1. Bài văn so sánh giữa giọng thơ Nguyễn Khuyến và Tú Xương - mẫu số 3
Thực tại xã hội luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca, bởi thơ ca và nghệ thuật chính là những tấm gương phản chiếu trung thực nhất sự chuyển mình và phát triển của đời sống. Tú Xương và Nguyễn Khuyến, những người cùng xuất thân từ mảnh đất Nam Định, mặc dù có những nỗi niềm chung nhưng vẫn thể hiện sự khác biệt trong giọng điệu thơ của mình. Sự khác biệt này tạo nên sắc thái riêng biệt cho từng người, đồng thời làm phong phú thêm bức tranh thơ ca Việt Nam thời kỳ đó.
Nguyễn Khuyến và Tú Xương sống trong cùng một giai đoạn lịch sử đầy biến động cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Từ năm 1858, Pháp đã chính thức xâm lược Việt Nam tại cửa biển Đà Nẵng. Triều đình nhà Nguyễn nhanh chóng đầu hàng, để Pháp dễ dàng chiếm lĩnh đất nước và thiết lập chế độ nửa thực dân phong kiến. Vua Nguyễn chỉ là bù nhìn dưới sự điều khiển của Pháp. Cuối thế kỉ XIX, triều đình trở nên thối nát, chế độ phong kiến rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng và sắp sụp đổ. Dưới áp lực thuế má nặng nề, xã hội trở nên tối tăm và lộn xộn, nhiều giá trị bị lung lay. Đồng tiền và sự phi nhân tính chiếm ưu thế, cuộc sống trở nên bất công và tàn bạo, với nhiều điều lố lăng và nực cười trở thành lẽ thường. Chính vì chứng kiến những điều “chướng tai gai mắt” ấy, những nhà nho có nhân cách cao đẹp, yêu nước và lo lắng cho vận mệnh dân tộc đều mang nặng nỗi đau thế sự vào trong thơ ca của mình, với cả nỗi buồn, sự chua xót và tiếng cười mỉa mai sâu cay.
Tú Xương và Nguyễn Khuyến chia sẻ những tâm sự về hiện thực xã hội đầy bất công và bạo ngược trong thời kỳ thực dân nửa phong kiến. Thơ của hai ông đều thể hiện nỗi đau xót, cảm thông sâu sắc với cảnh ngộ khốn cùng của nhân dân. Tú Xương viết về sự khó khăn, phải chạy ăn từng bữa và lo toan đủ thứ:
“Van nợ lắm khi tràn nước mắt
Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi
Biết thân thuở trước đi làm quách
Chẳng ký, không thông, cũng cậu bồi!”
Còn Nguyễn Khuyến phản ánh hiện thực xã hội khi đồng tiền có sức mạnh ghê gớm, mua chuộc cả công lý và đạo đức, đặc biệt là đối với những kẻ làm quan:
“Nổi tiếng mượn màu son phấn mụ
Đem thân chuộc lấy tội tình cha
Có tiền việc ấy mà xong nhỉ?
Đời trước làm quan cũng thế a?”
Thơ của hai ông không chỉ chung nỗi niềm về đất nước, mà còn thể hiện tình yêu quê hương và sự trân trọng tình cảm bạn bè, gia đình. Nguyễn Khuyến vẽ nên một bức tranh thu yên bình ở làng quê Bắc Bộ trong chùm thơ của mình, với hình ảnh bầu trời cao rộng và con ngõ trúc quanh co, yên tĩnh:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Nguyễn Khuyến cũng thể hiện tình bạn cao quý với người bạn của mình:
“Đầu trò tiếp khách trầu không có
Bác đến chơi đây ta với ta”
Tú Xương dành nhiều bài thơ trữ tình cho bà Tú, với lòng biết ơn và sự trân trọng sâu sắc, khi thấy bà gánh vác mọi khó khăn trong khi ông trào phúng vì sự bất lực của mình:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Những điểm chung trong cảm xúc với cuộc đời được thể hiện rõ, nhưng giọng điệu thơ của hai ông vẫn có sự khác biệt. Nguyễn Khuyến viết thơ trữ tình với giọng điệu linh hoạt, từ sự đằm thắm đến nỗi đau xót, và tiếng cười trào phúng của ông thường nhẹ nhàng, thâm trầm. Trong bài thơ Tiến sĩ giấy, ông châm biếm sự tráo đổi khái niệm, khiến người đọc không phân biệt được thật giả:
“Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi !”
