1. Bài mẫu số 4
Khi nhắc đến các nhà văn chính luận xuất sắc của văn học trung đại, Nguyễn Trãi là cái tên không thể thiếu. Ông không chỉ là một nhà thơ trữ tình sâu sắc mà còn là một nhà văn chính luận vĩ đại với các tác phẩm nổi bật như 'Quân trung từ mệnh tập', các chiếu biểu thời Lê và đặc biệt là 'Bình Ngô đại cáo'. Những tác phẩm này thể hiện sâu sắc lòng yêu nước và sự quan tâm đến dân của tác giả.
Ngay từ câu mở đầu bài cáo, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã rõ nét:
'Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo'
'Nhân nghĩa' ở đây là lòng yêu thương người và hành động vì lợi ích cộng đồng. Với ảnh hưởng của Nho giáo, Nguyễn Trãi coi 'nhân nghĩa' là 'yên dân', 'trừ bạo', đặt sự sống và hạnh phúc của nhân dân lên hàng đầu. Ông cho rằng phải có tình yêu thương lẫn nhau, cùng chiến đấu bảo vệ đất nước và thoát khỏi cảnh khổ cực. Điều này đòi hỏi phải tiêu diệt các thế lực xâm lược, điển hình là giặc Minh. Tư tưởng nhân nghĩa của ông không chỉ nằm trong phạm vi quan hệ con người mà còn mở rộng ra mối quan hệ giữa các dân tộc.
Để khẳng định chủ quyền của đất nước, Nguyễn Trãi đã đưa ra những dẫn chứng thuyết phục:
'Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.'
Nền văn hiến của Đại Việt đã được hình thành từ lâu và có sự khác biệt rõ ràng so với các triều đại Trung Quốc như Hán, Đường, Tống, Nguyên. Nguyễn Trãi nhấn mạnh sự độc lập và tự hào dân tộc của chúng ta, ngang hàng với các triều đại phương Bắc. Điều này thể hiện sự tự tôn và tự hào dân tộc sâu sắc của tác giả.
Ông cũng nhắc lại các chiến thắng vang dội của Đại Việt để khẳng định thất bại của kẻ thù:
'Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.'
Những thất bại của các tướng nhà Tống, Nguyên được nhắc đến như minh chứng cho sự anh dũng của các tướng lĩnh Đại Việt. Những sự kiện này được lưu lại trong sử sách, thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi qua những phép đối, so sánh và giọng điệu trang nghiêm.
Nguyễn Trãi đã chỉ trích tội ác của quân Minh đối với nhân dân:
'Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.'
Quân Minh đã lợi dụng tình trạng chính trị của nhà Hồ để xâm lược nước ta, gây ra sự oán hận trong nhân dân và các bọn gian tà chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân mà tiếp tay cho kẻ thù.
Chúng cũng gây ra những tội ác khủng khiếp:
'Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.'
Nhân dân phải chịu cảnh khổ cực dưới sự thống trị tàn bạo của quân Minh, với các thuế vô lý và sự tra tấn. Những tội ác này không thể bị tha thứ, khiến trời đất cũng không thể dung tha.
Nguyễn Trãi đã vạch trần sự tàn bạo và tham lam của quân Minh:
'Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.'
Nhân dân bị ép buộc làm những công việc nguy hiểm và phải đối mặt với sự cai trị tàn bạo. Quân Minh không chỉ bóc lột tài nguyên mà còn gây tổn hại đến môi trường sống của nhân dân.
Những tội ác của quân Minh là không thể kể hết, và không thể được tha thứ. Nguyễn Trãi đã dùng hình ảnh và giọng điệu sắc bén để thể hiện tư tưởng nhân nghĩa và tố cáo sự tàn ác của quân xâm lược.
2. Tài liệu tham khảo số 5
Trong quá trình phát triển của văn học Việt Nam, ba tác phẩm nổi bật như những bản tuyên ngôn độc lập của quốc gia bao gồm: Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi và Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc biệt, Bình Ngô đại cáo phản ánh sâu sắc lòng yêu nước và tự hào dân tộc, như một 'áng thiên cổ hùng văn' vĩnh cửu của dân tộc. Bài thơ được sáng tác vào năm 1982, sau khi nghĩa quân đánh bại quân Minh và kết thúc cuộc chiến xâm lược.
Đoạn 1 và đoạn 2 của bài thơ thể hiện rõ tư tưởng nhân nghĩa xuyên suốt tác phẩm và chỉ rõ tội ác 'trời không dung, đất không tha' của kẻ thù.
'Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo' .
'Yên dân' nghĩa là tạo điều kiện để nhân dân sống bình yên, đầy đủ và ấm no. Nếu dân yên ổn thì đất nước mới phát triển bền vững. Việc 'nhân nghĩa' là hành động vì lợi ích của nhân dân, mục đích là vì con người. Để dân yên, phải lo 'trừ bạo', tức là diệt trừ lũ cướp nước và bán nước. Nguyễn Trãi đã thể hiện tư tưởng coi trọng dân, xuất phát từ mục đích cụ thể là yêu nước, thương dân, đấu tranh chống ngoại xâm. Muốn dân sống đủ đầy, phải tiêu diệt kẻ thù tàn bạo, đó là quy luật tất yếu.
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.”
Nhân nghĩa không chỉ là yên dân, mà còn là ý thức bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia, là văn hoá và cốt cách dân tộc. Tác giả khẳng định nền văn hiến của nước Đại Việt đã có từ hàng ngàn năm, vững bền theo thời gian. Lãnh thổ rõ ràng, phong tục mỗi miền độc đáo không thể nhầm lẫn. Triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần đã xây dựng nền độc lập, Đại Việt ngang hàng với các triều đại Trung Quốc về sự phát triển và thống nhất. Điều này thể hiện rõ sức mạnh và lãnh thổ riêng của dân tộc, không thể bị phủ nhận. Dù thời thế thay đổi, đất Việt luôn có nhân tài, hào kiệt. Câu thơ cảnh cáo những kẻ muốn xâm lược Đại Việt, thể hiện sự tự hào và tự tôn về văn hoá, lãnh thổ và con người, khẳng định tư cách độc lập của quốc gia.
“Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.”
Nhờ vậy, nhiều chiến công lừng lẫy đã làm nức lòng người dân, bao thất bại của quân giặc là do chính chúng tự chuốc lấy. Những kẻ như Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã hoặc bị giết, hoặc bị bắt sống, nhận thất bại thảm hại. Những kẻ phi nghĩa, dù có lớn mạnh cũng không thể chiến thắng chính nghĩa và lòng dân.
Để chứng minh sự thất bại đó, tác giả đã tố cáo các tội ác mà quân giặc gây ra:
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”
Giặc Minh lợi dụng thời cơ đất nước rối ren để xâm lược, áp bức và bóc lột nhân dân Đại Việt. Chúng tàn sát người vô tội:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.”
Thuế khóa nặng nề, đàn áp vô nhân đạo, tàn phá thiên nhiên, vơ vét sức người sức của của nhân dân Đại Việt. Những tội ác của chúng khiến nhân dân càng thêm khốn khổ. Bọn gian tà trong nước tham lam bán nước, chống lại nhân dân, làm tăng thêm sự căm phẫn. Chúng biến nhân dân thành nô lệ, không quan tâm đến mạng sống của họ:
“Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.”
Nhân dân lâm vào cảnh khốn cùng, bị tổn thương và đau khổ. Nghề nghiệp bị tiêu tán, nhân dân đói khổ, tội ác của chúng không thể kể hết. Nghiệp ác mà chúng gây ra không thể được ghi hết bằng Nam Sơn và không thể rửa sạch bằng Đông Hải. Nhân dân căm phẫn, trời đất không thể hiểu hết nỗi đau.
Chỉ với hai đoạn thơ ngắn gọn, Nguyễn Trãi đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa, vì dân, góp phần tạo nền tảng cho các phần sau của tác phẩm.
3. Tài liệu tham khảo số 6
Mở đầu bài cáo, tác giả nêu rõ một tư tưởng lớn làm nguyên tắc cho toàn bài: việc nhân nghĩa nằm ở việc bảo vệ dân chúng và xử lý kẻ xâm lược. Đây không phải là nhân nghĩa mơ hồ, mà là sự bảo vệ dân chúng và tiêu diệt bạo lực, thể hiện lòng yêu nước và tình thương dân. Điều này được minh chứng qua sự tồn tại của nước Đại Việt như một chân lý lịch sử:
Như nước Đại Việt từ trước,
Vốn nổi danh nền văn hiến lâu đời,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây dựng nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Dù mạnh yếu có lúc khác nhau,
Nhưng anh hùng thời nào cũng có.
