1. Bài văn cảm nhận về nhân vật Thị Kính - mẫu 3
Những số phận nhỏ bé trong xã hội thường gặp nhiều đau khổ, khiến chúng ta cảm thấy xót xa. Nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” là một ví dụ điển hình, với những phẩm hạnh cao quý và một cuộc đời đầy đau thương, vừa khiến người ta cảm phục vừa thương xót cho số phận của một người phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công.
Xuất thân từ gia đình nghèo, Thị Kính là người phụ nữ hiền thục, hết lòng vì chồng và gia đình chồng. Nàng chăm sóc chồng tận tình, đến mức chú ý đến việc cắt bỏ phần râu mọc ngược của chồng, hành động thể hiện tình yêu sâu sắc. Tuy nhiên, sự quan tâm này bị hiểu lầm thành ý đồ hại chồng. Tình yêu thương chân thành của nàng không được chồng hiểu, và sự không môn đăng hộ đối dẫn đến số phận khổ đau sau này.
Số phận bất hạnh của nhiều phụ nữ trong xã hội phong kiến là do các tập tục hà khắc và sự thấp kém của họ. Những tập tục này tạo ra những hiểm họa lớn cho đời sống của họ. Thị Kính, với tính cách hiền lành, chỉ biết van xin sự hiểu và đồng cảm khi bị vu oan, nhưng cha nàng không đủ sức để làm sáng tỏ sự việc. Nàng cầu xin sự chứng giám của trời xanh và cuối cùng quyết định trở thành chú tiểu, nương nhờ cửa Phật để tìm sự cảm thông. Sự hy sinh này thể hiện lòng hiếu thảo của nàng đối với cha mẹ.
Nàng lo lắng về hình ảnh gia đình và sự chỉ trích của hàng xóm nên chọn cuộc sống nương nhờ cửa Phật. Qua hành động của Thị, ta cảm nhận được sự bất hạnh của một người con gái đức hạnh. Mặc dù Thị không làm gì sai trái, nhưng sự thiếu tin tưởng đã dẫn đến tai họa. Nỗi oan không thể giải tỏa khi quyền lực nằm trong tay người khác, còn nàng chỉ là một người phụ nữ bé nhỏ và khổ sở.
Điều này khiến chúng ta cảm thông và xót thương cho Thị Kính và những phụ nữ đẹp người, đẹp nết nhưng phải chịu đựng khổ đau. Nhân vật Thị Kính để lại ấn tượng sâu sắc với sự xót xa và cảm phục đối với một tầng lớp nhỏ bé nhưng đức hạnh.
2. Bài văn cảm nhận về nhân vật Thị Kính - mẫu 5
Trong xã hội phong kiến xưa, thân phận phụ nữ thường phải chịu đựng nhiều khổ đau. Những số phận ấy khiến chúng ta cảm thấy xót xa và thương cảm. Nhân vật Thị Kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” không chỉ tạo sự yêu mến vì phẩm hạnh của nàng mà còn làm người ta cảm thấy thương xót cho số phận bi thảm của phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công.
Thị Kính hiện lên như một người con gái hiền thục, tận tụy vì chồng và gia đình chồng. Dù chỉ là hành động nhỏ như để ý việc cắt râu mọc ngược của chồng, nhưng tình yêu nàng dành cho chồng là chân thành và đáng trân trọng. Tuy nhiên, sự quan tâm này bị hiểu lầm thành ý đồ hại chồng. Thêm vào đó, sự chênh lệch môn đăng hộ đối trong hôn nhân cũng báo hiệu cho số phận khổ đau của nàng.
Phụ nữ trong xã hội phong kiến bị áp bức bởi những tập tục hà khắc, sống trong sự tầm thường và thiếu tiếng nói. Từ một việc nhỏ, Thị Kính bị vu oan mưu sát chồng. Với tính cách hiền hòa, nàng không thể chống lại sự cay nghiệt của nhà chồng và sợ làm liên lụy đến cha mẹ nên quyết định giả làm chú tiểu, nương nhờ cửa Phật. Dù nàng hy vọng cuộc sống ở chốn linh thiêng sẽ bớt sóng gió, nhưng với vẻ ngoài thu hút, nàng vẫn bị Thị Mầu, con gái phú ông, mê đắm và bị lôi kéo vào vòng xoáy tai tiếng.
Thị Mầu vì ghen ghét đã đổ vạ cho Thị Kính. Nếu Thị Kính tiết lộ thân phận thật, mọi hiểu lầm sẽ được giải quyết, nhưng nàng không thể làm vậy, đành ôm mối oan ức và bị đuổi ra khỏi chùa. Dù vậy, nàng không mất đi lòng nhân ái, vẫn chăm sóc đứa trẻ mà Thị Mầu bỏ lại như con ruột và để lại di thư cho người đời hiểu rõ mọi chuyện.
