1. Bài Văn Cảm Nhận Về Anh Bộ Đội Cụ Hồ Số 4
Người Việt Nam luôn tự hào về truyền thống đạo đức, xây dựng trên nền tảng tư tưởng nhân nghĩa. Trong suốt hàng ngàn năm qua, nhân dân ta vẫn luôn nhắc nhở nhau về đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”. Chính vì vậy, vào chủ nhật tuần trước, phường của chúng tôi tổ chức thăm các gia đình thương binh, liệt sĩ trong khu vực. Tổ của chúng tôi được phân công đến thăm bà Phan, mẹ của một liệt sĩ, và gia đình chú Hiển, một thương binh nặng mất cả hai chân trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn năm 1975. Bà Phan sống ở một con ngõ nhỏ trên đường Phan Châu Trinh. Bà là mẹ của liệt sĩ Trương Tấn Quang, người đã hy sinh anh dũng trong chiến dịch biên giới Tây Nam. Trước đây, bà cũng là một cơ sở cách mạng nội thành và đã từng bị địch bắt giam, tra tấn dã man. Hiện tại, bà sống dựa vào tiêu chuẩn gia đình liệt sĩ và sự hỗ trợ của cộng đồng. Cách đây hơn hai năm, phòng GD đã trao tặng bà một ngôi nhà tình nghĩa thay cho ngôi nhà cũ đã xuống cấp. Khi chúng tôi đến, bà rất vui mừng: “Các cháu đến thăm bà đây à?”. Khuôn mặt bà sáng lên với nụ cười hiền hậu. Bác Thành đại diện tổ thăm sức khỏe của bà. Chú Hoàng cắm một bó hoa tươi vào bình và đặt lên bàn thờ. Mùi nhang trầm lan tỏa ấm áp cả gian phòng. Trong ảnh, ánh mắt hiền hậu của chú Quan dõi theo mọi người. Chúng tôi tặng bà một số món quà nhỏ nhưng thiết thực như đường, sữa, trứng gà, cam và ít thuốc bổ. Bà xúc động cảm ơn chúng tôi. Tôi thầm nghĩ: “Không gì có thể đền đáp xứng đáng công lao của những người mẹ đã hy sinh đứa con của mình cho Tổ Quốc.” Sau đó, chúng tôi tiếp tục thăm chú Hiển. Chú ngồi trên xe lăn, tươi cười chào đón chúng tôi. Dù là thương binh nặng, chú vẫn rất lạc quan và là tấm gương sáng về nghị lực. Theo lời dạy của Bác: “Thương binh tàn nhưng không phế!”, chú Hiển vẫn cần cù làm việc với đôi tay khéo léo, tạo ra những sản phẩm từ mây để làm đẹp cho đời.
Chia tay chú Hiển, tôi cảm thấy cần phải biết ơn những người đã tạo nên thành quả hôm nay. Thế hệ sau phải ghi nhớ công ơn của thế hệ trước. Trên khắp đất nước, các đền, miếu, chùa thờ các bậc tiền bối và anh hùng có công dựng nước và giữ nước. Các bảo tàng lịch sử, bảo tàng cách mạng và phòng truyền thống nhắc nhở về lịch sử oai hùng của dân tộc. Các nghĩa trang liệt sĩ được xây dựng khang trang thể hiện lòng biết ơn của thế hệ sau với những người đã hy sinh vì Tổ Quốc. Phong trào “Phụng dưỡng các bà mẹ Việt Nam anh hùng” và việc đền ơn đáp nghĩa cho các gia đình, cá nhân có công với nước đang phát triển rộng rãi trong xã hội.
Các thế hệ sau không chỉ hưởng thụ mà còn phải biết gìn giữ và phát triển những thành quả mà các thế hệ trước đã tạo dựng. Buổi thăm các gia đình thương binh, liệt sĩ đã kết thúc tốt đẹp. Đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” nhắc nhở chúng ta sống có nghĩa có tình đối với những người đã mang lại cuộc sống bình yên cho chúng ta. Tôi càng hiểu sâu sắc hơn về lòng biết ơn – nền tảng đạo đức và truyền thống của dân tộc.
2. Bài Văn Cảm Nhận Về Anh Bộ Đội Cụ Hồ Số 5
Nhớ lại thời thơ ấu, khi tôi còn theo mẹ khắp nơi, mặc dù hát không rõ lời và nói chưa rõ tiếng, tôi đã rất thích câu hát: ‘Em thích làm chú bộ đội, bước một bước hai, vai chú mang súng...’. Trong tâm trí non nớt của tôi, hình ảnh chú bộ đội hiện lên thật oai phong và đầy tự hào.