Có đầy đủ các yếu tố của một quốc gia độc lập tự chủ: quốc hiệu (tên nước), văn hiến, lãnh thổ, phong tục, con người và đặc biệt là “nền độc lập” được xây dựng từ bao đời. Những câu văn mạnh mẽ, dứt khoát, đầy khẳng định, Nguyễn Trãi đã khẳng định một cách hùng hồn chủ quyền dân tộc. Ông nêu bật lịch sử các triều đại bằng phép liệt kê, khẳng định sự tồn tại lâu dài của đất nước, đồng thời khẳng định vị thế độc lập ngang hàng của Đại Việt với các triều đại phong kiến phương Bắc.
Điều này còn như khẳng định về sự thất bại không thể tránh khỏi của kẻ thù khi xâm phạm đến độc lập và chủ quyền của dân tộc ta:
Vì vậy:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Nguyễn Trãi đã cho thấy những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, bảo vệ tự do của Tổ quốc. Cách nêu dẫn chứng rõ ràng, cụ thể bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào dân tộc. Nói về nước Đại Việt, cảm hứng của tác giả tràn đầy niềm tự hào dân tộc. Câu văn biền ngẫu cân xứng tạo nên giọng điệu trang nghiêm, khẳng định khi nói về quốc gia độc lập, tự chủ: và đặc biệt nghệ thuật so sánh càng tôn cao và khẳng định điều đó: Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại Triệu, Đinh, Lí, Trần của Việt Nam ngang hàng với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc. Không thể có một niềm tự hào dân tộc mãnh liệt thì cũng không thể có một sự so sánh như vậy.
Phần đầu bản cáo trạng là một hình ảnh ấn tượng: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/ Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”, và kết thúc bằng một hình ảnh tổng kết cao: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội/ Dơ bẩn thay, nước Đông hải không rửa sạch mùi”. Và cuối cùng là lời phán quyết nghiêm khắc, đanh thép của nhân dân ta về tội ác của chúng:
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?
4. Tài liệu tham khảo số 7
Nguyễn Trãi là một tên tuổi lớn trong nền văn học và quân sự của dân tộc Việt Nam. Những đóng góp của ông trong cả hai lĩnh vực đều rất đáng ghi nhận. Trong vai trò tác giả văn học, ông đã để lại tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo, nổi bật với tinh thần nhân nghĩa và lòng yêu nước sâu sắc.
Nhân nghĩa phải đặt lên hàng đầu để bảo vệ dân chúng
Đánh bại kẻ xâm lược và trừ bỏ bạo tặc.
Mở đầu tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi nhấn mạnh tư tưởng nhân nghĩa với mục tiêu đem lại sự yên bình cho nhân dân, từ đó đưa đến sự thịnh vượng cho quốc gia. Điều này thể hiện sự kết hợp giữa tình yêu nước và nghĩa vụ bảo vệ dân tộc.
Tiếp theo, tác phẩm khẳng định sự vững bầu của các triều đại Việt Nam từ Triệu, Đinh, Lý, Trần đối mặt với các triều đại phương Bắc như Hán, Đường, Tống, Nguyên. Đây là cách chứng minh chủ quyền và sức mạnh lịch sử của Đại Việt. Những triều đại Việt Nam được đặt ngang hàng với các triều đại phương Bắc, thể hiện niềm tự hào về lịch sử hào hùng của dân tộc.
Kẻ nào xâm phạm độc lập chủ quyền của quốc gia chắc chắn sẽ phải chịu thất bại nặng nề.
Lưu Cung tham vọng dẫn đến thất bại
Triệu Tiết mưu lớn phải bỏ mạng
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng tiêu diệt Ô Mã
Những việc xưa hãy xem xét
Chứng cứ vẫn còn lưu lại.
Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô và Ô Mã đều là các tướng lĩnh nổi bật trong lịch sử Trung Hoa, đã đến xâm lược Đại Việt và nhận thất bại cay đắng. Những thất bại này chứng minh sức mạnh và sự tự chủ của quốc gia.
Một quốc gia nhân nghĩa sử dụng sức mạnh của lòng dân để đánh bại những kẻ thù đông đảo và mạnh mẽ, không nhân nghĩa. Nguyễn Trãi đã đưa ra nhiều dẫn chứng cụ thể và hào hùng, thể hiện niềm tự hào lớn lao về đất nước và dân tộc qua hàng ngàn năm.
Bài cáo mang âm hưởng hùng tráng, nghiêm trang khi nói về độc lập quốc gia, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc của tác giả. Qua thời gian, lòng yêu nước vẫn tồn tại mãi mãi trong mỗi người dân Việt Nam.
