1. Phân tích vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' - Mẫu 4
Ưu bách niên trung tri hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?).
Hào kiệt xưa có thể xem là vượt thời gian nhưng luôn tự nhận mình vượt trội hơn mọi người, không chịu chung mâm với kẻ tầm thường. Tuy nhiên, Phan Bội Châu lại có cái nhìn khác biệt. Ông không chỉ ca ngợi cá nhân anh hùng, mà còn khẳng định mình không phải là duy nhất. Ý thơ trong câu thứ ba có nhiều điểm tương đồng với Nguyền Công Trứ.
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải cỏ danh gì với núi sông.
Nhưng câu thơ thứ tư lại mang một sắc thái khác biệt. Tác giả tự coi mình ngang hàng với các cá nhân khác, mặc dù chỉ là một câu nghi vấn: Sau này muôn thuở, có ai đâu? Điều này chứng tỏ Phan Bội Châu không xem mình là duy nhất. Dù là nhà nho, nhưng Phan Bội Châu không giữ chặt những quan điểm truyền thống, mà vẫn mở lòng với trào lưu đổi mới. Đó là sự đổi mới về tư tưởng nhận thức.
Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.
Nhà thơ đặt số phận quốc gia bên cạnh số phận cá nhân, điều này không phải mới mẻ với Phan Bội Châu. Tuy nhiên, ít ai diễn đạt cảm xúc sâu sắc như ông. Khi nước đã mất, anh hùng phải chịu nhục. Để rửa nhục, anh hùng phải đứng lên, điều đó mới xứng đáng với danh hiệu anh hùng. Việc học cũng cần phải xem xét lại. Nếu Nguyên Khuyến hay Tú Xương chỉ thể hiện sự cảm khái về sự tàn lụi của đạo thánh hiền, thì Phan Bội Châu chỉ trích một cách gay gắt. Sách vở thánh hiền nếu vô dụng thì chỉ là sự hoài nghi. Sự đổi mới tư tưởng dẫn đến sự đổi mới hành động:
Muốn vượt biển đông theo cách gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
(Nguyện trục trường phong đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phỉ).
Sóng gió ở đây không phải chỉ là khó khăn thông thường, mà là sóng to gió lớn (phong ba bão táp). Người hào kiệt không sợ sóng gió mà còn coi đó là thử thách để thể hiện bản lĩnh. Hai câu thơ cuối thể hiện ý chí kiên cường của Phan Bội Châu, khát khao ra đi bất chấp mọi khó khăn. Câu thơ gợi lên một tinh thần hăng hái, không chút lo âu về hành trình dài hay thử thách xa lạ. Nhiệt huyết cứu nước đã lấn át mọi lo lắng. Việc vượt Biển Đông ngầm ám chỉ đến Nhật Bản, quốc gia đã đổi mới và mạnh mẽ, thắng cả Nga, là hình mẫu cho các dân tộc khác.
Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong tác phẩm nổi bật qua chí làm trai của tác giả, thể hiện khát vọng độc lập và tự do của các chí sĩ yêu nước thời xưa.
Trong bối cảnh đất nước lúc bấy giờ, vua như tượng gỗ, dân như trâu, sự xuất hiện của Phan Bội Châu với sứ mệnh gánh vác sơn hà đã thổi vào lịch sử văn học một luồng sinh khí hào hùng chưa từng có. Qua vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình, Phan Bội Châu không chỉ vang danh chí nam nhi, mà còn nối liền lý tưởng cao đẹp của nhà nho chân chính với lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa của người cộng sản, như Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
2. Phân tích vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' - Mẫu 5
Trong lý luận văn học, nhân vật trữ tình thường được hiểu là hình tượng thể hiện trực tiếp những cảm xúc và tâm trạng của tác giả trong tác phẩm. Khác với nhân vật tự sự, nhân vật trữ tình không có hình dáng, hành động cụ thể, mà chỉ bộc lộ cảm xúc và suy nghĩ. Trong bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương', nhân vật trữ tình chính là nhà thơ Phan Bội Châu. Do đó, khi nói về vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong bài thơ này, chính là nói về vẻ đẹp tâm hồn của tác giả. Phan Bội Châu rất tâm đắc với câu thơ của Viên Mai (Trung Quốc):
Mỗi bữa không quên ghi sử sách,
Lập thân thấp nhất là văn chương.
Câu này có thể hiểu là: Phan Bội Châu không coi văn chương là mục đích sống chính. Tuy nhiên, vì yêu cầu cách mạng, ông đã dành hơn nửa thế kỷ để viết bằng cả chữ Hán và chữ Nôm, tạo ra một khối lượng tác phẩm đồ sộ, với hàng trăm bài thơ, bài văn và nhiều cuốn sách. Bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' là một trong những tác phẩm tiêu biểu, phản ánh vẻ đẹp tâm hồn của tác giả.