Khi trưởng thành, mặc dù đất nước đã hòa bình, hình ảnh chú bộ đội vẫn luôn sống mãi trong tâm trí tôi qua những bài thơ và bài hát. Học lịch sử và tìm hiểu văn học, tôi càng hiểu rõ hơn về anh bộ đội. Sau hơn ba mươi năm kháng chiến, mỗi ngọn núi, mỗi dòng sông, mỗi con phố đều chứng kiến những chiến công của anh bộ đội cụ Hồ. Từ khắp mọi miền, các anh hùng đã hy sinh, máu các anh đã nhuộm đỏ sông núi. Đặc biệt, hình ảnh anh Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai và anh Tô Vĩnh Diện lấy thân làm giá súng thể hiện tinh thần quả cảm và hi sinh cao cả vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Những hình ảnh ấy được thể hiện qua những bài thơ xúc động:
Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng anh dài trên đỉnh dốc cheo leo..
Thời gian trôi qua, hình ảnh chú bộ đội vẫn luôn đẹp đẽ và hào hùng, mang đậm phẩm chất người lính Cách Mạng. Trong thời chiến, các anh ra đi với biết rằng có thể không trở về, nhưng việc hy sinh vì độc lập của dân tộc là một vinh dự lớn. Các anh yêu nước, dũng cảm, sẵn sàng đối mặt với cái chết. Dù đất nước còn nghèo, các chú bộ đội tập luyện vất vả nhưng khi có lệnh là sẵn sàng lên đường. Họ chiến đấu quả cảm, đoàn kết và sẵn sàng thực hiện mọi nhiệm vụ khi đất nước cần. Tôi nhớ mẹ kể rằng, năm 1972, khi Mỹ quay lại bắn phá, anh Bính ở xã tôi mới 16 tuổi đã gác lại việc học, viết đơn xin nhập ngũ. Anh ra đi với niềm tự hào, nhưng mãi mãi không trở về, nằm lại bên đất bạn Lào, để lại niềm kiêu hãnh cho dân tộc. Hình ảnh người lính luôn đáng kính trọng, vì họ quên mình vì đất nước.
Giờ đây, là một giáo viên, tôi luôn cố gắng truyền cảm hứng cho học sinh, nhắc nhở các em trân trọng những gì các anh đã cống hiến. Để đáp lại công lao to lớn đó, nhiệm vụ của cô trò là học tốt, dạy tốt và lớp trẻ cần năng động hơn nữa để đóng góp cho đất nước, vươn lên ngang tầm quốc tế.
3. Bài Văn Cảm Nhận Về Anh Bộ Đội Cụ Hồ Số 6
Người lính can trường nơi đảo xa
Không sợ sóng gió bão bùng
Cây súng vững chãi bên mình
Cùng biển cả làm bạn đồng hành
Với lòng dũng cảm kiên cường
Bão tố không làm chùn bước...
Giống như bao chiến sĩ khác của Quân đội nhân dân Việt Nam, các chiến sĩ hải quân luôn tâm niệm lời thề: “trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, hoàn thành mọi nhiệm vụ, vượt qua mọi khó khăn, đánh bại mọi kẻ thù”… Họ là những người bảo vệ biển và đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Ý thức rõ trách nhiệm nặng nề mà Tổ quốc và nhân dân giao phó, mỗi chiến sĩ hải quân luôn giữ vững tinh thần, giữ vững tay súng để bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc!
Ngày đêm các anh canh giữ biển trời Việt Nam. Mỗi người dân đều ý thức biển đảo là phần lãnh thổ thiêng liêng, quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ rất sớm đã chỉ ra tiềm năng của biển Việt Nam và đặc biệt quan tâm đến việc bảo vệ chủ quyền biển đảo. Ngày 10/4/1956, tại Hội nghị cán bộ cải cách miền biển, Hồ Chí Minh đã nói: “Đồng bằng là nhà, biển là cửa. Giữ nhà mà không giữ cửa được không? Kẻ thù sẽ vào qua cửa trước. Do đó, phải giáo dục nhân dân bảo vệ bờ biển…”. Chủ tịch còn nhấn mạnh tầm quan trọng của lực lượng hải quân: “Là chiến sĩ hải quân, các chú phải yêu quý đảo như nhà mình, xây dựng nơi đó thành những mảnh đất vừa giàu có, vừa đẹp, vừa có lợi cho mình và cho đất nước”.