Tú Xương viết về bà Tú với sự trân trọng, còn thơ trào phúng của ông là tiếng cười suồng sã, sâu cay. Trong bài thơ Vịnh khoa thi hương, ông châm biếm cảnh thi cử nhốn nháo và sự hài hước trong các hình ảnh:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra”
Tú Xương thể hiện sự phẫn uất trước chế độ thi cử và tình cảnh đất nước. Sự khác biệt trong thơ của họ đến từ hoàn cảnh sống và con đường học vấn. Nguyễn Khuyến là người đỗ đạt cao và sống thanh bạch, trong khi Tú Xương gặp khó khăn trong thi cử và cuộc sống. Điều này phản ánh rõ trong giọng thơ của họ, từ sự chua xót, bất lực đến mạnh mẽ, phẫn uất.
Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ nổi tiếng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, đóng góp vào sự phong phú của nền thơ ca Việt Nam. Thơ của họ thể hiện nỗi căm ghét xã hội thực dân nửa phong kiến và sự đồng cảm với cuộc sống của nhân dân, đồng thời phản ánh sự trân trọng tình cảm cao quý trong đời sống. Dù có sự khác biệt trong giọng điệu, cả hai vẫn để lại dấu ấn sâu đậm trong nền văn học dân tộc.
2. Bài viết so sánh phong cách thơ của Nguyễn Khuyến và Tú Xương - mẫu số 5
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam chìm trong chế độ thực dân nửa phong kiến, đầy rẫy sự mục nát và hỗn loạn. Đây là môi trường thuận lợi cho sự phát triển của dòng văn thơ hiện thực trào phúng. Các nhà thơ tiêu biểu của thời kỳ này, phần lớn là nho sĩ, đã cùng chia sẻ những tâm tư giống nhau nhưng cũng có nhiều sự khác biệt. Điều này thể hiện rõ nét trong thơ của Nguyễn Khuyến và Tú Xương.
Cả Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều xuất thân từ nền tảng nho học, dẫn đến một số điểm tương đồng trong tư tưởng của họ. Tuy không sống cùng thời kỳ (Nguyễn Khuyến sinh ra trước khi Pháp xâm lược, còn Tú Xương lớn lên khi đất nước đang lâm vào tình trạng nguy khốn), cả hai đều chứng kiến thời kỳ đen tối nhất của lịch sử dân tộc. Xã hội Việt Nam lúc bấy giờ chuyển sang giai đoạn thực dân nửa phong kiến, với sự thay đổi về giai cấp, sinh hoạt, và trạng thái tâm lý xã hội. Đây là thời điểm mà những kẻ vô dụng lại nắm quyền, còn các giá trị xưa cũ đang sụp đổ trước sức mạnh của đồng tiền. Những nhà nho chân chính như Nguyễn Khuyến và Tú Xương bị ảnh hưởng sâu sắc bởi hoàn cảnh này. Họ đều cảm thấy bất mãn và phản kháng trước xã hội, thể hiện lòng yêu nước qua thơ của mình, mặc dù giọng điệu của họ lại khác biệt rõ rệt.
Nguyễn Khuyến, nổi tiếng với lối châm biếm sắc sảo, thường dùng thơ của mình để chỉ trích xã hội với sự kết hợp của ý nghĩa xã hội và chính trị. Ông châm biếm không chỉ vì quyền lợi cá nhân mà vì lòng yêu nước sâu sắc, nhắm vào các vấn đề như sự xâm lược của thực dân Pháp và sự tàn lụi của hệ thống phong kiến. Ông không ngần ngại chỉ trích các quan lại, coi họ như những bù nhìn của thực dân:
Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề
Ông cũng chỉ trích những tiến sĩ phong kiến bằng cách ví họ như những tiến sĩ giấy, bày tỏ sự khinh miệt đối với những kẻ bất tài:
Chiết thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh thế mới hời
Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi
Nguyễn Khuyến lột tả bản chất giả tạo của quan lại qua hình ảnh ẩn dụ, thể hiện sự chỉ trích một cách nhẹ nhàng nhưng sâu cay.