Trong khi phần đầu của tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo nhấn mạnh tư tưởng nhân nghĩa và khẳng định chủ quyền, thì phần hai chủ yếu tố cáo tội ác của quân Minh trong thời gian đô hộ nước ta.
Tác giả mô tả sự suy yếu của nhà Hồ và sự lợi dụng của quân Minh để gây rối, bạo loạn và cướp nước ta.
Nhân lúc nhà Hồ yếu kém
Quân Minh đã thừa cơ gây hoạ
Giặc gian tà bán nước cầu vinh
Giặc Minh áp dụng chính sách tàn bạo, vô nhân đạo giống như diệt chủng, giết hại dân chúng “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”, thu thuế nặng nề để chiếm đoạt tài sản, khai thác tài nguyên nguy hiểm cho tính mạng “ép xuống biển mò ngọc” đối diện với nguy hiểm từ cá mập, “vào núi đãi cát tìm vàng” giữa vùng rừng thiêng nước độc, và nhiều người đã bỏ mạng. Chúng còn tàn phá môi trường nặng nề, dẫn đến sự tan hoang xã hội và nỗi khổ cực của nhân dân.
Nguyễn Trãi đã tố cáo tội ác của quân Minh đến mức “trúc Nam Sơn không ghi hết tội” và “nước Đông Hải không rửa sạch mùi”, thể hiện sự căm phẫn và đau đớn của nhân dân. Tác phẩm hỏi liệu trời đất có tha thứ cho những tội ác này?
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?
Phần hai của Bình Ngô Đại Cáo là một lời tố cáo mạnh mẽ về sự tàn bạo của quân Minh, khẳng định rằng khi có áp bức, sẽ có kháng chiến và chính nghĩa cuối cùng sẽ chiến thắng. Với những hình ảnh thơ độc đáo và ngôn ngữ sắc sảo, tác phẩm không chỉ làm nổi bật luận đề chính nghĩa và chân lý độc lập dân tộc mà còn tố cáo tội ác không thể tha thứ của kẻ thù.
5. Tài liệu tham khảo số 1
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được mệnh danh như bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc, áng văn chính luận mẫu mực của non sông và cũng là áng thiên cổ hùng văn còn vang mãi nghìn đời. Đại cáo Bình Ngô được Nguyễn Trãi viết vào năm 1428 bố cáo với thiên hạ về nền độc lập tự cường, về chủ quyền của đất nước ta. Mỗi phần của tác phẩm đều chứa đựng ý nghĩa sâu sắc, đặc biệt phần đầu của bài Cáo đã cho thấy tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời, lòng tự hào tự tôn dân tộc cùng với sự tàn bạo của quân Minh khi giày xéo lên mảnh đất dân tộc.
Bình Ngô đại cáo được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi soạn thảo để công bố cho mọi người biết về sự nghiệp đánh tan giặc Minh xâm lược. Từ những buổi đầu khởi nghĩa khó khăn nơi vùng rừng núi hiểm trở đến những ngày chiến công rực rỡ là cả một giai đoạn gian khổ nhưng đầy hào hùng của dân tộc.
Ngay từ nhan đề “Bình Ngô đại cáo” đã gợi ra nhiều suy nghĩ. “Bình Ngô” chính là dẹp yên giặc Minh xâm lược. Gọi giặc Minh là Ngô vì Nguyễn Trãi muốn nhắc đến nguồn gốc, quê cha đất tổ của Chu Nguyên Chương – người đứng đầu và lập nên nhà Minh. Bởi lẽ trong xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc đã có nhiều lần giặc phương Bắc kéo đến xâm lược chúng ta nhưng kết quả đều là thất bại. Điều đó đã minh chứng rõ cho tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến của nhân dân Đại Việt.
“Đại cáo” nhằm chỉ quy mô rộng lớn và tính chất trọng đại của bài cáo. “Bình Ngô đại cáo” là bản cáo lớn mang tính quy mô toàn dân tộc thông báo cho nhân dân biết về chiến thắng chống quân Minh xâm lược, đồng thời để khẳng định tuyên bố độc lập của dân tộc. Phần một và phần hai là cơ sở tiền đề cho cuộc kháng chiến. Thứ nhất đó là tư tưởng nhân nghĩa. Thứ hai là bản cáo trạng tội ác của giặc.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi đã xác lập luận đề chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa.