Thơ của Phan Bội Châu phản ánh cuộc đời cách mạng của ông, từ lúc hưng phấn đến lúc thất bại. Để hiểu được vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong bài thơ này, cần phải nắm rõ hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Vào cuối thế kỷ XIX, phong trào cần Vương đã thất bại sau cái chết của Cao Thắng và Phan Đình Phùng. Mặc dù tiếng súng nghĩa quân Hoàng Hoa Thám vẫn vang vọng trên rừng Yên Thế, nhưng thực tế, giặc đã chiếm ưu thế. Đất nước trở nên tối tăm. Tuy nhiên, nhờ truyền thống quật cường và ảnh hưởng của các phong trào từ nước ngoài, đầu thế kỷ XX, một lớp nhà nho đầy nhiệt huyết đã thức tỉnh, tham gia vào các phong trào như Duy Tân, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, và chống thuế ở Trung Kỳ. Họ đã quyết tâm đoạn tuyệt với lối học cũ để tìm kiếm lý tưởng mới và xuất dương, đi Tàu, Nhật, Xiêm với mục tiêu khôi phục nước nhà. Năm 1905, Phan Bội Châu cùng Tiểu La Nguyễn Thành lập tổ chức Duy Tân Hội và chia tay để sang Trung Quốc và Nhật Bản, tìm kiếm sự hỗ trợ cho phong trào cách mạng Việt Nam.
Trước khi lên đường, Phan Bội Châu đã sáng tác bài thơ 'Xuất dương lưu biệt' bằng chữ Hán theo thể thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Bài thơ nhanh chóng được phổ biến và dịch ra tiếng Việt, với bản dịch của Tôn Quang Phiệt là một trong những bản dịch thành công. 'Lưu biệt khi xuất dương' thể hiện rõ tư thế hào hùng và quyết tâm cao độ của Phan Bội Châu khi ra nước ngoài tìm đường cứu nước.
Bài thơ mở đầu với một lý tưởng sống lớn lao: làm trai phải làm được những việc vĩ đại, chủ động xoay chuyển đất trời. Ý tưởng này cũng đã được Phan Bội Châu thể hiện trong bài thơ 'Chơi xuân':
Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi,
Sinh thời thế phải xoay nên thời thế.
Khát vọng làm việc lớn đã được Phan Bội Châu ấp ủ từ sớm. Sau này, ông kể lại trong tác phẩm tự thuật rằng từ bé đã không muốn sống theo cách thông thường. Đến đầu thế kỷ XX, khi có điều kiện xuất dương cứu nước, khát vọng này mới được thể hiện đầy đủ. Chí làm trai cũng đã được nhiều văn nhân nhắc đến từ xa xưa như Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Công Trứ:
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Chí làm trai là sức mạnh tinh thần giúp nhiều người lập nên công tích vang dội. Đối với Phan Bội Châu, thực hiện chí nam nhi là chủ động tiến hành sự nghiệp cứu nước. Trong hoàn cảnh bài thơ ra đời, việc khẳng định chí nam nhi càng có ý nghĩa cao cả.
Hai câu thực của bài thơ nêu rõ ý tưởng: 'Giữa khoảng trăm năm này cần có ta, không lẽ ngàn năm sau lại không có ai để lại tên tuổi?' Câu thơ khẳng định trách nhiệm đối với hiện tại và nghĩa vụ với lịch sử, thể hiện tư thế của người có chí khí lớn, vươn tới đỉnh cao lịch sử. Hai câu luận tiếp theo:
Non sông đã chết, sống chí nhục,
Hiền thánh đã vắng thì đọc sách cũng ngu thôi.
Ở đây, số phận cá nhân gắn liền với số phận đất nước, thể hiện tư thế sử thi hùng vĩ, không băn khoăn về quan hệ cá nhân. Nhân vật trữ tình nói cho cả một thế hệ, cả một dân tộc đang theo đuổi lý tưởng cứu nước mới. Bài thơ kết bằng hai câu tuyệt đẹp và đầy cảm hứng lãng mạn:
Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.
Hình ảnh thơ thể hiện sự vươn lên mạnh mẽ, lãng mạn và hào hùng. 'Lưu biệt khi xuất dương' là tác phẩm tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách của Phan Bội Châu giai đoạn đầu cuộc đời cách mạng, mang khẩu khí của bậc trượng phu và có giá trị khích lệ mạnh mẽ đối với thế hệ thanh niên yêu nước đầu thế kỷ XX.
3. Phân tích vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' - mẫu 6
Phan Bội Châu không chỉ nổi bật như một nhà cách mạng mà còn được biết đến với vai trò một thi sĩ xuất sắc trong những năm đầu thế kỉ XX. Thơ của ông trở thành một công cụ mạnh mẽ lay động hàng triệu trái tim yêu nước. Bài thơ “Xuất dương lưu biệt” là một ví dụ tiêu biểu. Trong thi phẩm này, nhân vật trữ tình hiện lên rõ nét, phản ánh sâu sắc tư tưởng của tác giả.