Trái ngược với Nguyễn Khuyến, Tú Xương phản ánh hiện thực bằng sự chân thực và cay đắng, không dùng ẩn dụ mà trực tiếp chỉ trích quan lại và xã hội. Ông thể hiện sự khinh bỉ và châm biếm qua những hình ảnh rõ ràng:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Họ tranh lộn nhau khoa bảng
Ông mô tả quan lại như những kẻ tham lam, chỉ biết vơ vét của cải từ nhân dân mà không có chút trách nhiệm:
Chữ y chữ chiểu không phê đến
Ông chỉ quen phê một chữ tiền
Trong khi Nguyễn Khuyến dùng thơ để chỉ trích xã hội một cách tinh tế, Tú Xương lại dùng thơ để phê phán trực tiếp và mạnh mẽ. Cả hai nhà thơ đều thể hiện lòng yêu nước và sự bất mãn trước xã hội thực dân nửa phong kiến, nhưng cách thể hiện của họ mang những sắc thái khác nhau. Dù có sự khác biệt trong cách thể hiện, họ đều góp phần làm phong phú thêm nền văn học Việt Nam với lòng yêu nước chân thành và sự phản kháng mạnh mẽ.
3. So sánh giọng thơ của Nguyễn Khuyến và Tú Xương - mẫu 6
Nguyễn Khuyến (1835 11909), Trần Tế Xương (1870 – 1907) là hai nhà thơ trào phúng nổi tiếng của đất Hà Nam, Nam Định. Tuy chênh lệch khá nhiều về tuổi tác, về đường công danh nhưng hai ông có một số điểm gần gũi trong cách nhìn nhận và đánh giá thời cuộc và cả hai đã dùng tiếng cười châm biếm, trào lộng trong thơ ca để phơi bày bản chất nhố nhăng, suy đồi của cái xã hội thực dân, phong kiến dở Tây dở ta thuở ấy.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp đã bình định xong Đông Dương về mặt quân sự và bắt đầu triển khai kế hoạch bình định trên các lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế, văn hoá… Trường học được mở ở khắp nơi để dạy tiếng Pháp và đào tạo ra thế hệ quan lại bản xứ tay sai thân Pháp. Sự bành trướng nhanh chóng của nền giáo dục thực dân đã đẩy lùi nền giáo dục truyền thống dựa trên nền tảng đạo Nho có từ lâu đời ở nước ta. Nho học tàn dần, phần lớn tầng lớp trí thức vội vã “Quẳng bút lông đi giắt bút chì” để mong nhận được chức thầy thông, thầy phán trong các công sở của chính quyền bảo hộ, đặng hưởng cuộc sống “Sáng rượu sâm banh, tối sữa bò”, khác xa với cuộc sống lầm than của cả dân tộc dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp.
Là một bậc đại khoa đã từng làm quan hơn mười năm trong triều đình nhà Nguyễn với nhiều chức vụ khác nhau, Nguyễn Khuyến hiểu sâu sắc tình thế nước nhà lúc bấy giờ. Từ vua tới quan chỉ là những con rối trong tay chính quyền thực dân, hoàn toàn chịu sự chi phối và điều khiển của chúng. Xót xa và thấm thía nỗi nhục quốc thể, nhà thơ đã mượn lời than thở của vợ người hát chèo để nói lên thực trạng đau lòng ấy:
Vua chèo còn chẳng ra gì,
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề.
(Lời vợ người hát chèo)
Theo bước chân của đạo quân xâm lược phương Tây, yếu tố tư bản chủ nghĩa cũng tràn vào nước ta, làm thay đổi diện mạo của xã hội phong kiến đã định hình hàng ngàn năm. Nền tảng tư tưởng, nền tảng đạo đức truyền thống lung lay dữ dội. Nhiều giá trị cơ bản bị đảo lộn, đồng tiền được tôn lên vị trí thống soái, chi phối toàn bộ cuộc sống của con người. Chính vì thế mới có những cảnh cười ra nước mắt trong hội Tây do thực dân Pháp tổ chức mà người bản xứ tham gia các trò chơi tỏ ra vui vẻ đến vô tâm trước nỗi nhục nô lệ:
Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo,
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.
Khen ai khéo vẽ cho vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!
(Hội Tây)
Tiếng cười của Nguyễn Khuyến là tiếng cười của lương tâm, của ý thức liêm sỉ nên thâm thuý và thấm đượm nước mắt. Không chỉ cười những hiện tượng đáng cười trong cuộc sống đương thời, nhà thơ còn dám nhìn sâu vào bên trong con người mình để tự trào:
Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,
Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.
Cờ đương dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm mồi chén mãi tít cung thang.
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhị
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng!