Tình yêu Tổ quốc đồng nghĩa với trách nhiệm công dân. Chúng ta là con cháu của những người đã khai phá đất nước, trong đó có biển đảo mà ông cha ta đã gìn giữ. Những chiến sĩ hải quân là những anh hùng, vì họ thừa hưởng truyền thống yêu nước và tinh thần đấu tranh kiên cường của tổ tiên. Để bảo vệ chủ quyền, họ đã hy sinh rất nhiều. Nhiều chiến sĩ đã ngã xuống giữa biển khơi, xa gia đình và người thân, để lại nỗi nhớ vô hạn. Nhưng nỗi nhớ ấy không thể so sánh với niềm tự hào của gia đình về những người con đang thực hiện nhiệm vụ cao cả của Tổ quốc. Họ luôn tự hào về việc đã đóng góp cho quê hương, mặc dù biết có nhiều khó khăn và gian khổ.
Chúng tôi cảm động trước sự hy sinh thầm lặng của các chiến sĩ hải quân, những người đã cho chúng tôi cuộc sống bình yên. Khi mọi người đều lo toan cho danh lợi, ít ai nghĩ đến những chiến sĩ đang âm thầm bảo vệ biển đảo. Từ những ngày thơ bé, tôi đã yêu thích màu áo hải quân, không phải màu xanh rêu bộ đội, mà là màu trắng tinh khôi, điểm thêm sọc xanh dương như sóng biển.
Chắc chắn không có nghề nào gian khổ hơn việc bảo vệ Tổ quốc. Tôi thắc mắc vì sao các anh chọn làm lính đảo, có phải vì lòng yêu nước thiết tha? Để cho chúng tôi có cuộc sống hòa bình, nhiều người đã hi sinh quyền lợi cá nhân vì lý tưởng cao cả. Khoảng cách hàng trăm hải lý với đất liền không hề gần. Bạn đã từng nghĩ đến việc rời xa gia đình để gắn bó với biển đảo chưa? Ngày anh lên đường là ngày anh chấp nhận bỏ lại gia đình và tương lai để đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, của lòng yêu nước:
“Xưa cha ông giong buồm ra giữ đảo
Định hướng thuyền đi bằng vệt sao trời
Nay hiên ngang giữa vùng giông bão
Anh chọn quê hương là chốn biển khơi!”
(PGS.TS Phạm Xuân Hằng)
Cuộc sống ngoài khơi xa đầy khó khăn, thiếu thốn từ miếng ăn, giấc ngủ đến áo quần; thiếu hơi ấm gia đình, các dịp lễ, thiếu tiếng cười vui. Chỉ có sự sẻ chia đồng chí giữa tiếng sóng vỗ, chỉ có những bài hát đồng đội xua tan lạnh giá và nỗi cô đơn; chỉ có những lá thư, món quà từ đất liền làm ấm lòng. Các anh luôn giữ vững tinh thần và tình yêu quê hương, mặc dù xa gia đình và nhiều khó khăn.
Thương lắm các chiến sĩ hải quân! Ở đảo xa, làm sao không thấy lòng mình xao xuyến khi nghĩ về mẹ già, người yêu, và những buổi thăm hỏi? Danh từ thiêng liêng “chiến sĩ hải quân” gợi lên sự xa xôi và thời gian dài. Buồn và nhớ lắm! Nhưng các anh vẫn kiên cường, giữ vững trái tim yêu nước và nòng súng bảo vệ quê hương. Hi sinh vì quê hương và chủ quyền lãnh thổ là điều cao cả không thể tiếc nuối.
“Giữa Đại Dương anh trở thành bất tử.
Giữa Nhân Dân anh mãi mãi trường sinh
Máu anh đổ, đảo ngàn năm vững chãi.
Nước biển quê mình giờ mặn gấp đôi…”
(PGS.TS Phạm Xuân Hằng)
Người chiến sĩ hải quân, tên gọi thân thương, đã dạy tôi nhiều điều. Dù tôi còn trẻ, anh dám hy sinh vì đất nước. Cha mẹ anh chắc hẳn tự hào về anh, người mang trong mình lý tưởng cao cả. Xin cảm ơn lòng dũng cảm của các chiến sĩ hải quân! Hình ảnh đẹp của các anh đã in sâu trong tâm hồn lớp trẻ, khiến chúng tôi ngưỡng mộ và yêu quý.