“Từng nghe
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Tư tưởng nhân nghĩa là một tư tưởng được các nước phương Đông mặc nhiên thừa nhận. “Nhân nghĩa” là mối quan hệ giữa người với người được xây dựng trên cơ sở tình thương và đạo đức. Nếu tư tưởng nhân nghĩa trong quan niệm Nho giáo là cách đưa con người vào các mối quan hệ khuôn khổ phạm trù đạo đức để phục vụ cho mục đích quản lý xã hội của nhà cầm quyền.
Nhưng tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã trở thành mục đích của cuộc kháng chiến. Bởi đặt trong hoàn cảnh thực tiễn của đất nước, nhân nghĩa được cụ thể hóa thành yên dân. Nghĩa là làm cho nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Muốn nhân dân được ấm no thì phải diệt trừ bạo ngược, đặc biệt đó chính là quân Minh xâm lược. Từ tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo, Nguyễn Trãi đã chuyển hóa vào thực tiễn đất nước ta. Và đây cũng chính là mục đích chiến đấu, là lý tưởng cao đẹp mà suốt cuộc đời Nguyễn Trãi theo đuổi.
Khi phân tích đoạn 1 bài Bình Ngô đại cáo, ta thấy sau khi nêu cơ sở chính nghĩa của cuộc kháng chiến, Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền lãnh thổ bằng những căn cứ lịch sử vô cùng xác đáng kết hợp với lời văn dõng dạc hào hùng đầy tự tin.
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
………….
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Các phương diện được Nguyễn Trãi nêu ra để khẳng định chủ quyền là văn hiến, địa phận, phong tục, nhà nước, nhân tài. Các phương diện ấy đều được trải dài theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc ta và đều mang dấu ấn riêng đại diện cho dân tộc. Đó là những nét khác biệt không lẫn vào đâu của văn hóa và phong tục tập quán. Có thể so về chiều dài lịch sử ta không bằng Trung Hoa, nhưng trong suốt chiều dài hình thành và tồn tại thì dân tộc ta đã để lại dấu ấn cùng tinh thần dân tộc mạnh mẽ.
Việc liệt kê các triều đại của nước Đại Việt song song với các triều đại Trung Hoa đã thể hiện rõ điều đó. Ta không hề kém cạnh Trung Hoa. Ta cũng có những nhà nước tự trị ngay từ buổi bình minh lịch sử dân tộc. Ta có chủ quyền lãnh thổ riêng, có phong tục tập quán, có tổ chức nhà nước với người đứng đầu là vua. Việc xưng đế đã thể hiện ý chí tự tôn dân tộc. Bởi lẽ trong quan niệm ngày xưa, chỉ có Trung Hoa được xưng đế còn vua của nước nhỏ chỉ được xưng chư hầu không được xưng đế. Việc xưng đế đã khẳng định chắc nịch một điều ta và Trung Hoa là những nước độc lập bình đẳng với nhau. Chính vì vậy không có lí do gì để Trung Hoa kéo quân xâm lược nước ta.
Điều quan trọng làm nên sự thịnh vượng của một vương triều không thể không kể đến yếu tố nhân tài. Nhân tài chính là vận mệnh đất nước. Trong cả một quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước đã có biết bao nhiêu vị anh hùng làm rạng danh non sông cũng như có biết bao nhiêu thế hệ với ngàn ngàn lớp lớp người vô danh đã ngã xuống để bảo vệ độc lập đất nước. Giọng thơ hào hùng, lập luận mạnh mẽ chặt chẽ thuyết phục từ những chứng cứ lịch sử xác đáng không thể chối cãi. Qua đó ta thấy được ý thức dân tộc sâu sắc của Nguyễn Trãi.
Sau khi khẳng định tiền đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến cũng như khẳng định chủ quyền dân tộc, Nguyễn Trãi đã nêu ra những chứng cứ lịch về sự thất bại nhục nhã của giặc khi sang xâm lược nước ta.
“Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi”.
Nguyễn Trãi đã lần lượt nêu ra những tên tướng giặc bại trận trong những trận chiến phi nghĩa xâm lược Đại Việt. Đó là Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã. Chúng thất bại bởi lẽ đây là một cuộc chiến phi nghĩa không nhằm bảo vệ cuộc sống nhân dân mà chỉ vì “tham công”, “thích lớn”, chỉ để thỏa mãn khát vọng bành trướng quyền lực của kẻ cầm đầu mà gieo tai vạ cho biết bao người dân vô tội.