Thị Kính, với lòng nhân hậu và sự bất hạnh, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Cuộc đời nàng dù không phạm lỗi, nhưng chịu nhiều oan ức. Số phận của nàng làm người ta cảm thương và quý mến một người con gái đức hạnh, đẹp người đẹp nết.
3. Bài văn cảm nhận về nhân vật Thị Kính - mẫu 6
Quan Âm Thị Kính là một vở chèo cổ nổi tiếng của sân khấu chèo. Nội dung của vở chèo chia làm ba phần. Phần 1 là Án giết chống: Thiện Sĩ, con trai Sùng ông, Sùng bà gia đình khá giả, kết duyên cùng Thị Kính, con gái Mãng ông, một nông dân nghèo. Một hôm, vợ ngồi khâu, chồng đọc sách rồi thiu thiu ngủ. Thấy chồng có sợi dâu mọc ngược, Thị Kính cầm dao khâu toan xén đi. Thiện Sĩ giật mình hoảng sợ vội hô hoán lên, Sùng bà giận dữ đổ riệt cho con dâu có ý giết chồng, mắng chửi thậm tệ và đuổi Thị Kính về nhà bố mẹ đẻ. Phần 2 là Án hoang thai: Bị oan ức nhưng không thể thanh minh, Thị Kính đành giả trai, vào tưở chùa Vân Tự, lấy pháp danh là Kính Tâm. Thị Mầu, con gái phú ông, vốn tính lẳng lơ, đem lòng say mê chú tiểu Kính Tâm. Ve vãn Kính Tâm không được, Thị Màu ăn nằm với anh Nô là đầy tớ rồi có thai. Làng bắt vạ. Bí thế, Thị Mầu đổ cho Kính Tâm, Kính Tâm chịu oan, bị sư cụ đuổi ra khỏi tam quan (cổng chùa), Thị Màu đem con bỏ cho Kính Tâm. Phần 3 là Oan tình được giải, Thị Kính lên tòa sen: Trải qua ba năm, Kính Tâm đi xin sữa từng ngày nuôi con của Thị Mầu. Rồi nàng "hóa" (chết), được lên tòa sen, trở thành Phật Bà Quan Âm. Trước khi "hóa", Kính Tâm viết thư để lại cho đứa trẻ. Bấy giờ mọi người mới biết Kính Tâm là gái và hiểu ro tấm lòng từ bi nhẫn nhục của nàng.
Nỗi oan hại chồng và cái án oan hoang thai là hai sự kiện chính của vở chèo. Qua đó, tác giả dân gian phản ánh bi kịch trong thân phận của người phụ nữ nghèo khổ thời phong kiến. Hai sự kiện tuy thuộc hai mảnh đời khác nhau của Thị Kính nhưng liên hệ chặt chẽ với nhau. Cảnh ngộ nào cũng éo le, đau đớn nhưng mỗi cảnh ngộ lại có một vẻ riêng. Chúng kết hợp với nhau, bổ sung cho nhau để hoàn chỉnh tấn bi kịch về cuộc đời người phụ nữ. Bên cạnh nội dung đó, vở chèo còn có dụng ý đề cao phẩm chất cao quý của người phụ nữ và lên án cái xấu, cái ác trong xã hội phong kiến xưa.
Trích đoạn Nỗi oan hại chồng là cốt lõi trong phần mở đầu của vở chèo. Phần này có năm nhân vật tham gia vào quá trình tạo nên xung đột kịch và làm nền cho nhân vật Thị Kính bộc lộ phẩm chất cao đẹp. thiện Sĩ và Sùng ông là những kẻ nhu nhược, không có chủ kiến, chỉ đóng vai phụ để làm nổi bật tính cách điêu ngoa, nanh ác của Sùng bà. Xung đột cơ bản của vở chèo được thể hiện qua mâu thuẫn của Sùng bà và Thị Kính (mẹ chồng, nàng dâu). Sùng bà thuộc loại nhân vật mụ ác, đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến với những thói hư tật xấu như hóm hĩnh, tự phụ về dòng giống cao sang, cả vú lấp miệng em, luôn lấy mình làm chuẩn mực để xem xét, đánh giá người khác theo nhân thức hồ đồ của mình, Thị Kính thuộc loại nhân vật nữ chính trong chèo, đại diện cho người phụ nữ lao động nghèo. Thị Kính là nàng dâu ngoan hiền nết na, thùy mị nhưng bị Sùng bà nanh ác buộc tội giét chồng. Gia đình nhà chồng đã gây ra cho Thị kÍnh những nỗi oan chồng chất. Nàng bị hàm oan, hạnh phúc tan vỡ, bị đuổi khỏi nhà chồng và đau khổ nhất là phải chứng kiến cảnh người cha thân yêu bị sỉ nhục.