Những ngày này, thông tin về biển Đông tràn ngập báo chí, hàng triệu trái tim hướng về biển Đông. Từng phút, từng giờ, mọi nơi trên dải đất hình chữ S đều sôi nổi hoạt động hướng về Hoàng Sa, Trường Sa, càng làm chúng tôi cảm kích sự hy sinh thầm lặng của các anh. Các anh chống chọi với thời tiết khắc nghiệt, nắm vững tay súng, chống lại âm mưu thù địch để bảo vệ biển đảo. Mong các anh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, bảo vệ phần đất thiêng liêng của Tổ quốc và trở thành cầu nối giữa đất liền và biển đảo yêu thương!
Bạn có biết không, tôi rất mong một ngày được thăm biển, đứng trên boong tàu đến đảo xa cùng các anh. Tôi sẽ ôm hòn đảo quê hương, đứng trên đảo Song Tử và hét to: “Tôi yêu Việt Nam!”, tôi sẽ ngắm bình minh, đi tuần cùng các anh hải quân và thả vòng hoa tưởng niệm tại đảo Gạc Ma với lòng yêu thương và kính trọng của mình…
Tôi tin rằng một ngày các anh sẽ trở về quê hương, với vòng tay ấm đang mong đợi. Cầu chúc gia đình anh sức khỏe để đợi ngày anh trở về. Ở xa, tôi hy vọng các anh luôn ấm áp bên đồng đội, giữ lòng nhiệt thành và sự sẻ chia từ những người hướng về biển đảo và những tấm lòng từ đất liền. Chúng tôi, những người sống và chiến đấu ở đất liền, hứa sẽ cống hiến hết mình để cùng các anh xây dựng quê hương đất nước ngày càng phát triển, văn minh hơn.
Chúc các anh sức khỏe, niềm tin vững chắc, ý chí kiên cường và hoàn thành mọi nhiệm vụ. Gửi đến anh những lời chúc tốt đẹp và yêu thương nhất, hỡi người chiến sĩ vĩ đại!
4. Bài viết về cảm nhận anh bộ đội cụ Hồ số 7
“Ai vượt biên cương để lòng ta cùng đồng hành
Thăm ngàn lau trắng, chỉ mình ta đơn độc
Trải dài lau trắng tận cùng bờ cõi
Suốt đời theo gió bão, bền bỉ chinh chiến.”
Biên giới và hải đảo, những vùng đất thiêng liêng của tổ quốc, nơi mảnh đất địa đầu của dân tộc Việt Nam. Hàng bao mồ hôi, công sức của các chiến sĩ đã đổ xuống để gìn giữ vững bờ cõi non sông. Sự hi sinh cao cả của họ đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong những tác phẩm vượt thời gian. Hình ảnh người lính biên phòng trong lòng mỗi người dân Việt Nam hiện lên thật rực rỡ và tráng lệ.
Dù trải qua bao thử thách, lực lượng biên phòng ngày càng được củng cố và phát triển nhưng hình ảnh người lính biên phòng quân hàm xanh vẫn luôn gần gũi và đẹp đẽ trong mắt nhân dân miền biên giới hải đảo. Dấu chân của họ in sâu trong từng tấc đất, con sông, và con rừng; họ gắn bó mật thiết với đời sống của nhân dân.
Chúng ta thấy hình ảnh người lính chèo đèo, vượt thác, bất chấp mưa gió, tận tụy đến lớp, mang ánh sáng tri thức đến cho các em nhỏ. Những người lính quân hàm xanh mang balo đầy sách vở, nhiệt tình lên non để đem văn hóa và tri thức đến với các bản làng. Học trò ở đây đã quen thuộc với hình ảnh người chiến sĩ trong bộ quân phục xanh đứng trên bục giảng, dạy dỗ: “Học chữ Bác Hồ để ngày mai cuộc sống sáng tươi, bản làng vui tươi”. Các chiến sĩ biên phòng đã mang tri thức, văn hóa tiên tiến xua tan hủ tục lạc hậu nơi núi rừng. Họ trở thành những người thầy quý mến của cộng đồng dân cư.
Không chỉ vậy, các chiến sĩ biên phòng còn là những bác sĩ tận tụy chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Dù cuộc sống có bao vất vả, thiếu thốn, họ vẫn lặng lẽ chữa trị và cứu giúp bà con. Hình ảnh chiến sĩ Đặng Cát, với 20 năm gắn bó cùng bà con chống dịch bệnh, khám bệnh và tìm thuốc, khiến lòng ta cảm động.