Nhân vật trữ tình không hoàn toàn đồng nhất với tác giả, nhưng trong bài thơ này, hình ảnh nhân vật trữ tình và cái tôi của tác giả hòa quyện chặt chẽ. Vì vậy, nhân vật trữ tình trong bài thơ thể hiện rõ chí hướng của tác giả, một người đàn ông với tư tưởng tiến bộ và mới mẻ:
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”
Đối với một người đàn ông, phải làm những việc khác biệt. Ca dao có câu: “Làm trai cho đáng nên trai/ Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng” hay Nguyễn Công Trứ cũng từng khẳng định: “Làm trai đứng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. Phan Bội Châu cũng suy tư về chí làm trai của mình. Theo ông, làm trai là phải sống chủ động, không để số phận định đoạt mà có thể thay đổi “càn khôn”. Khi nhận thức rõ điều đó, nhân vật trữ tình cũng nhận thức trách nhiệm và vị trí của mình:
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?”
Nhận ra vị trí của mình, tác giả tuyên bố dõng dạc: “Giữa khoảng trăm năm này, phải có ta chứ”, nghĩa là phải lưu lại dấu ấn của mình cho các thế hệ sau. Sống chính là phải cống hiến cho quốc gia, dân tộc, điều này càng làm rõ quan niệm làm trai của tác giả.
Để thực hiện điều đó, người chí sĩ phải hiểu thời thế, nhận thức trách nhiệm bản thân và bối cảnh lịch sử. Nhân vật trữ tình đã sớm nhận thức rõ hiện thực:
“Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài”
Khi đất nước mất chủ quyền, phong trào Cần Vương thất bại, “Thánh hiền đã vắng thì có đọc sách cũng ngu thôi!” Tác giả bộc lộ nỗi đau về vận mệnh quốc gia và trăn trở về trách nhiệm của mình trước thời cuộc. Mặc dù là một nhà Nho, nhưng ông đã chỉ ra sự lỗi thời của những giá trị cũ. Sự tiếp xúc với tư tưởng mới đã thúc đẩy nhân vật trữ tình hướng đến cuộc “cách mạng” mới, ra đi tìm đường cứu nước:
“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”
Ba từ “tiễn ra khơi” trong bản dịch không thể hiện hết vẻ kì vĩ của hình ảnh trong nguyên tác. “Mong muốn đuổi theo ngọn gió dài đi qua biển Đông/ Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên” tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp về cuộc lên đường. Đây là vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của nhân vật trữ tình với khát vọng vượt biển Đông cùng gió mới và sóng bạc dâng trào. Nhân vật trữ tình đã hoàn toàn bộc lộ vẻ đẹp của mình, là một cái tôi đầy trách nhiệm và hào hùng lãng mạn.
Đằng sau những quan niệm và khát vọng đó là tình yêu nước sâu sắc. Tất cả những suy tư về chí làm trai, vị thế và khao khát hành động đều nhằm thể hiện trái tim yêu nước cháy bỏng. Trong hoàn cảnh đất nước nguy nan, điều này càng đáng trân trọng. Giọng điệu của nhân vật trữ tình thay đổi từ lãng mạn, hào hùng khi khẳng định vị thế, đến đau đớn trước nỗi mất nước, rồi quyết liệt trước những giá trị lỗi thời. Tác giả đã xây dựng hình ảnh một nhà cách mạng với tinh thần trách nhiệm lớn lao, tư tưởng mạnh mẽ, khí phách ngang tàng và khát vọng sục sôi. Đây cũng là tiếng lòng thiết tha của tác giả.
4. Phân tích vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' - mẫu 7
Bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' vẽ nên một hình tượng nhân vật trữ tình vừa hào hùng vừa đẹp đẽ, gắn liền với lý tưởng tự khẳng định và lòng yêu nước sâu sắc:
Làm trai phải nổi bật trong đời
Chứ không để trời đất tự xoay chuyển
Trong khoảng trăm năm phải có ta
Sau này muôn thuở có ai khác?
Nước non đã lụi tàn, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học hành cũng vô ích
Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn bước ra khơi.
Bài thơ gốc viết bằng chữ Hán có tên 'Xuất dương lưu biệt'. Như đã biết, sau khi thành lập hội Duy Tân (1905), Phan Bội Châu đã nỗ lực tìm kiếm viện trợ từ nước ngoài để đào tạo cán bộ cho phong trào yêu nước. Bài thơ được sáng tác trong buổi chia tay với các đồng chí trước khi tác giả lên đường. Trên đây là bản dịch thơ của Tôn Quang Phiệt. Nhân vật trữ tình trong bài thơ thể hiện khát vọng lớn lao: Làm trai phải nổi bật trong đời, không để trời đất tự xoay chuyển.