Mâu thuẫn giữa Sùng bà và Thị Kính về hình thức là xung đột trực tiếp giữa mẹ chồng nàng dâu nhưng về bản chất lại là mâu thuẫn sâu sắc giữa kẻ thống trị và người bị trị. Đó là cái nút đầu tiên trong vở chèo bộc lộ thân phận, địa vị thấp kém của người phụ nữ nghèo trong quan hệ gia đình và hôn nhân phong kiến. Mở đầu là cảnh sinh hoạt đầm ấm, (vợ vá may thêu thùa. Chồng đọc sách), tuy không phổ biến và gần gũi như cảnh chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa trong ca dao nhưng nó cũng thể hiện khát vọng về hạnh phúc gia đình của nhân dân lao động.
Trong khung cảnh ấy nổi bật lên hình ảnh người vợ thương chồng. Những cử chỉ của Thị Kính đối diện với Thiện Sĩ rất ân cần, dịu dàng. Khi chồng học bài mệt mỗi đêm ngủ thiếp đi, nàng dọn lại kỉ rồi ngồi quạt cho chồng. Thấy sợi râu mọc ngược dưới cằm chồng, nàng băn khoăn lo lắng về một điềm báo chẳng lành. Thị Kính muốn làm đẹp cho chồng và cho mình: Trước đẹp mặt chồng, sau đẹp mặt ta…, Dạ thương chồng, lòng thiếp sao an. Âu dao bén, thiếp xén tày một mực. Tâm trạng của nàng là tâm trạng của người vợ yêu thương chồng thắm thiết. Việc làm đầy thiện ý của Thị Kính chưa kịp thực hiện thì Thiện Sĩ chợt giật mình choàng thức dậy, hốt hoảng nắm lấy con dao kêu lên: Hỡi cha! Hỡi mẹ! Hỡi xóm! Hỡi làng! Đêm hôm khuya khoắt bỗng làm sao thấy sự bất thường… khiến cho cả nhà tỉnh giấc. Chẳng cần hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện ra sao, Sùng bà đã sừng sộ khép ngay Thị Kính vào tội giết chồng: Cái con mặt gan lim này! Mày định giết con bà à? Thái độ của Sùng bà rất thô bạo và tàn nhẫn. Khi Thị Kính khóc lóc van xin được thanh minh, Sùng bà dúi đầu Thị Kính ngã xuống rồi lại bắt nàng ngửa mặt lên để nghe mụ chửi, chứ không cho phân bua, thanh minh gì cả.
Sùng bà nói với Thị Kính toàn là những lời đay nghiến, mắng nhiếc, lăng mạ. Dường như một lần mụ cất lời, Thị Kính lại bị kết thêm một tội. Mụ trút cho Thị Kính đủ tội mà không cần biết sự tình. Mụ xỉ vả, đuổi Thị Kính ra khỏi nhà không chỉ vì lí do cho rằng Thị Kính giết chồng mà Thị Kính còn là loại đàn bà hư đốn, tâm địa xấu xa; là con nhà thấp hèn không xứng với nhà mụ: Giống nhà bà đây giống phượng giống công – Còn tuồng bay mèo mã gà đồng lẳng lơ – Nhà bà đây cao môn lệnh tộc – Mày là con nhà cua ốc – Trứng rồng lại nở ra trứng rồng – Lìu điu lại nở ra dòng lìu điu – Đồng nát thì về Cầu Nôm, Con gái nỏ mồm về ở với cha… Tất cả những lời nói và cử chỉ đó đã bộc lộ bản chất của một mụ nhà giàu bất nhân, bất nghĩa. Lời lẽ của mụ chứa đựng toàn là sự phân biệt đối xử. Vốn từ ngữ dùng để so sánh chuyện cao thấp, sang hèn, giàu nghèo… của mụ phong phú đến mức đáng sợ. Mâu thuẫn giữa mụ và Thị Kính đã vượt khỏi mâu thuẫn mẹ chồng – nàng dâu. Mụ đã trả nó vào đúng vị trí là mâu thuẫn giai cấp. Các điệu hát sắp, nói lệch… phù hợp với việc thể hiện thái độ trấn áp phũ phàng và giọng nói điệu kiêu kì, tự phụ về dòng, giống giàu sang, khinh thị người nghèo khó của mụ. Nhân vật Sùng bà chỉ xuất hiện trong một lớp diễn nhưng đã bộc lộ đầy đủ tính cách của vai mụ ác trong vai chèo cổ. Mụ ra oai sấm sét để tỏ ra " phép nhà". Mụ tự cho mình cái quyền tạo ra "luật" và "lệ" trong gia đình Thị Kính tuy có đủ đức hạnh như lễ giáo phong kiến quy định nhưng vẫn không được gia đình chấp nhận bởi vì nàng không xuất thân từ nguồn gốc " con nhà gia thế". Quả là mâu thuẫn giai cấp không thể dung hòa đã tác động ghê gớm đến cuộc hôn nhân này.