Câu nói “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào là anh em ruột thịt” đã trở thành lời thề vững chắc, phản ánh tinh thần của lực lượng bộ đội biên phòng. Các chiến sĩ triển khai nhiều chương trình ý nghĩa như: “Chương trình bò giống cho người nghèo”, “Mái ấm biên cương”, “Nâng bước em tới trường”. Họ không ngừng lao động, cùng dân áp dụng kỹ thuật hiện đại vào sản xuất, sống và làm việc cùng dân, coi nhân dân như anh chị em ruột thịt. Một số chiến sĩ còn dùng lương ít ỏi của mình đóng góp xây dựng buôn làng, xóa đói giảm nghèo và củng cố niềm tin vào Đảng và Nhà nước.
Những đêm lửa trại, bữa cơm giản dị, tết ấm cúng và những cái ôm thân mật thể hiện tình cảm quý báu mà người dân dành cho các chiến sĩ biên phòng. Các anh luôn hòa đồng và thân thiện, nhưng khi trở lại nhiệm vụ, họ là những người lính kiên cường, đứng vững giữa bão tố để bảo vệ bình yên cho mọi nhà. Họ chiến đấu anh dũng để bảo vệ từng tấc đất của tổ quốc. Các chiến sĩ đã bỏ lại quê hương, gia đình để đến biên giới và hải đảo, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng là lực lượng nòng cốt của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Hơn 60 năm hình thành và phát triển, bộ đội biên phòng đã và đang nỗ lực cống hiến, bảo vệ và xây dựng vùng biên cương, hải đảo. Họ đã viết tiếp những trang sử hào hùng tôn vinh hình ảnh “anh bộ đội cụ Hồ”. Những bước chân của họ tạo nên niềm vui và những hình ảnh đẹp sẽ mãi sáng ngời trong trái tim dân tộc Việt Nam. Xin mượn vài dòng thơ để bày tỏ lòng kính yêu vô hạn:
“Biển và biên cương – vòng tay rộng mở
Như quê hương luôn khát vọng bình yên
Người lính Biên phòng thức dậy mỗi sớm mai
Giữ trọn niềm vui nghĩa tình của non nước”
5. Bài viết về cảm nhận anh bộ đội cụ Hồ số 1
Chúng ta thường gọi các anh với một tên gọi đầy sự tin cậy và tự hào: Anh bộ đội! Nếu bạn muốn tìm kiếm những tấm gương mẫu mực, ước mơ, bản lĩnh hành động và tình yêu cao đẹp, hãy đến với các anh!
Những chiến sĩ mang trong mình tinh thần của người Cần Giuộc, hào khí của dân tộc chiến đấu vì độc lập và hạnh phúc của nhân dân. Họ đã tham gia tổng khởi nghĩa cùng dân tộc, góp phần khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa!
Giai đoạn đầu của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đầy rẫy khó khăn: kẻ thù từ trong lẫn ngoài, tài sản cạn kiệt, nhân dân đói khổ,… Với tài năng của Hồ Chí Minh, sức mạnh của quân đội và ý chí toàn dân tộc, đất nước đã được giữ vững!
Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thực dân Pháp xâm lược, quân đội ấy chiến đấu với tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” để bảo vệ thủ đô Hà Nội yêu quý. Đáp lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, họ rời Hà Nội lên chiến khu Việt Bắc. Các anh chính là “Anh vệ quốc quân”! Tất cả đều nghe theo tiếng gọi của tổ quốc với một ý chí:
“Người ra đi không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
Các anh, những người từ những vùng quê “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”, từ “giếng nước gốc đa”… từ khắp các miền tổ quốc đã cùng “súng bên súng, đầu sát bên đầu” chia sẻ gian khổ và hy sinh… trở thành đồng chí! Các anh cùng chung hoàn cảnh khó khăn, nhiệm vụ, lý tưởng, với niềm lạc quan trong gian khó “Miệng cười buốt giá”… Tất cả đã thành đồng đội và cùng nhau giành chiến thắng trong các chiến dịch như Việt Bắc thu đông 1947 và chiến dịch biên giới 1951…
“Anh bộ đội Cụ Hồ” là tên gọi trìu mến mà nhân dân dành cho các chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam. Từ “anh” trong tiếng Việt không chỉ thể hiện sự thân thiết mà còn mang ý nghĩa sâu sắc. “Anh bộ đội Cụ Hồ” thể hiện phẩm chất của người chiến sĩ trong thời đại mới, vừa anh hùng, giản dị, chân thật và đáng yêu. Chúng ta tin tưởng vào các anh vì họ mang trong mình bản lĩnh, cốt cách, niềm tin và là hiện thân của sức mạnh.