Cái tôi cá nhân của nhân vật trữ tình thể hiện rõ ràng. ‘Làm trai’ là ý thức về trách nhiệm của người đàn ông trong bối cảnh xã hội. ‘Làm trai phải nổi bật trong đời!’ là phải có những hành động khác biệt, vượt lên trên những điều tầm thường. Như Nguyễn Công Trứ từng nói, đó là ‘Phải có danh gì với núi sông’. Phan Bội Châu đã ghi dấu ấn với non sông bằng khát vọng làm thay đổi trời đất: ‘Chứ không để trời đất tự xoay chuyển’. Đó là sự khẳng định chí làm trai, và cũng là khẳng định một cái ‘Tôi’ vĩ đại:
Trong khoảng trăm năm phải có ta
Sau này muôn thuở có ai khác?
Lời khẳng định này chỉ có thể xuất phát từ một bậc anh hùng. Trong trăm năm cuộc đời, phải có sự đóng góp của ta. Câu thơ thể hiện vai trò cá nhân đối với vận mệnh quốc gia và cũng là sự thể hiện một cái ‘tôi’ đầy trách nhiệm, sẵn sàng gánh vác sự nghiệp lớn lao. Trong bối cảnh xã hội đầu thế kỷ XX, khi nhiều người chỉ biết ‘nằm co’ để thích nghi, sự kiên cường của cái tôi này thật đáng trân trọng.
Tin vào bản thân, nhân vật trữ tình còn tin vào tương lai: ‘Sau này muôn thuở có ai khác?’ Lời thơ vừa như một câu hỏi vừa như một khẳng định rằng, sẽ có người tiếp bước, lưu danh muôn thuở vì dân tộc. Nếu không phải là ta thì sẽ có một người khác. Câu thơ thể hiện niềm tin vào tương lai, trao quyền cho các thế hệ tiếp theo. Bàn về chí làm trai, nhà thơ đặt nhân vật trữ tình trong hoàn cảnh cụ thể của đất nước:
Nước non đã lụi tàn, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học hành cũng vô ích.
Làm rõ lẽ sống chết để khẳng định tư tưởng mới mẻ của nhân vật trữ tình. ‘Nước non đã lụi tàn, sống thêm nhục’. Nếu chí làm trai gắn liền với trách nhiệm xoay chuyển trời đất thì việc nước nhà suy tàn sẽ khiến việc sống thêm nhục. Nhận trách nhiệm chung, đó là biểu hiện cao độ của lòng tự trọng con người. Lòng tự trọng này được thể hiện qua nỗi đau mất nước và nhục quốc thể.
Đặc biệt, tư tưởng của nhân vật trữ tình đối với sự nghiệp học hành là vô cùng mới mẻ: ‘Hiền thánh còn đâu, học hành cũng vô ích’. Tư tưởng này khẳng định rằng, đạo Nho và các quan điểm của nó đã lỗi thời và không còn phù hợp. Trong thời đại mới, cần bỏ bút nghiên và nắm vũ khí để bảo vệ lòng tự tôn dân tộc. Tư tưởng này rất mới mẻ, táo bạo, thoát khỏi lề lối cũ của tư tưởng Nho gia và thúc đẩy con người tranh đấu.
Vậy phải làm gì để tranh đấu?
Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn bước ra khơi.
Nhân vật trữ tình không chỉ hiện lên với tư tưởng và ý chí mà còn trở thành hình ảnh của hành động. Câu thơ khắc họa một cuộc chia tay hào hùng. Hình ảnh người ra đi vĩ đại, ‘vượt biển Đông theo cánh gió’ để ‘muôn trùng sóng bạc tiễn bước ra khơi’. Phải có ‘biển Đông’ và ‘cánh gió’ mới xứng đáng với sự kỳ vĩ của ước mơ người anh hùng. ‘Muôn trùng sóng bạc’ của quê hương tiễn đưa người anh hùng ra đi vì lý tưởng lớn. Bài thơ kết thúc nhưng mở ra hy vọng cho tương lai đất nước dựa vào cuộc ra đi hào hùng của bậc anh hùng.
Hình ảnh nhân vật trữ tình trong bài thơ hiện lên với nhiều phương diện: tư tưởng, khát vọng, hành động. Qua đó thể hiện những quan điểm tiến bộ về nhân sinh quan. Bài thơ kết thúc với hình ảnh người ra đi đẹp hào hùng, gieo vào lòng người sự hy vọng.
Nhờ hóa thân vào nhân vật trữ tình, Phan Bội Châu thể hiện khát vọng cá nhân và sự thay đổi trong lịch sử. Với nhà thơ, thơ chính là con người và con người cũng như thơ. Nhắc đến thơ, ta càng thêm ngưỡng mộ nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu.