Ngay từ mục đích xâm lược đã phi nghĩa nên chắc chắn cuộc xâm lược này sẽ “thất bại”, “tiêu vong”. Những địa danh lịch sử gắn với những cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta cũng được Nguyễn Trãi nêu ra. Đó là cửa sông bạch Đằng đã giết chết hàng vạn quân Nam Hán xóa bỏ đi một ngàn năm đô hộ của ngoại xâm phương Bắc mở ra thời kì độc lập cho đất nước. Còn nhắc đến cửa Hàm Tử không thể không nhắc đến chiến công của quân dân nhà Trần đã từng được Trần Quang Khải nhắc đến.
“Chương Dương cướp giáo giặc.
Hàm Tử bắt quân thù”
Tuy không trực tiếp nhắc đến chiến thắng của quân ta nhưng trong cách nói đó ta vẫn thấy hiện lên vẻ đẹp sự oai hùng của những chiến công lịch sử vang dội. Đây chính là minh chứng lịch sử rõ nét nhất cho tư tưởng nhân nghĩa. Cuộc kháng chiến của chúng ta chính là cuộc kháng chiến vì chính nghĩa. Lẽ phải thuộc về nghĩa quân, thuộc về dân tộc Đại Việt nên chắc chắn chiến thắng sẽ thuộc về ta.
Sau khi nêu ra tiền đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến, Nguyễn Trãi đã vạch trần bộ mặt xâm lược của giặc Minh:
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”.
Trong tình cảnh đất nước rối ren, nhân dân không đồng lòng dưới chế độ nhà Hồ của Hồ Quý Ly. Lợi dụng điều đó, núp dưới chiêu bài “phù Trần diệt Hồ”, giặc Minh đã xâm lược nước ta. Nhưng thực chất giặc Minh không hề có ý tốt mà đó chỉ là cái cớ để có cơ hội đặt chân xâm lược dân tộc. Điều đó đã được thể hiện rõ qua các từ “nhân”, “thừa cơ gây họa” cho thấy rõ thái độ của Nguyễn Trãi đối với những kẻ ngoại xâm này.
Chúng đến đây tấn công nước ta chỉ vì mục đích thỏa mãn nhu cầu bành trướng quyền lực, khát vọng bá chủ thiên hạ của chúng mà thôi. Không chỉ vạch trần bóc mẽ bộ mặt xâm lược của kẻ thù mà Nguyễn Trãi còn thể hiện thái độ đối với những kẻ gian thần lộng quyền vì tham vinh hoa phú quý mà đẩy đất nước vào tình cảnh rối ren, ngàn cân treo sợi tóc này.
Không chỉ vạch trần bộ mặt thật của giặc, tác giả còn nêu ra những tội ác trời không dung đất không tha của kẻ thù:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
………..
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi”.
Những tội ác giặc gây ra không thể kể hết. Biết bao nhiêu oán thương, uất hận chất chồng. Giặc đã tàn sát dã man những người dân vô tội, cướp đi mạng sống cướp đi hạnh phúc của biết bao gia đình êm ấm. Hình ảnh “con đỏ”, “dân đen” ý chỉ nhân dân Đại Việt. Họ chỉ là những con người thấp cổ bé họng chỉ ước mong một cuộc sống giản dị đời thường nhưng kể cả cái ước mơ nhỏ bé ấy cũng bị vùi dập.
Quân Minh đã phá đi cuộc sống của họ, phá tan biết bao cơ nghiệp, làm chảy máu và nước mắt của biết bao gia đình. Không những thế chúng còn đặt ra nhiều thứ thuế vô lý bóp nghẹt con đường sống của những người dân lương thiện này. Lòng tham vô đáy của quân Minh còn được thể hiện ở việc chúng khai thác cạn kiệt tài nguyên khoáng sản. Để đổi lấy vàng ngọc châu báu chúng nhẫn tâm xem nhẹ sinh mạng con người. Hành động ấy còn tàn phá cả môi trường sống, môi trường tự nhiên bằng cách vơ vét sản vật chim trả, hươu đen đến “cả giống côn trùng cây cỏ”.