Khi bị mẹ chồng khép vào tội giết chồng, Thị Kính đã có những lời nói, cử chỉ thật nhẫn nhục, đáng thương. Năm lần kêu oan thì bốn lần tiếng kêu của nàng hướng về chồng và mẹ chồng. Lần thứ nhất, nàng kêu oan với mẹ chồng: Giời ơi! Mẹ ơi, oan cho con lắm mẹ ơi! Lần thứ hai, vẫn với mẹ chồng: Oan cho con lắm mẹ ơi! Lần thứ ba, kêu oan với chồng: Oan thiếp lắm chàng ơi! Lần thứ tư, một lần nữa, lại kêu oan, van xin mẹ chồng: Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi! Thị Kính kêu oan với chồng nhưng vô ích bởi Thiện Sĩ là gã đàn ông đơn hèn, nhu nhược. Hắn bỏ mặc người vợ hết lòng thương yêu, chăm sóc gắn bó với mình cho bà mẹ độc ác hành hạ. Lúc này, Thiện Sũ chỉ là một nhân vật thừa trên sân khấu. Lời van xin của Thị Kính giống như lửa đổ thêm dầu, càng làm bùng lên những lời đay nghiến lăng nhục của Sùng bà. Thị Kính càng kêu oan, nỗi oan lại càng dày. Giữa gia đình nhà chồng người phụ nữ đức hạnh ấy hoàn toàn cô độc. Chỉ đến lần cuối cùng, Thị Kính kêu oan với cha đẻ là Mãng ông thì nàng mới nhận được sự cảm thông, nhưng đó là sự cam thông đau khổ và bất lực. Mãng ông nói trong nước mắt: Con ơi! Dù oan dù nhẫn chẳng oan Xa xôi cha biết nỗi con nhường nào! Kết cục của nối oan là tình vợ chồng giữa Thị Kính và Thiện Sĩ tan vỡ. Nàng bị đuổi ra khỏi nhà chồng.
Trước khi đuổi Thị Kính, Sùng bà và Sùng ông còn nhẫn tâm dựng lên một vở kịch tàn ác: lừa Mãng ông sang ăn cữ cháu, kì thực là bắt Mãng ông nhận con gái về. Chúng có thú vui làm điều ác, muốn cha con Mãng ông phải nhục nhã ê chề. Hơn thế nữa, nhanh như trở bàn tay, Sùng ông đã thay đổi quan hệ thông gia bằng những hành động vũ phu. Cảnh này được xây dựng bằng những chi tiết, hình ảnh, lời nói thật sinh động: Mãng ông: Ông ơi! Ông cho tôi biết đầu đuôi câu chuyện với, ông ơi! Sùng ông: Biết này! (Sùng ông dúi ngã Mãng ông rồi bỏ vào, Thị Kính chạy vội lại đỡ cha. Hai cha con ôm nhau khóc). Sự việc Sùng bà cho gọi Mãng ông đến để trả Thị Kính đã thể hiện tính cách bất nhân bất nghĩa của mụ, đồng thời bộc lộ nỗi bất hạnh lớn nhất của Thị Kính. Thị Kính như bị đẩy đến cực điểm của bi kịch. Nàng chới với trong nỗi oan ức tày trời, nỗi đau tình vợ chồng tan vỡ cộng thêm nỗi nhục nhã, đau đoén trước ảnh người cha già kính yêu bị chính cha mẹ chồng khinh khi, hành hạ.
Cuối lớp diễn, trên sân khấu chỉ còn lại hai hca con Thị Kính lẻ loi đơn độc giữa sự vô tình đến lạnh lùng, tàn nhẫn. Cảnh hai cha con ôm nhua than khóc là hình ảnh của những người nghèo khổ chịu oan ức mà hoàn toàn bất lực. Cảnh Sùng bà quy kết, đổ vạ cho Thị Kính diễn ra chóng vánh, dồn dập. Còn cảnh hai cha con Thị Kính ôm nhau than khóc thì kéo dài trên sân khấu. Sự bố trí như vậy mang ý nghĩa tố cáo cái ác và cảm thông sâu sắc với cái thiện đang bị cái ác bủa vây giwuax trùng trùng sóng dữ. Thái độ của Thị Kính trước khi ra khỏi nhà chồng được đặc tả: Thị Kính đi theo cha mấy bước nữa, rồi dừng lại và thở than, quay vào nhìn từ cái kỉ đến sách, thúng khâu, rồi cầm chiếc áo ddang khâu dở, bóp chặt trong tay. Chiếc kỉ, thúng khâu, chiếc áo đang khâu dở là bằng chứng chứng minh cho tình cảm thủy chung, hiền dịu của người vợ yêu chồng nhưng giờ đây lại bị coi là chứng cứ của sự thất tiết. Sự đảo lộn đột ngột đó đã làm cho trái tim đa cảm của Thị Kính đau đớn, bàng hoàng. Tâm sự của nàng thể hiện qua điệu sử rầu và nói thảm: Thương ôi! Bấy lâu nay sắt cầm tịnh hảo Bỗng ai làm chăn gối lẻ loi.