5. Phân tích vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' - mẫu 8
Tố Hữu từng viết trong bài thơ “Theo chân Bác”:
“Phan Bội Châu dậy sóng bài thơ
Những bạn bè xa xứ dãi dầu”
Nhắc đến Phan Bội Châu là nhắc đến một nhà cách mạng vĩ đại với những quan điểm mới mẻ về độc lập dân tộc. Đối với nhiều nhà văn, nhà thơ, tác phẩm văn học chính là cuộc đời của họ. Tuy nhiên, Phan Bội Châu lại sử dụng ngòi bút của mình như một công cụ để phục vụ cách mạng, thể hiện lòng yêu nước và cái “tôi” của một chí sĩ cách mạng. Trong kho tàng tác phẩm phong phú gắn liền với tinh thần dân tộc của ông, bài thơ “Xuất dương lưu biệt” nổi bật với ước mơ vĩ đại của ông khi rời khỏi quê hương. Tác phẩm phản ánh rõ nét hình tượng nhân vật trữ tình, phản ánh cuộc đời của một nhà Nho dám phá cách, không đi theo lối mòn cũ.
Nhân vật trữ tình trong một tác phẩm văn học có thể là tác giả trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua hóa thân vào nhân vật để thể hiện cảm xúc. Đôi khi, nhân vật trữ tình chỉ được biểu hiện qua câu thơ, ý chữ mà không có đối tượng cụ thể. Dù thế nào, đây là một nét đẹp nghệ thuật trong thơ ca, được các nhà thơ sử dụng để diễn tả tâm trạng. Trong “Xuất dương lưu biệt”, nhân vật trữ tình không ai khác chính là tác giả. Nỗi lòng của Phan Bội Châu về vận mệnh đất nước và con người thể hiện rõ qua từng câu thơ, nhịp điệu, và các biện pháp tu từ. Với vai trò là người tiên phong trong văn chương trữ tình cách mạng, bài thơ của ông mang đến vẻ đẹp vừa lãng mạn vừa hào hùng, thể hiện lòng yêu nước cháy bỏng.
Đây là cảm xúc thể hiện qua hai câu thơ đầu với một quan niệm mới về chí làm trai và vị thế của con người trong vũ trụ. Là một đấng nam nhi, người thanh niên phải sống sao cho phi thường và hiển hách. Những khó khăn, thử thách không thể làm chùn bước những người nắm giữ vận mệnh quốc gia. Cần phải đối mặt với chúng, xoay chuyển vận mệnh, chứ không thể sống an phận, nhàn hạ. Điều này được khẳng định qua cuộc đời của Phan Bội Châu – người anh hùng, người được mến mộ vì sự hy sinh vì độc lập. Ông dùng tài năng văn chương của mình không chỉ để ghi dấu ấn lịch sử mà còn để tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi sự thống trị của đế quốc. Ông cầm bút vì cách mạng, coi đó là một phần trong công cuộc tuyên truyền và khơi dậy lòng yêu nước. Chính điều này chứng minh rằng ông đã sử dụng chính mình làm hình mẫu cho quan niệm mới về chí làm trai phục vụ Tổ quốc và nhân dân.
“Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng khứa càng khôn tự chuyển di”
Hai câu thơ này với giọng điệu mạnh mẽ, từ ngữ quyết liệt, thể hiện sự thách thức của người thanh niên trong thời đại mới. Mỗi người đều gánh vác những trách nhiệm khác nhau, và trách nhiệm của người thanh niên là kết nối con đường của mình với hướng đi của quê hương, dẫn dắt Tổ quốc đến tương lai tươi sáng. Đó là vẻ đẹp của nhân vật trữ tình qua hai câu thơ thực:
“U bách niên trung tư hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”
Qua phép đối “Ư bách niên trung” – “Khởi thiên tải hậu” và “hữu” – “vô”, tác giả khẳng định vai trò của bản thân trong cuộc thế, đồng thời bày tỏ khát vọng về sự ghi nhận của thế hệ mai sau. Trong trăm năm tồn tại của mình, ông đã cống hiến và giúp ích cho đời, mặc dù đất nước chưa hoàn toàn thoát khỏi ách đô hộ, nhưng đã thắp lên ngọn lửa hy vọng độc lập. Khi ông không còn nữa, liệu tương lai còn được trông đợi? Câu hỏi này thể hiện sự lo lắng và khích lệ tinh thần yêu nước của thế hệ trẻ. Trong bản dịch thơ, từ “ta” được dịch thành “tớ”, mang chút hóm hỉnh và lạc quan của tuổi trẻ nhưng lại thiếu đi sự nghiêm túc trong khẳng định tư thế hiên ngang của câu thơ chữ Hán. Đoạn thơ thể hiện ước mơ cao cả và niềm tin của một con người sống với trách nhiệm lớn, sẵn sàng chịu trách nhiệm với bản thân và với đất nước.