Quân Minh còn phá hoại cả sản xuất “nghề canh cửi”. Chúng đề ra những việc ép dân nhân trở thành nô lệ, bóc lột tận cùng sức lao động của nhân dân.Tội ác của quân Minh được nhìn nhận ở góc độ tác động đến cuộc sống của nhân dân. Từ đấy cũng cho thấy tấm lòng của Nguyễn Trãi dành cho dân cho nước. Bên cạnh tình cảnh đáng thương của nhân dân, Nguyễn Trãi còn khắc họa hình ảnh của quân thù hiện lên một cách man rợ “thằng há miệng đứa nhe răng máu mỡ bấy no nê chưa chán”. Tội ác ấy khiến cho đất trời phẫn nộ”.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?…”
Những tội ác ấy chồng chất, những lời ai oán không thể giãi bày. Nhân dân rơi vào tình cảnh kêu trời không thấu kêu đất không nghe. Đây là hình ảnh phong đại mang tính biểu tượng cao. Tội ác ấy không sao có thể ghi chép lại được không thể rửa sạch được. Bởi lẽ không ai có thể bù đắp những tổn thương về vật chất tinh thần và sinh mạng cho người dân Đại Việt. Đất trời cũng ngùn ngụt tức giận trước tội ác của quân giặc.
Bằng những lí lẽ sắc bén, cách lập luận chặt chẽ tài tình, Nguyễn Trãi đã nêu ra tiền đề nhân nghĩa của cuộc kháng chiến. Ta chiến đấu là để bảo vệ đất nước, chiến đấu vì mục đích nhân nghĩa – bảo vệ cuộc sống ấm no của nhân dân, chiến đấu vì độc lập dân tộc – bảo vệ cơ đồ ngàn năm của dân tộc ta, và cuối cùng chiến đấu vì không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước tình cảnh của đất nước, của nhân dân. Những hình ảnh mạnh mẽ, kết hợp với các biện pháp nghệ thuật đã tạo ra giọng điệu mạnh mẽ, đanh thép oai hùng cho bài thơ.
Với hai đoạn thơ súc tích ngắn gọn cùng với tài năng trong ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Trãi đã giúp làm nổi bật lên tư tưởng chính nghĩa của tác phẩm. Bên cạnh đó khi cảm nhận đoạn 1 2 Bình Ngô đại cáo, ta thấy tác phẩm đã tố cáo mạnh mẽ tội ác cùng những hành động dã man của kẻ thù. Sâu xa trong ý nghĩa của bài cáo chính là tinh thần yêu nước, niềm tự hào tự tôn dân tộc mãnh liệt của tác giả.
6. Tài liệu tham khảo thứ 2
Bài cáo bắt đầu bằng một nguyên lý lớn, là cơ sở cho toàn bộ nội dung tác phẩm.
Nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Đây là tư tưởng nhân nghĩa, không chỉ là sự bao quát chung chung, mà còn gắn liền với mục tiêu “yên dân”, “trừ bạo”, thể hiện tinh thần yêu nước và chăm sóc dân chúng. Tư tưởng này được minh chứng qua sự tồn tại lâu dài của nước Đại Việt như một chân lý lịch sử:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây dựng nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên tự xưng một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Tất cả các yếu tố của một quốc gia độc lập đều hiện diện: quốc hiệu, văn hiến, lãnh thổ, phong tục, con người và đặc biệt là “nền độc lập” đã được xây dựng từ lâu đời. Những lời văn mạnh mẽ và quyết đoán của Nguyễn Trãi đã khẳng định một cách hùng hồn chủ quyền dân tộc. Ông đã nêu rõ lịch sử các triều đại bằng phép liệt kê, song hành, khẳng định lịch sử lâu dài của đất nước và vị thế độc lập của Đại Việt so với các triều đại phong kiến phương Bắc.
Cũng như việc dự đoán hậu quả tất yếu của kẻ thù khi xâm phạm đến chủ quyền dân tộc:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Nguyễn Trãi đã chứng minh những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn tự do cho Tổ quốc. Những dẫn chứng rõ ràng, cụ thể và lời lẽ chắc chắn, hào hùng thể hiện niềm tự hào dân tộc.
Khi nói về Đại Việt, cảm hứng của tác giả tràn đầy tự hào dân tộc. Câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng tạo nên giọng điệu trang nghiêm, khẳng định sự độc lập, tự chủ của quốc gia. Nghệ thuật so sánh tôn cao thêm điều này: Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần của Việt Nam ngang hàng với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc. Một sự tự hào dân tộc mãnh liệt mới có thể tạo ra một sự so sánh như vậy.
Đoạn 2 là bản cáo trạng đanh thép, tố cáo tội ác của quân xâm lược nhà Minh. Nguyễn Trãi đã phơi bày âm mưu thâm độc của chúng: lợi dụng sự đổ nát của nhà Hồ để quân Minh xâm chiếm nước ta:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
…….