Một bên là những kỉ niệm hạnh phúc của tình vợ chồng, một bên là khoảnh khắc chớp nhoáng của sự tan vỡ, chia lìa. Lời thoại gợi lên rất rõ hình ảnh một người con gái bị hàm oan đang vô cùng đau khổ và bơ vơ trước cuộc đời vô định. Thị Kính đột ngột bị đẩy vào tình thế éo le: Biết đi đâu? Về đâu bây giờ? Đời người phụ nữ trong xã hội phong kiến tránh sao khỏi cảnh Lênh đênh chiếc bách giữa dòng?! Trong nỗi đau tình vợ chồng chia cắt, nỗi nhục khi phẩm giá bị chà đạp, sự ê chề khi khong bảo vệ được người cha già bị gia đình chồng sỉ nhục, Thị Kính vẫn giữ bản chất chân thật, hiền lành, giữ phép tắc luân lí của đạo dâu con. Người đọc càng xót thương, Thị Kính bao nhiêu thì càng căm ghét sự bất nhân bất nghĩa của gia đình Sùng bà bấy nhiêu.
Kết thúc đoạn trích nỗi oan hại chồng là cảnh Thị kính cúi lạy cha rồi nói lên nguyện vọng của mình là sẽ giả trai để bước vào cửa phật tu hành. Con đường giải thoát của Thị Kính có hai mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực là Thị kính xác định phải sống ở đời, mới mong tỏ rõ là người đoan chính. Mặt tiêu cực là nàng cho rằng mình khỏ do số kiếp đã định, do phận hẩm duyên ôi, nên tìm vào cửa Phật để lánh đời. Thái độ của Thị Kính thiếu cái khỏe khoắn, lạc quan, dũng cảm của những người vợ nghèo trong ca dao. Nàng không dám đứng lên chống lại những oan trái bất công, chưa đủ bản llinhx vượt qua hoàn cảnh nghiệt ngã, trái lại đã cam chịu bằng sự nhẫn nhục đáng thương. Phản ứng của Thị Kính mới chỉ dừng lại ở lời trách móc số phận và ước muốn lòng dạ ngay thẳng của mình được nhật nguyệt sáng soi.
Vở chèo Quan Âm Thị Kính nói chung và đoạn trích Nỗi oan hại chồng nói riêng là vở diễn và trích đoạn chèo rất tiêu biểu của sân khấu chèo truyền thống, thể hiện chân thực cuộc sống bi thảm, bế tắc của nhiều số phận, đồng thời ca ngợi phẩm chất tốt đẹp, cao quý của người phụ nữ nghèo trong xã hội phong kiến xưa kia.
4. Bài văn cảm nhận của em về nhân vật Thị Kính - mẫu 7
Trong lịch sử văn học nghệ thuật, chèo được coi là một trong những thể loại lâu đời nhất. Sức sống của chèo không chỉ tồn tại qua thời gian mà còn chứa đựng nhiều giá trị quý báu cho chúng ta. Trong số các vở chèo, “Quan Âm Thị Kính” là một trong những tác phẩm em yêu thích nhất vì những chi tiết và ý nghĩa sâu sắc của nó. Từ đó, chúng ta có thể học hỏi nhiều điều và nỗ lực hơn. Mở đầu tác phẩm, đoạn trích về nỗi oan hại chồng là nguyên nhân dẫn đến những đau khổ và hiểu lầm mà gia đình chồng gây ra cho Thị Kính.
Thị Kính là một người con gái đoan trang và hiền thục, luôn lo lắng cho cuộc sống gia đình và chăm sóc chu đáo. Một hôm, khi đang thêu thùa bên cạnh, cô phát hiện chồng có một sợi râu mọc ngược. Nghĩ rằng việc cắt đi sợi râu xấu đó sẽ mang lại may mắn, cô cầm kéo định cắt. Sự việc trở nên nghiêm trọng khi chồng tỉnh dậy, thấy vợ cầm kéo gần cổ mình và hốt hoảng kêu cứu. Sự nghi ngờ của chồng đã khiến cuộc sống của Thị Kính trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Nghe tiếng kêu của con trai, Sùng ông và Sùng bà lập tức chạy vào.
Sùng bà vốn nổi tiếng đanh đá và chua ngoa. Thay vì tìm hiểu sự việc, bà lập tức đổ lỗi cho con dâu với tội danh muốn giết chồng, một tội lớn trong xã hội cũ. Thị Kính không thể tự biện minh vì bị mẹ chồng liên tục quở trách. Chỉ đến lần thứ tư, khi cha chồng nghe nàng thanh minh, nhưng ông cũng chỉ là người sợ vợ và không có chính kiến. Xã hội phong kiến xem trọng nam giới và thường xem nhẹ phụ nữ, và trong gia đình này, cả hai người đàn ông đều yếu đuối và thiếu quyết đoán.