Vẻ đẹp của nhân vật trữ tình tiếp tục được thể hiện qua thái độ của tác giả trước hoàn cảnh đất nước và những tín điều xưa cũ. Phan Bội Châu sống trong thời kỳ nước mất nhà tan. Dù không chứng kiến những trận chiến đẫm máu, ông vẫn cảm nhận sâu sắc nỗi đau của nhân dân. Cũng như Trần Hưng Đạo đã viết: “ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa.” Tác giả cũng đau xót vì hiện thực phũ phàng:
“Giang sơn tử sĩ sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si!”
Nỗi nhục này, ai sẽ hiểu cho ông? Vinh và nhục, sống và chết, ranh giới mỏng manh đặt ra thách thức cho việc khôi phục độc lập và hưng thịnh của đất nước. Sự tồn vong của dân tộc nặng nề trong lòng ông, và khi chưa giành lại tự do, ông vẫn cảm thấy khổ sở. Tấm lòng đó thổi bùng ý chí sắt thép không chịu sống nô lệ, đúng với truyền thống đạo lý ngàn đời của tổ tiên. Trong thời kỳ loạn lạc, sách vở thánh hiền không còn giúp ích. Nhà thơ cần thay đổi tư tưởng, tìm con đường mới để giải quyết vấn đề cấp bách. Từ đó, tác giả kết thúc bài thơ bằng hai câu diễn tả tư thế và khát vọng khi lên đường ra đi:
“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”
Những hình ảnh phóng đại của tác giả tạo nên sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người, cùng thực hiện lý tưởng lớn lao. Các hình ảnh trong bản dịch thơ như “bể Đông”, “cánh gió”, “muôn trùng sóng bạc” mang vẻ đẹp lãng mạn nhưng giảm khí thế hùng mạnh của thơ chữ Hán. Cụm từ “nhất tề phi” vẽ nên hình ảnh con người bay lên vượt qua thực tại, chạm đến vũ trụ bao la. Điều này thể hiện rõ nét tính lãng mạn và sử thi, gắn liền với văn học hiện đại và yếu tố cá nhân, cộng đồng. Nét hiện đại này làm bài thơ thêm hấp dẫn và phát huy hiệu quả trong việc khích lệ tinh thần yêu nước, sống vì Tổ quốc và nhân dân.
Vào những năm đầu thế kỉ XX, khi đất nước chịu ách thực dân nửa phong kiến, Phan Bội Châu lãnh đạo nhiều phong trào cứu nước mới. Bài thơ “Lưu biệt khi xuất dương” là lời chia tay trước khi lên đường đến chân trời mới, tiếp nối truyền thống yêu nước trong văn học trung đại và mở ra những ý tưởng độc đáo. Sự hòa quyện đó làm nổi bật vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trữ tình trong bài. Tác phẩm hoàn thành tốt vai trò của nó khi khuyến khích thanh niên tham gia giải phóng dân tộc, thực hiện trách nhiệm “làm trai” như Nguyễn Công Trứ từng nói:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”.
6. Bài phân tích vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' - mẫu 1
Bài thơ “Xuất dương lưu biệt” không chỉ là một tác phẩm thơ ca xuất sắc, mà còn đánh dấu một bước quan trọng trong sự nghiệp cứu nước và phong trào văn học cổ vũ lòng yêu nước, đấu tranh cách mạng của nhà chí sĩ Phan Bội Châu. Bài thơ được viết trong thời điểm tác giả chia tay bạn bè để lên đường. “Xuất dương lưu biệt” là bản hùng ca hào sảng về chí nam nhi, mang vẻ đẹp lãng mạn và hùng tráng của nhân vật trữ tình.
Bài thơ như là khoảnh khắc con hổ được trở về rừng, con cá kình được ra biển khơi, và con đại bàng được vươn cánh, dù trước mắt còn nhiều thử thách và nguy hiểm, nhưng chúng có niềm hạnh phúc được tự do bay lượn. Sau nhiều năm tham gia các phong trào yêu nước mà chưa đạt được kết quả như mong muốn, Phan Bội Châu đã suy tư tìm ra con đường cứu nước mới, để Việt Nam trở nên hùng mạnh như các quốc gia Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản). Năm 1905, ông từ biệt bạn bè để sang Nhật cầu viện. “Xuất dương lưu biệt” là những lời thể hiện quyết tâm của ông trước khi lên đường:
“Làm trai há phải lạ trên đời.
Há đế càn không tự chuyển dời.”
Câu thơ thể hiện quan niệm về chí nam nhi của Phan Bội Châu, rằng làm trai phải có sự nghiệp anh hùng. Quan điểm này cũng được phản ánh trong bài thơ “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thỉnh nhân gian thuyết Vũ hầu.”
Hoặc trong thơ của Nguyễn Công Trứ:
“Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển.”