(Tự trào)
Đúng là chân dung của một con người dở dang mọi nhẽ, công chẳng thành mà danh chẳng toại, thật đáng buồn, đáng chán. Ngẫm người rồi ngẫm đến ta, nhiều lúc cụ Tam Nguyên Yên Đổ cũng chế giễu mình bằng nụ cười nhếch mép đầy xót xa, cay đắng. Cụ ngầm so sánh những bậc đại khoa có tiếng tăm giống như mình nhưng cũng đành xuôi tay bất lực trước thời thế đảo điên thì chẳng khác gì mấy ông phỗng đá vô hồn. Nhà thơ Trần Tế xương nhìn đời với đôi mắt bất bình của kẻ sinh bất phùng thời nên đâu đâu cũng thấy những cảnh chướng tai gai mắt:
Nhà kia lỗi đạo con khinh bố,
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.
Vì tiền mà các cô gái tơ sẵn sàng chấp nhận thân phận làm vợ bé các thầy ký, thầy phán để rồi phải lãnh chịu kết cục thảm thương:
Cô Kí sao mà đã chết ngay?
Ô hay, Trời chẳng nể ông Tây.
Gái tơ đi lấy làm hai họ,
Năm mới vừa sang được một ngày.
Hàng phố điếu bằng câu đối đỏ,
Ông chồng thương đến cái xe tay.
Gớm thay cho các cô con gái,
Mà vẫn đua nhau lấy các thầy!
(Mồng ba Tết viếng cô Kí)
Vì tiền nên mới diễn ra những cảnh huống lố bịch, nhố nhăng khiến nhà thơ Tú Xương tức giận phải bật lên tiếng chửi phũ phàng:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu,
Trăm nghìn vạn mớ để vào đậu.
Phen này ắt hẳn gà ăn bạc,
Đồng rụng đồng rơi lọ phải cầu.
Lẳng lặng, mà nghe nó chúc sang,
Đứa thời bán tước đứa mua quan,
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng.
(Năm mới chúc nhau)
Hiện tượng bỏ tiền ra để mua quan bán tước, mua chuộc, hối lộ hòng kiếm lấy một chức vị hay một mảnh bằng nào đó đã trở nên khá phổ biến trong cái xã hội bát nháo, kỉ cương rối loạn. Học giỏi như Tú xương nhưng cứ trượt hoài vì Tám khoa không khỏi phạm trường quy, trong khi đó một số tên công tử con nhà giàu ham chơi học dốt thì lại đỗ. Bất bình, nhà thơ văng tục:
Cử nhân cậu ấm Kỉ,
Tú tài con Đô Mĩ.
Thi thế mà cũng thi,
Ối khỉ ơi là khỉ!
Còn cái loại đậu lạy, quan xin thì nhan nhản khắp nơi. Điềm tĩnh, chín chắn như Nguyễn Khuyến mà cũng phải chua chát nhận xét về đám người này qua bài thơ Tiến sĩ giấy:
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.
Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Tưởng rằng đồ thật hoá đồ chơi!
Sống trong cái xã hội bị ma lực đồng tiền chi phối và khuynh đảo ghê gớm như vậy thì những người luôn đề cao phẩm giá như Nguyễn Khuyến, Tú Xương chỉ có cách duy nhất là giữ gìn khí tiết trong sạch, xa lánh cõi đời thật giả, vàng thau lẫn lộn. Đêm giao thừa, nghe tiếng pháo nổ mừng năm mới của những kẻ lắm của nhiều tiền, thi sĩ nghèo Tú Xương suy ngẫm rồi cám cảnh thốt lên hai câu thơ châm biếm sâu cay:
Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo,
Nhân tình trắng thế lại bôi vôi.
Tiếng cười trào lộng ở đây không vang lên hả hê, khoái trá mà chứa đựng một nỗi đau, nỗi hận và day dứt khôn nguôi. Sự nhố nhăng không chỉ hiện diện ở ngoài đời mà nó còn lan tràn cả vào chốn tôn nghiêm của cửa Khổng sân Trinh, biến các khoa thi Hán học thành chợ trời nhốn nháo. Tú Xương cười nhạo cảnh: Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt, Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng và cũng khóc thầm trước quang cảnh lố lăng của một kì thi Hương ở Nam Định vào giai đoạn Nho giáo đã suy tàn:
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Cờ cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!
(Vịnh khoa thi Hương)
Rõ ràng cùng là tiếng cười trào lộng đả kích, phê phán những hiện tượng xấu xa, tiêu cực trong xã hội thực dân phong kiến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, nhưng đặc điểm tiếng cười của Nguyễn Khuyến khác với Tú xương. Tiếng cười Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng, thâm thuý; còn tiếng cười Tú Xương mạnh như những làn roi quất thẳng vào mặt cái xã hội điêu trá ấy. Chừng nào cái ác, cái xấu còn tồn tại thì tiếng cười đầy ý nghĩa của hai nhà thơ nổi tiếng trên vẫn còn nguyên giá trị.
