảnh, lời ví von, và giọng điệu chung.
Ở một nước nông nghiệp, dù đã có sự thay đổi, nhưng kỷ niệm về làng quê Việt Nam truyền thống vẫn còn sống mãi trong tâm hồn người đọc. Bài thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính khơi gợi những cảm xúc sâu lắng về quê hương. Trong khi các nhà thơ cùng thời như Xuân Diệu hay Lưu Trọng Lư chịu ảnh hưởng từ thơ phương Tây, Nguyễn Bính thành công khi quay về với điệu thơ dân tộc và hình ảnh quen thuộc của quê hương Việt Nam.
Bài thơ “Tương tư” kết nối những hình ảnh đã trở thành ước lệ về làng quê Việt Nam. Nguyễn Bính sử dụng lối thơ lục bát truyền thống, các ví von mộc mạc như bến – đò, hoa - bướm, trầu – cau, thôn Đông – thôn Đoài, để đánh thức tình cảm của người đọc về một làng quê thân thiết và thiêng liêng. “Hồn xưa đất nước” còn biểu hiện qua lối suy nghĩ gắn với thiên nhiên và cây cỏ quê hương. Nhân vật trữ tình đo đếm thời gian qua sự thay đổi của thiên nhiên, điều này được thể hiện qua các câu thơ dân dã:
“Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”.
Thiên nhiên cũng là chuẩn mực để nhân vật nhớ nhung và suy tưởng: “Gió mưa là bệnh của trời – Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Các hình ảnh quen thuộc trong thơ dân gian như thuyền – bến, sen – hồ, mận – đào được Nguyễn Bính sử dụng để tạo hiệu quả nghệ thuật đặc sắc. Bài thơ “Tương tư” không chỉ thể hiện nỗi lòng đơn phương mà còn kết tinh nghệ thuật từ cách dùng hình ảnh và cách bộc lộ tình cảm một cách tinh tế, mang dấu ấn của ca dao thuần khiết.
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
Ngoài các thi sĩ khác như Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân đã miêu tả được những bức tranh quê tươi đẹp, Nguyễn Bính chính là người nắm bắt được cái hồn quê Việt Nam. Dù ngày nay phong cảnh và con người nông thôn đã thay đổi nhiều, bài thơ “Tương tư” vẫn là dấu tích tâm hồn dân tộc, làm phong phú thêm tâm hồn người đọc và là lý do nhiều người yêu thích thơ của Nguyễn Bính.
6. Bài văn phân tích đặc trưng của chất dân gian trong bài thơ 'Tương tư' - mẫu 3
Nguyễn Bính, khác với nhiều nhà thơ mới khác, không chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây mà luôn giữ trong thơ mình một nỗi niềm hoài cổ. Trong khi Xuân Diệu tiếp nhận tinh hoa của văn học phương Tây, Nguyễn Bính lại tìm về hương vị của ca dao và truyền thống dân tộc. Cái “tôi” của Nguyễn Bính luôn đầy cảm xúc bất an, gắn bó sâu sắc với những giá trị truyền thống đang dần mai một trước sự hiện đại hóa. Đặc biệt, ông đưa truyền thống vào trong sáng tác của mình, tiêu biểu là bài thơ 'Tương tư', mang đậm màu sắc dân tộc Việt Nam.
Bài thơ, trích từ tập 'Lỡ bước sang ngang', nói về tình yêu đôi lứa. Đây là lời bộc bạch nỗi lòng chân thành của một chàng trai thôn quê, nỗi nhớ trong tình yêu khi cách xa. Tâm trạng tương tư được thể hiện qua hình ảnh Thôn Đoài và Thôn Đông, biểu trưng cho vẻ đẹp bình dị của làng quê Việt Nam. Điều này thể hiện rõ trong câu thơ 'Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông', nơi tình yêu không diễn ra trên phố xá phồn hoa mà là ở những cảnh vật mộc mạc của làng quê.
Nguyễn Bính đã khéo léo sử dụng hình ảnh của làng quê và ca dao để diễn tả nỗi nhớ, sự tương tư, như khi ông so sánh nỗi tương tư với 'bệnh của trời'. Những câu thơ như 'Hai thôn chung lại một làng' nhấn mạnh sự gần gũi nhưng lại khó khăn trong việc gặp gỡ, thể hiện sự đau khổ và nỗi nhớ nhung của người yêu. Các hình ảnh như chiếc bến, chiếc đò và cây cau, giàn giầu đều mang đậm màu sắc dân tộc, phản ánh nỗi khắc khoải trong tình yêu và mong muốn được gần gũi. Cuối cùng, thơ Nguyễn Bính không chỉ chứa đựng nội dung phong phú mà còn mang đậm hồn dân tộc qua thể thơ lục bát truyền thống, góp phần tạo nên phong cách nghệ thuật đặc sắc của ông.