Quan niệm của Phan Bội Châu tương tự các nhà nho xưa, rằng sống trong trời đất, phải có điều gì đó để làm, nhưng ở câu thơ thứ hai, ông đã có sự chuyển mình: không còn để trời đất xoay vần mà bản thân mình cũng có thể xoay vần được. Phan Bội Châu đã vượt ra khỏi tư tưởng thiên mệnh của người xưa. Đặng Dung, một anh hùng tiết tháo, đã nhận ra thời vận (ý trời) quyết định thành bại, không phải chỉ do tài năng cá nhân:
“Thời lai đồ điếu thành công dị.
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.”
Phan Bội Châu thì lại đặt con người ngang hàng với càn khôn. Càn khôn có thể xoay vần, tại sao con người lại không thể? Ông không đề cập đến việc thành bại, nhưng ý chí dám xoay vần càn khôn của ông không chỉ thể hiện sự ngang tàng, mà còn tự tin và lạc quan. Đây là bước chuyển mình quan trọng để người chí sĩ thực hiện chí nam nhi của mình. Sau khi so sánh bản thân với càn khôn, tác giả tiếp tục so sánh với đồng loại:
“Uu bách niên trung tri hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy.”
Hào kiệt xưa kém càn khôn, nhưng với đồng loại, ông tự xem mình là xuất chúng, không chấp nhận đứng trong đám đông tầm thường. Phan Bội Châu không chỉ đánh giá cao cá nhân anh hùng mà còn không coi mình là duy nhất. Câu thơ này gần với ý thơ của Nguyễn Công Trứ:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông.”
Nhưng ở câu thơ thứ tư, tác giả đặt vai trò cá nhân mình ngang hàng với các cá nhân khác, dù đó chỉ là một câu hỏi: “Sau này muôn thuở, há không ai?” Điều này chứng tỏ Phan Bội Châu không coi mình là duy nhất. Là một nhà nho, ông không giữ lấy sự cố hữu của nhà nho mà hướng tới thực tiễn và đổi mới tư tưởng. Sự đổi mới tư tưởng dẫn đến sự đổi mới hành động:
“Muốn vượt biển Đông theo cách gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.”
“Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.”
Sóng gió ở đây không chỉ là sóng gió bình thường, mà là gió lớn và sóng to. Người hào kiệt không chỉ không sợ sóng gió mà còn coi chúng là bạn đồng hành trên con đường hoạt động, là thách thức để mình thử thách và thể hiện tài năng. Hai câu thơ cuối thể hiện ý chí mãnh liệt của Phan Bội Châu, mong muốn ra đi bất chấp mọi khó khăn. Câu thơ gợi cảm giác hào hùng, không mang lo âu hay nghĩ đến những khó khăn trên đường. Nhiệt huyết cứu nước đã lấn át mọi thứ. Câu thơ vượt biển Đông ngầm ý là sang Nhật Bản, nơi đã duy tân thành công và đánh bại Nga, là tấm gương cho các dân tộc học hỏi.
Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong tác phẩm thể hiện rõ nét qua chí làm trai của tác giả, khát vọng độc lập tự do của các bậc chí sĩ yêu nước xưa. Trong bối cảnh đất nước, vua như gỗ, dân như trâu, sự xuất hiện của Phan Bội Châu với sứ mệnh gánh vác cả sơn hà đã thổi vào văn học một luồng sinh khí hào hùng chưa từng có. Qua vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình, Phan Bội Châu thể hiện chí nam nhi, trở thành cầu nối giữa lý tưởng cao đẹp của nhà nho chân chính và lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa của người cộng sản, tiêu biểu là Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
7. Phân tích vẻ đẹp lãng mạn và hùng tráng của nhân vật trữ tình trong bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' - mẫu 2
“Xuất dương lưu biệt” là một tác phẩm thơ đặc sắc của Phan Bội Châu, mang sức hấp dẫn và cảm động mạnh mẽ. Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình được thể hiện rõ nét qua bài thơ này.
Đầu tiên, vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình được thể hiện qua quan niệm mới về chí làm trai:
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”
Nhân vật trữ tình có một quan điểm táo bạo về chí hướng, rằng đàn ông phải đạt được những điều phi thường. Mỗi người cần phải chủ động và không bị lệ thuộc vào hoàn cảnh, đó là ý chí mạnh mẽ của con người trong mọi thời đại.
Vẻ đẹp hào hùng và lãng mạn tiếp tục được thể hiện qua sự tự ý thức về vị trí của bản thân trong vũ trụ:
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?”