Thiện Sĩ, người chồng của Thị Kính, là nỗi đau lớn nhất của cô. Mặc dù cha mẹ chồng không hiểu nàng, nhưng Thiện Sĩ, người gần gũi nhất với cô, cũng không làm gì để bảo vệ nàng khỏi hiểu lầm. Đây chính là sự bất hạnh của phụ nữ trong xã hội cũ. Một câu nói hoặc hành động của chồng có thể đã làm thay đổi tình thế. Sự đau khổ của Thị Kính càng tăng khi bị mẹ chồng và chồng xa lánh. Cô không thể làm gì để cải thiện tình hình. Đoạn trích sử dụng các cặp từ ngữ đối lập như: “bấy lâu - bỗng” và “sắt cầm tịnh hảo - chăn gối lẻ loi” để làm rõ sự đau khổ tột cùng của người phụ nữ. Tình cảm vợ chồng bền lâu chỉ bị phá vỡ bởi một lý do không đáng có.
Đó là nỗi bi ai lớn nhất của người vợ. Thiện Sĩ, dù là người học thức, lẽ ra phải là người hiểu biết và giải quyết những vấn đề gia đình, nhưng lại đứng nhìn vợ mình bị mẹ mắng mà không hành động. Đây cũng là nỗi khổ của phụ nữ thời bấy giờ.
Tóm lại, đoạn trích này mang nhiều kịch tính, qua đó chúng ta hiểu hơn về số phận những người phụ nữ phải chịu đựng trong xã hội lúc bấy giờ, những nỗi khổ không thể chia sẻ mà chỉ có thể âm thầm chịu đựng.
5. Bài văn cảm nhận của em về nhân vật Thị Kính - mẫu 8
Trong các thể loại văn học nghệ thuật, chèo là một trong những hình thức lâu đời nhất. Sự sống động của chèo không chỉ kéo dài qua thời gian mà còn mang đến nhiều giá trị quý báu cho chúng ta. Trong các vở chèo mà em biết, “Quan âm Thị Kính” là một trong những tác phẩm em yêu thích nhất nhờ những chi tiết và ý nghĩa sâu sắc của nó. Từ đó, chúng ta học được nhiều bài học về những gì cần cố gắng và nỗ lực. Mở đầu tác phẩm là đoạn trích về nỗi oan của hai vợ chồng, nguyên nhân gây ra đau khổ và hiểu lầm của gia đình chồng đối với Thị Kính.
Về Thị Kính, cô là một người con gái hiền lành, đảm đang và luôn chăm sóc chu đáo cho gia đình nhà chồng. Một hôm, khi cô đang thêu thùa và chồng đang ngủ, cô phát hiện một sợi râu của chồng mọc ngược. Cô nghĩ rằng để làm đẹp cho chồng, cô cầm kéo định cắt sợi râu ấy. Từ đây, mọi hiểu lầm bắt đầu. Trong khi chồng đang ngủ say, bỗng tỉnh dậy và thấy vợ cầm kéo gần cổ mình, Thiện Sĩ, chồng Thị Kính, cảm thấy nghi ngờ và sợ hãi. Anh ta liền la lên, và sự nghi ngờ này đã khiến cuộc sống của Thị Kính trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Nghe tiếng kêu của con trai, Sùng ông và Sùng bà vội vã chạy vào.
Sùng bà là người cứng rắn và chua ngoa. Thấy tình hình như vậy, bà không hỏi rõ ngọn ngành mà lập tức lên án Thị Kính với tội danh muốn giết chồng, một tội rất nặng trong xã hội xưa. Thị Kính không thể tự bào chữa vì mỗi khi cô cố gắng giải thích thì bị mẹ chồng mắng mỏ. Phải đến lần thứ tư, khi cha chồng nghe những lời giải thích của cô, nhưng cũng chỉ là sự bất lực vì Sùng ông sợ vợ và luôn chịu sự chi phối của Sùng bà. Xã hội phong kiến xưa trọng nữ khinh nam, và trong gia đình này, cả hai người đàn ông đều nhu nhược, không có chính kiến.
Đối với Thị Kính, Thiện Sĩ là nỗi đau lớn nhất. Mặc dù cha mẹ chồng không hiểu cô, nhưng người chồng, vốn là người gần gũi nhất, lại không có hành động bảo vệ cô khỏi hiểu lầm. Đây là bất hạnh của phụ nữ trong xã hội xưa. Một câu nói hay hành động của người chồng có thể đã thay đổi tình hình. Sự đau khổ của Thị Kính gia tăng khi bị mẹ chồng và chồng hắt hủi. Từ một hành động tưởng như tốt, cô gặp phải biết bao nhiêu khó khăn. Đoạn trích sử dụng nhiều cặp từ đối lập như: “bấy lâu- bỗng”, “sắt cầm tịnh hảo- chăn gối lẻ loi” để nhấn mạnh nỗi đau tột cùng của người phụ nữ. Tình cảm vợ chồng bị đổ vỡ chỉ vì một lý do nhỏ nhặt.