6. Bài viết cảm nhận về hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ số 2
Trải qua 70 năm lịch sử đấu tranh và trưởng thành của quân đội nhân dân Việt Nam, từ những năm tháng chiến tranh, những mất mát và hy sinh đã ghi dấu vô vàn câu chuyện anh hùng về người lính, trở thành bất tử trong ký ức dân tộc. Nhớ lại hai cuộc kháng chiến vĩ đại, hơn ba mươi năm chiến đấu không thể quên trong tâm trí mỗi người con đất Việt: hố bom do quân thù để lại, hàng triệu thanh niên lên đường ra trận, dâng hiến tuổi trẻ và nhiệt huyết cho hòa bình. Có người trở về, nhưng phần xương máu vẫn còn lưu lại chiến trường, có người nằm lại giữa rừng xanh. Trên từng nẻo đường hành quân, mọi địa danh từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau đều trở thành chứng tích chiến thắng. Anh bộ đội Cụ Hồ đã trở về từ chiến tranh, an nghỉ giữa lòng đất Mẹ, và trong thời bình, hình ảnh của anh vẫn sống mãi qua các thế hệ, nối tiếp lịch sử anh hùng của người lính. Mỗi khi nghĩ về người lính, chúng ta đều tràn đầy lòng tự hào và biết ơn vì sự hy sinh cao cả của họ, những người chịu đựng gian khổ và hy sinh nhiều nhất, không chỉ cho riêng mình mà còn cho những người mẹ, người vợ, và gia đình.
Phẩm chất của anh bộ đội Cụ Hồ vẫn mãi sáng ngời từ trong chiến tranh đến thời bình. Được tôi luyện qua giáo dục của Đảng và Bác Hồ, của Quân đội và nhân dân, “Trung với Đảng, hiếu với dân” mãi là lời thề của người lính. Những hình ảnh cao đẹp của bộ đội Cụ Hồ không thể kể hết: từ biên giới phía Bắc, phía Nam, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, đến công tác cứu trợ thiên tai, xóa đói giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới. Phẩm chất vì nhân dân quên mình đã trở thành bản chất của các anh. Hai tiếng nhân dân đã trở thành mệnh lệnh trong trái tim bộ đội Cụ Hồ. Vậy nên, trong cả thời chiến và thời bình, nhiệm vụ cứu dân trong thiên tai và bảo vệ từng tấc đất biên cương đều gắn liền với sự hy sinh quả cảm của người lính.
Bộ đội Cụ Hồ đã trở thành một tên gọi thiêng liêng, vừa giản dị vừa gần gũi, là biểu tượng cao đẹp trong lòng nhân dân Việt Nam về mẫu hình người mới xã hội chủ nghĩa, nhân cách văn hóa Việt Nam. Nhà văn Mỹ Lady Borton khi đến Việt Nam đã nói: “Tôi đã đến nhiều nước trên thế giới, nhưng không nơi nào người dân lại yêu mến gọi lãnh tụ của mình là Bác, không quân đội nào được yêu mến gọi Tổng Tư lệnh bằng Anh (Đại tướng Võ Nguyên Giáp), và cũng không nơi nào nhân dân yêu mến quân đội gọi là Bộ đội Cụ Hồ”. Có thể nói “Bộ đội Cụ Hồ” là giá trị văn hóa độc đáo trong nền văn hóa Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, với sức lôi cuốn và lan tỏa đặc biệt. Mỗi khi khoác trên mình bộ quân phục, dù ở đâu, các anh vẫn thể hiện phẩm chất của người quân nhân cách mạng.
Như bao người thuộc thế hệ trẻ, tôi may mắn được sinh ra và trưởng thành trong hòa bình, được tận hưởng bầu không khí hòa bình, tự do ngước nhìn trời xanh và thấm thía giá trị vĩnh hằng của những hy sinh cao cả. Tôi tự hào là người dân Việt Nam, tự hào vì sinh ra trên mảnh đất Đỏ - Yên Phúc anh hùng. Hơn nữa, tôi may mắn được lớn lên, học tập và rèn luyện trong hòa bình, trở thành thầy giáo dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, ngày đêm cống hiến cho sự nghiệp giáo dục.