Tác giả thể hiện sự tự tin và khát vọng để lại dấu ấn trong lịch sử. Sự hòa quyện giữa vẻ đẹp lãng mạn và sự tự ý thức về tầm vóc tạo nên một chất sử thi nổi bật. Nhân vật trữ tình đã dấy lên những khát vọng táo bạo cho một cuộc ra đi vĩ đại:
“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”
Ước vọng “đuổi theo ngọn gió dài qua biển Đông” trở thành hình ảnh vừa bay bổng, vừa vĩ đại. Dịch thơ “tiễn ra khơi” chưa làm nổi bật tầm vóc của con người trong vũ trụ như nguyên tác. “Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên” thể hiện sự thăng hoa lãng mạn và hào hùng. Bài thơ kết thúc với hình ảnh con người hòa quyện vào thiên nhiên, trở thành trung tâm của bức tranh, với khí thế lan tỏa ra muôn trùng sóng bạc, hòa nhịp với trái tim cháy bỏng của con người.
Qua quan niệm, tư tưởng và tầm vóc của nhân vật, bài thơ đã xây dựng thành công vẻ đẹp hào hùng và lãng mạn. Những khát vọng mạnh mẽ trở thành nhựa sống trong suốt bài thơ, tạo nên sức lôi cuốn mạnh mẽ. Những yếu tố lãng mạn và hào hùng nảy nở từ tình yêu nước sâu nặng của tác giả.
Phan Bội Châu đã sử dụng nghệ thuật độc đáo để xây dựng vẻ đẹp này. Giọng thơ đầy nhiệt thành và rạo rực, hình ảnh thơ vừa lãng mạn vừa hùng vĩ. Những hình ảnh lớn lao như “càn khôn”, “trăm năm”, “non sông”, “bể Đông”, “muôn trùng sóng bạc” đã nâng cánh cho những ước vọng lãng mạn và mạnh mẽ.
Phan Bội Châu đã thành công trong việc xây dựng hình tượng một chí sĩ lãng mạn và hào hùng. Trong hoàn cảnh thực tế, cuộc ra đi này vốn âm thầm, nhưng qua bài thơ, nhà thơ đã thể hiện sự tự tin và nhiệt huyết sôi sục, góp phần khẳng định vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình. Bài thơ trở nên hấp dẫn và lôi cuốn nhờ những yếu tố này.
8. Phân tích vẻ đẹp lãng mạn và hùng vĩ của nhân vật trữ tình trong bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' - mẫu 3
Bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương' là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp cách mạng của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu. Đây là lời từ biệt bạn bè và đồng chí trước khi lên đường sang Nhật, khởi đầu phong trào Đông Du. Bài thơ không chỉ là một bài ca hào sảng về lý tưởng yêu nước cao cả, khí phách anh hùng, mà còn là tiếng lòng nhiệt huyết của Phan Bội Châu, đặc biệt thu hút bởi vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình.
Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ được thể hiện rõ ràng, đặc biệt là qua quan điểm táo bạo của Phan Bội Châu về chí làm trai:
“Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời.”
Quan niệm này phản ánh sự táo bạo và mới mẻ về chí làm trai, yêu cầu đấng nam nhi phải thực hiện những điều phi thường, trở thành người chủ động và quyết đoán. Không phụ thuộc vào hoàn cảnh, phải có sự nghiệp anh hùng, tự tin và lạc quan, đây là biểu hiện của tâm thế lẫm liệt, lớn lao.
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở há không ai?”
Phan Bội Châu cũng thể hiện sự tự ý thức về trách nhiệm của mình đối với thời thế và cuộc đời, khẳng định sứ mệnh phải cống hiến cho đời, lưu danh thiên cổ, không chịu đứng trong đám tầm thường. Ông khuyến khích thế hệ trẻ hướng đến tương lai, thể hiện ý thức trách nhiệm cao cả xuất phát từ lòng yêu nước sâu sắc.
“Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.”
Phan Bội Châu chỉ rõ mối liên hệ giữa cá nhân với đất nước và vai trò của cá nhân đối với vận mệnh quốc gia, nhận thức rằng sách vở trong thời kỳ mất nước không còn giá trị. Mặc dù có phần gay gắt, quan điểm này phản ánh tư tưởng tiến bộ và tiên phong, mở ra con đường để vượt qua nỗi nhục mất nước.
“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.”
Nhân vật trữ tình dấy lên khát vọng về một chuyến đi đầy thử thách, hình ảnh vĩ đại như “vượt bể Đông”, “cánh gió”, “muôn trùng sóng bạc” diễn tả một tư thế đầy tự tin và lạc quan. Khát vọng lớn lao phản ánh tư thế hào hùng của chí sĩ trong buổi lên đường, hòa quyện vào thiên nhiên, trở thành trung tâm của vũ trụ, với khí thế anh hùng hòa nhịp cùng trái tim sôi sục.
Qua bài thơ 'Lưu biệt khi xuất dương', Phan Bội Châu đã xây dựng thành công hình tượng chí sĩ cách mạng yêu nước với vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng. Bài thơ trở thành một bản anh hùng ca, khúc hát lên đường đầy hào sảng của người anh hùng không ngừng mệt mỏi vì đất nước và nhân dân.