Điều bi ai nhất đối với người vợ là cảm giác ấy. Chúng ta còn có thể cảm thấy Thiện Sĩ đáng trách. Là người học rộng, đáng lẽ ra chàng phải là người hiểu biết nhất trong gia đình và giải quyết các vấn đề quan trọng, nhưng chàng chỉ đứng nhìn vợ bị mẹ mắng mà không hành động. Đây là nỗi khổ của phụ nữ thời bấy giờ.
Tóm lại, đoạn trích này mang đến nhiều kịch tính và qua đó, chúng ta hiểu rõ hơn về số phận những người phụ nữ trong xã hội cũ. Đó là những nỗi khổ không thể chia sẻ với ai, chỉ có thể chịu đựng một mình.
6. Bài văn cảm nhận của em về nhân vật Thị Kính - mẫu 1
Trong nền văn học Việt Nam, hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn được các tác giả khai thác sâu sắc, thể hiện nỗi khổ và bất công mà họ phải chịu đựng. Nhân vật Thị Kính trong vở chèo Quan âm Thị Kính là một ví dụ điển hình cho số phận đau khổ của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” phản ánh rõ ràng tình cảnh ngặt nghèo của Thị Kính và những bi kịch không lối thoát mà cô phải đối mặt.
Đoạn trích nằm trong phần đầu của vở chèo “Quan âm Thị Kính”. Thị Kính là một cô gái nghèo, được gả cho Sùng Thiện Sĩ – con trai của gia đình giàu có. Một đêm khi đang may vá, nàng phát hiện ra một sợi râu mọc ngược trên mặt chồng và quyết định cắt bỏ. Khi Thiện Sĩ tỉnh dậy và thấy vợ cầm dao gần cổ mình, anh ta lập tức hô hoán, dẫn đến việc cha mẹ chồng đổ lỗi và đuổi Thị Kính về nhà cha mẹ đẻ. Những oan ức không thể giải bày đã khiến Thị Kính rơi vào bi kịch “Nỗi oan hại chồng”.
Dù xuất thân trong gia đình nghèo, Thị Kính vẫn là người hiền lành, nhân hậu và hết lòng yêu thương chồng. Cô chăm sóc chồng chu đáo, dù khó khăn cũng không quản ngại. Thế nhưng, chỉ vì chiếc râu mọc ngược của chồng mà cô bị nghi ngờ, dẫn đến một loạt sóng gió trong cuộc sống của mình. Tình yêu và sự hy sinh của Thị Kính không được đền đáp, và những hiểu lầm đã làm cuộc đời cô trở nên đau khổ và bất hạnh.
Trước bi kịch, Thị Kính bị gia đình chồng chỉ trích, ruồng bỏ. Lời van xin của cô, như “Oan cho con lắm mẹ ơi” và “Mẹ xét tình con, oan cho con lắm mẹ ơi”, đầy sự đau đớn và xót xa. Sự tàn nhẫn của Sùng bà càng làm tăng nỗi khổ của cô, khi nàng không thể bày tỏ hết nỗi lòng mình. Cô không chỉ làm cha mẹ đẻ phải đau khổ, mà còn khiến họ phải chịu đựng sự khinh bỉ và ruồng rẫy. Nỗi đau này thật sự làm người ta phải xót xa.
Hoàn cảnh của Thị Kính tương tự như nỗi oan của Vũ Nương trong truyện người con gái Nam Xương, khi mà chỉ vì hiểu lầm mà Vũ Nương chọn cái chết để giải thoát. Nỗi oan của Thị Kính và của nhiều phụ nữ trong xã hội phong kiến là kết quả của sự bất công và áp bức, khiến họ không thể bày tỏ tâm tư của mình. Thị Kính, dù chịu nhiều sỉ nhục, vẫn tìm cách giải thoát bản thân bằng cách đóng giả nam nhi, xuất gia tìm về chốn bình yên. Điều này thể hiện nỗi khổ và bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ. Tác phẩm phản ánh mạnh mẽ sự lên án đối với xã hội phong kiến và những bất công mà phụ nữ phải chịu đựng.
7. Bài văn cảm nhận của em về nhân vật Thị Kính - mẫu 2
Trong vở chèo Quan Âm Thị Kính, đoạn “Nỗi oan hại chồng” là một phần quan trọng giúp chúng ta khám phá những đặc trưng nổi bật của tác phẩm, đặc biệt là về mặt kịch bản văn học. Đây là bi kịch đầu tiên trong cuộc đời của nhân vật Thị Kính, trung tâm của câu chuyện.
Thị Kính xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo và được gả cho Sùng Thiện Sĩ – một thư sinh khôi ngô, học hành chăm chỉ. Một lần khi Thiện Sĩ ngủ say vì mệt mỏi, Thị Kính phát hiện trên cằm chồng có một sợi râu mọc ngược. Nàng dùng dao cắt sợi râu, nhưng khi Thiện Sĩ tỉnh dậy và thấy vợ cầm dao gần cổ mình, anh ta kêu la và nghi ngờ vợ có ý định giết mình. Thị Kính bị buộc tội nặng nề, bị chồng ruồng bỏ và xã hội chỉ trích. Nàng liên tục khóc lóc, van xin, nhưng mọi nỗ lực của nàng đều vô ích. Nỗi oan của nàng chỉ có thể kêu trời mà thôi.