Đã qua thời khói bom lửa đạn, tôi chỉ hình dung hai chữ “chiến tranh” qua lời kể của bà nội về ông nội và các anh, qua sách báo, phim ảnh, và những chuyến tham quan các địa danh lịch sử. Những ấn tượng sâu đậm nhất trong tôi là các chuyến tham quan nghĩa trang liệt sĩ như Trường Sơn, Thành cổ Quảng Trị, Ngã Ba Đồng Lộc, Truông Bồn, hay Nghĩa Trang Việt Lào huyện Anh Sơn... Một kỷ niệm không thể quên là ngày 7 tháng 7 năm 1995, khi xã Phúc Sơn tổ chức khánh thành nhà bia tưởng niệm các liệt sĩ của hai cuộc kháng chiến. Những giọt nước mắt của người dân hòa trong mưa bất chợt, thể hiện lòng thương nhớ khôn nguôi của những người sống đối với các liệt sĩ. Có nhiều mẹ đã hy sinh hai hoặc ba người con cho Tổ quốc, không bao giờ trở lại thăm mái tranh nghèo. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và chiến tranh biên giới, xã tôi đã ghi danh 189 liệt sĩ vào bảng vàng đài tưởng niệm. Các anh đã đi vào hồn thiêng sông núi để Tổ quốc Việt Nam bay lên bát ngát mùa xuân.
Hôm nay, trang sử mới của dân tộc đã mở ra, trang của sự đổi mới, phát triển và hội nhập. Trong bối cảnh quốc tế hóa và toàn cầu hóa, hình ảnh anh “Bộ đội Cụ Hồ” vẫn giữ vững vai trò tiên phong trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới. Các chiến sĩ Bộ đội Cụ Hồ hôm nay, khoác trên mình màu xanh áo lính, hứng khởi bước vào các mặt trận với lòng nhiệt huyết và sức bật mới. Họ tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đất nước hòa bình, nhưng các anh vẫn “ra trận” vì cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân. Hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ “cõng chữ” lên vùng cao, “ba cùng” với đồng bào các dân tộc, giúp dân trồng lúa nước, đưa đồng bào vào làm việc ở các nông trường quân đội... là những hình ảnh giản dị nhưng vô cùng cao đẹp về tình quân dân.
Trong xu thế phát triển hiện nay, mối quan hệ giữa Việt Nam và thế giới diễn biến phức tạp. Tình hình biển Đông căng thẳng khi Trung Quốc di chuyển giàn khoan HD-981 vào thềm lục địa Việt Nam ngày 1 tháng 5 năm 2014, vi phạm chủ quyền và Công ước Quốc tế về Luật Biển 1982. Việt Nam đã nhiều lần yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và lực lượng ra khỏi vùng biển của Việt Nam, gửi công hàm đến Liên Hợp Quốc và tổ chức họp báo quốc tế. Các lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, đã kiên quyết phản đối Trung Quốc và tìm mọi biện pháp hòa bình để giải quyết căng thẳng, tôn trọng quan hệ Việt-Trung và lợi ích lâu dài của hai dân tộc.
Trong những ngày đó, thông tin về biển Đông đã khiến trái tim người Việt nhói đau, lòng yêu nước sục sôi. Thầy trò trường tôi – trường Tiểu học Thành Sơn cũng vậy. Chúng tôi đã cùng nhau thảo luận về chủ quyền biển đảo, đọc lại những tuyên ngôn lịch sử và hát các bài ca về biển đảo, phê phán hành động gây mất an ninh của một số thành phần bị kích động. Các em và cả giáo viên đều hiểu yêu nước đúng cách, phải yêu bằng “trái tim nóng và cái đầu lạnh”, với lòng nhiệt huyết và trí tuệ tỉnh táo, tránh bị kích động. Thầy trò chúng tôi đã tích cực tham gia cuộc thi tìm hiểu chủ quyền biển đảo trên mạng và góp quỹ ủng hộ Trường Sa – Hoàng Sa.
Là một giáo viên, tôi thấy cần nâng cao trình độ và tự ý thức về việc tự tu dưỡng, học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất và hiệu quả công tác. Phải rèn luyện ý chí phấn đấu bền bỉ, giữ gìn danh dự cá nhân, chống lại tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, và phát triển văn hóa dân tộc phù hợp. Tôi hiểu trọng trách của mình trong việc giáo dục các em về lịch sử và giá trị văn hóa, trong bối cảnh đổi mới giáo dục theo Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII. Để làm được điều đó, chúng tôi cần nâng cao năng lực giảng dạy, truyền ngọn lửa nhiệt huyết cho các em, để thế hệ trẻ thấy rõ sứ mệnh của mình trong sự phát triển bền vững của dân tộc và đất nước Việt Nam hùng cường như Bác Hồ hằng mong ước.