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Tác giả khẳng định đó là tội ác “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” và liệt kê những hành động tội ác man rợ của chúng. Từ việc tàn sát, giết hại nhân dân, kể cả trẻ em: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn - Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ. Rồi chúng lại bóc lột dân ta bằng thuế khóa nặng nề, ra sức vơ vét tài nguyên, đẩy người dân đến chỗ cùng đường, thậm chí không đảm bảo được tính mạng:
Người bị ép xuống biển mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng,
Kẻ bị đưa vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Còn dã man, tàn bạo đến mức:
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Nặng nề những nỗi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Hậu quả mà chúng để lại thật là tàn khốc: gia đình tan nát, vợ mất chồng, con cái thì nheo nhóc, muôn loài bị phá hủy, sản xuất trì trệ, nhân dân khổ cực. Để nêu rõ tội ác của quân xâm lược, tác giả đã sử dụng phương pháp liệt kê có chọn lọc, với câu văn giàu hình tượng, giọng văn linh hoạt, phù hợp với cảm xúc. Khi thì thể hiện sự căm phẫn, tức giận đến thấu xương, lúc thì xót xa, đau đớn cho nhân dân.
Phần đầu bản cáo trạng có hình ảnh đầy ấn tượng: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn - Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”, và kết thúc bằng hình ảnh tổng kết cao: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội - Dơ bẩn thay, nước Đông hải không rửa sạch mùi”. Cuối cùng là lời phán quyết nghiêm khắc của nhân dân về tội ác của chúng:
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?
7. Tài liệu tham khảo thứ 3
Nguyễn Trãi không chỉ là một vị quan mà còn là một nhà văn và là một danh nhân văn hóa vĩ đại của dân tộc. Ông đã để lại nhiều tác phẩm văn học quý giá cho kho tàng văn học trung đại và Việt Nam, trong đó “Bình Ngô đại cáo” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông. Bài cáo này được coi là “tuyên ngôn độc lập thứ hai” của dân tộc. Qua đoạn đầu và đoạn hai của bài cáo, người đọc có thể thấy rõ luận điểm chính nghĩa của dân tộc ta và sự tàn bạo của kẻ thù.
Đoạn mở đầu của “Bình Ngô đại cáo” trình bày luận điểm về chính nghĩa và chân lý độc lập của dân tộc, là nền tảng lý luận cho cuộc kháng chiến của quân và dân ta.
Nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
“Nhân nghĩa” từ xưa là một khái niệm lớn của Nho giáo, phản ánh mối quan hệ giữa con người dựa trên tình thương và đạo lý. Là một nhà nho, Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng này, và ông coi “nhân nghĩa” gắn liền với việc “yên dân” và loại bỏ bạo lực để mang lại sự bình yên cho nhân dân. Tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi đặt lợi ích của dân lên hàng đầu, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc của nhân dân bằng cách tiêu diệt những thế lực cường bạo.
Thêm vào đó, tác giả cũng khẳng định chân lý độc lập của dân tộc qua những câu thơ:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Chỉ với một đoạn văn ngắn, Nguyễn Trãi đã gợi nhắc một chặng đường dài của nền văn hiến dân tộc, khẳng định sự độc lập và tự hào dân tộc của Đại Việt qua các triều đại lịch sử, và so sánh với các triều đại Trung Quốc để nhấn mạnh nền độc lập và truyền thống dân tộc. Bài cáo cũng điểm lại các chiến thắng vang dội của dân tộc:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Phần tiếp theo của bài cáo chiếu ánh sáng lý luận vào thực tiễn để vạch rõ tội ác của kẻ thù, đặc biệt là việc chúng lợi dụng tình hình trong nước để xâm lược và thực hiện các chính sách tàn bạo:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Kẻ thù còn thi hành những chính sách tàn nhẫn, giết hại dân vô tội:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Bằng hình thức đảo ngữ và hình ảnh mạnh mẽ, Nguyễn Trãi đã phơi bày sự tàn bạo của kẻ thù đối với dân lành, từ việc đẩy dân vào những hiểm nguy đến việc vơ vét tài sản và phá hoại môi trường:
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Cuối cùng, tác giả dùng hình ảnh mạnh mẽ để nhấn mạnh sự vô cùng và vô hạn của tội ác kẻ thù:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Với sự tàn bạo của kẻ thù, nhân dân ta không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc đứng lên chống lại.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?
Như vậy, với ngôn ngữ và hình ảnh sắc sảo, hai đoạn đầu của “Bình Ngô đại cáo” không chỉ thể hiện luận điểm chính nghĩa và chân lý độc lập dân tộc mà còn bộc lộ sự tàn ác không thể tha thứ của kẻ thù.