Khi bị vu oan tội giết chồng, Thị Kính chịu sự tủi nhục nặng nề từ mẹ chồng. Mặc dù nàng khóc lóc van xin, mẹ chồng vẫn quyết định đuổi nàng về nhà cha mẹ đẻ. Đây là một sự đau khổ tột cùng của Thị Kính, người phụ nữ nghèo trong xã hội phong kiến. Dù có được gả cho nhà giàu, nàng vẫn bị khinh bỉ, coi thường. Ngay cả cha nàng cũng bị gia đình nhà chồng coi thường. Cả cha và con cùng khóc, nỗi đau này thật sự quá lớn.
Thị Kính kêu gọi Thiện Sĩ nhưng không nhận được sự đồng cảm từ anh. Cha của Thị Kính, Mãng Ông, thương xót con gái và khuyên nàng trở về nhà với cha. Cuối đoạn trích, Thị Kính than thở về số phận đầy đau đớn, trách móc vận mệnh và gia đình chồng. Nàng cầu mong ánh sáng của nhật nguyệt soi rọi nỗi oan, và quyết định thay đổi hình dạng, đi tu hành để tìm bình yên. Đây là sự phản ánh mạnh mẽ nỗi bế tắc và sự tuyệt vọng của Thị Kính và những người cùng cảnh ngộ, đồng thời thể hiện ước mơ về một xã hội tốt đẹp hơn. Đoạn trích không chỉ phản ánh số phận của phụ nữ xưa mà còn là tiếng nói lên án xã hội bất công thời bấy giờ.
8. Bài văn cảm nhận của em về nhân vật Thị Kính - mẫu 4
Trong xã hội xưa, người phụ nữ thường phải chịu đựng sự bất công và khổ cực mà không thể tâm sự cùng ai. Tác phẩm ”Quan Âm Thị Kính”, đặc biệt là đoạn trích ”Nỗi oan hại chồng”, đã khắc họa rõ nét hình ảnh người phụ nữ trong những bi kịch cuộc đời của họ. Qua đó, tác phẩm phê phán xã hội cũ một cách sâu sắc.
Thị Kính, sinh ra trong một gia đình nghèo, được gả cho Sùng Thiện Sĩ, một thư sinh của gia đình khá giả. Một đêm, khi Thiện Sĩ ngủ vì mệt mỏi, Thị Kính phát hiện một sợi râu mọc ngược trên cằm chồng và dùng dao cắt bỏ. Thiện Sĩ tỉnh dậy, nghi ngờ Thị Kính có ý định giết mình, và lập tức kêu la. Gia đình chồng không phân xử rõ ràng đã buộc tội Thị Kính và đuổi nàng về nhà cha. Mặc dù Thị Kính cố gắng giải thích, nàng vẫn quyết định từ bỏ cha mẹ, cải trang nam nhi để đi tu hành.
Dù xuất thân nghèo khó, Thị Kính vẫn là người phụ nữ đoan trang, nhân hậu và yêu thương chồng. Đây là phẩm hạnh chung của phụ nữ thời xưa. Tuy nhiên, trong xã hội bất công, nàng bị vu oan và không thể tự bào chữa. Chồng bỏ rơi, xã hội thờ ơ, nàng phải chịu đựng sự đối xử tệ bạc và oan ức. Mặc dù bị đối xử như vậy, nàng vẫn không ngừng van xin, nhưng đáp lại là sự mắng chửi tàn nhẫn. Đây chính là số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ: yếu đuối và dễ bị chà đạp. Mẹ chồng, thay vì thông cảm, cũng quyết định đuổi nàng về nhà mẹ đẻ, khiến Thị Kính trải qua sự đau khổ tột cùng.
Mãng Ông, người duy nhất hiểu nỗi oan của Thị Kính, cũng không có sức ảnh hưởng trong xã hội xưa, dẫn đến việc xã hội vẫn chỉ trích nàng. Mãng Ông than thở: ”Con ơi/ Dù oan con nhẫn chẳng oan/ Xa xôi cha biết nỗi con thế nào?” Khi không được hiểu và thông cảm, Thị Kính cầu mong ”Nhật nguyệt rang soi” cho nỗi oan của mình và quyết định cải trang thành nam tử để đi tu hành. Hành động này thể hiện sự bế tắc và tuyệt vọng không chỉ của riêng Thị Kính mà còn của một tầng lớp xã hội nhỏ bé trong xã hội xưa, phê phán xã hội thối nát và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn thông qua sự nương nhờ cửa Phật.
Qua nhân vật Thị Kính, chúng ta nhận thấy số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ với nhiều bất công. Đồng thời, tác phẩm thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc và lòng thương cảm đối với những số phận bất hạnh.