7. Bài viết cảm nhận về anh bộ đội cụ Hồ số 3
Những ngày thơ bé, tôi còn nhớ như in hình ảnh mình theo mẹ đến trường mẫu giáo, hát nghêu ngao những bài hát về chú bộ đội: “Em thích làm chú bộ đội, bước một hai, chân bước một hai, một hai…” hay “Vai chú mang súng mũ cài ngôi sao đẹp xinh, đi trong hàng ngũ chú hành quân trông thật nhanh, chú bộ đội, chúng cháu yêu chú lắm…”. Trong tâm trí trẻ thơ của tôi, hình ảnh chú bộ đội hiện lên vừa oai phong vừa đáng yêu. Dù thời gian trôi qua, hình ảnh đó vẫn khắc sâu trong tôi qua những bài thơ và bài hát mà cô giáo đã dạy.
Đến khi vào cấp 2 và cấp 3, học lịch sử và phân tích văn học, tôi mới hiểu sâu hơn về hình ảnh “anh bộ đội Cụ Hồ”. Tôi nhận ra rằng, trong suốt hơn 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, từ núi non, sông ngòi đến từng con phố, làng mạc của Việt Nam đều ánh lên chiến công và hy sinh của những người lính. Những chiến công vẻ vang và sự hy sinh cao cả của các thế hệ chiến sĩ quân đội nhân dân đã góp phần vào công cuộc cứu nước, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Những tấm gương anh dũng như Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện... đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng tôi.
Tôi cũng rất ấn tượng với những câu thơ tôn vinh vẻ đẹp của anh bộ đội cụ Hồ:
“Hình ảnh anh thật đẹp dưới nắng chiều,
bóng dài trên đỉnh núi cheo leo,
núi không thể đè nổi vai vươn tới,
lá ngụy trang hòa cùng gió đèo.”
“Những chiến sĩ biên phòng
Đứng hiên ngang dưới bầu trời cao biên giới
Chân đạp mây bay, tóc vờn gió núi…”
Hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ ngày càng hiện lên rõ nét trong tâm trí tôi, khiến tôi càng trân trọng vai trò và phẩm chất của người lính Cách mạng. Khi trưởng thành, làm dâu trong một gia đình truyền thống cách mạng, tôi càng hiểu hơn về các chiến sĩ Cụ Hồ. Bố chồng tôi là một chiến sĩ dũng cảm, từng tham gia hai cuộc kháng chiến và được vinh danh với huân chương kháng chiến. Mẹ chồng tôi cũng tích cực tham gia kháng chiến và được tặng thưởng huân huy chương chống Pháp và chống Mĩ. Hòa bình lập lại, bố mẹ tiếp tục công tác và giữ vững phẩm chất người lính Cụ Hồ. Họ đã truyền cảm hứng và phẩm chất cách mạng cho các thế hệ sau.
Gia đình chồng tôi cũng nối tiếp truyền thống, với ba anh em đều trở thành lính Cụ Hồ. Anh Hoàng Ngọc Chí, người tôi kính trọng nhất, đã gia nhập quân đội từ khi mới 16 tuổi trong cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979. Dù còn trẻ, anh đã dũng cảm viết đơn xin nhập ngũ bằng máu và hoàn thành nhiệm vụ với tinh thần quả cảm. Anh luôn hoàn thành tốt công việc, được khen ngợi và giữ các chức vụ chỉ huy. Hiện nay, anh làm chỉ huy một Trung đoàn ở Thái Nguyên và gia đình anh cũng đồng lòng trong công việc. Mỗi khi về quê, anh chăm sóc gia đình và kể cho tôi những câu chuyện xúc động từ chiến trường, giúp tôi cảm nhận sâu sắc hơn về sự hy sinh và cam go của người lính.
Những câu chuyện của anh đã trở thành nguồn cảm hứng cho tôi trong việc giảng dạy, nhắc nhở tôi về trách nhiệm đối với quê hương và đất nước. Tôi phải làm tốt hơn nữa nhiệm vụ dạy học, giáo dục học sinh trân trọng cuộc sống hiện tại và biết ơn những hy sinh của cha ông. Qua đó, tôi mong muốn truyền đạt cho thế hệ trẻ ý thức trách nhiệm với tương lai của đất nước, xứng đáng với truyền thống anh hùng của quân dân Khu 4.