4. So sánh giọng thơ giữa Nguyễn Khuyến và Tú Xương - mẫu số 7
Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ vĩ đại trong văn học trung đại Việt Nam, với những tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả qua các thời kỳ. Có ý kiến cho rằng 'Nguyễn Khuyến và Tú Xương chia sẻ cùng nỗi niềm tâm sự nhưng giọng thơ của họ lại khác biệt'. Khi tìm hiểu sâu vào tác phẩm của hai ông, độc giả sẽ càng thấy rõ điều này.
Trước hết, cả Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều thể hiện sự đồng cảm với quê hương, đất nước, và dân tộc qua những sáng tác của mình. Cả hai đều dùng thơ để chỉ trích xã hội, lên án những thói hư tật xấu, và phê phán những bất công thời bấy giờ. Nguyễn Khuyến đã khắc họa chân thực bộ mặt của quan chức qua bài thơ 'Lời vợ anh phường chèo' với hai câu thơ:
Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nọ khác chi thằng hề.
Và Tú Xương cũng vậy, trong các tác phẩm của mình, ông cũng chỉ trích bộ mặt của quan lại. Dưới cây bút của ông, quan lại giống như những kẻ giả dối, đội lốt để lừa bịp dân chúng, điều này được thể hiện rõ qua bài thơ 'Hát tuồng'.
Nào có ra gì cái lũ tuồng
Cũng hò cũng hét cũng y uông
Dẫu rằng dối được đàn con trẻ
Cái mặt bôi vôi nghĩ cũng buồn.
Đồng thời, cả hai nhà thơ đều phê phán những cảnh ô nhiễm nơi trường thi và chỉ trích các tiến sĩ tri thức của xã hội đương thời. Bài thơ 'Tiến sĩ giấy' của Nguyễn Khuyến nổi bật với thái độ chua chát, mỉa mai đối với cảnh chạy theo quan chức, khi mà danh vị chỉ còn là cái vỏ.
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.
Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh chọe
Tưởng rằng đồ thật hoá đồ chơi
Tú Xương cũng không ngần ngại chỉ trích những cảnh rối ren trong trường thi qua bài thơ 'Vịnh khoa thi Hương'.
Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Cờ cắm rợp trời quan sứ đến,
Vảy lê quét đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!
Thêm vào đó, cả Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều chỉ trích những thói hư tật xấu của con người trong bối cảnh xã hội nhiễu nhương. Nguyễn Khuyến thể hiện sự mỉa mai qua hình ảnh 'Hội Tây' với những người dân bàng quan trước thực tế đất nước.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo
Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu.
Còn Tú Xương thì chỉ trích sự đảo lộn đạo đức và phong tục tập quán:
Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.
(Đất vị Hoàng)
Vì vậy, dù Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều thể hiện nỗi lòng, sự mỉa mai, châm biếm về xã hội và tầng lớp quan chức, điều đó thể hiện lòng yêu nước sâu sắc. Tuy nhiên, dù cùng đối tượng phản ánh và nỗi niềm tâm sự, giọng thơ của họ lại có sự khác biệt. Nguyễn Khuyến sử dụng giọng thơ mỉa mai nhẹ nhàng với các hình thức ẩn dụ tinh tế, còn Tú Xương thì trào phúng trực diện, làm nổi bật sự giả dối, xấu xa. Điều này phản ánh sự khác biệt trong cách thể hiện của hai nhà thơ.
Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều có cùng nỗi niềm tâm sự nhưng giọng thơ của mỗi ông lại mang những đặc điểm riêng biệt, tạo nên sự phong phú cho văn học trung đại với nhiều sắc thái khác nhau.
5. Mẫu bài viết so sánh phong cách thơ của Nguyễn Khuyến và Tú Xương - mẫu 8
Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều chia sẻ những tâm tư tương đồng, nhưng phong cách thơ của họ lại có sự khác biệt rõ rệt. Hãy làm rõ quan điểm này. Có thể thấy, thời kỳ văn học trung đại Việt Nam khép lại với hai cây bút tài năng: Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Dù cả hai đều có chung nỗi niềm tâm sự, giọng thơ của họ lại mang những nét đặc trưng riêng biệt.
Trước tiên, hãy nhìn vào hoàn cảnh của hai nhà thơ. Nguyễn Khuyến sinh năm 1835 tại tỉnh Hà Nam, trong khi Tú Xương sinh năm 1870 tại tỉnh Nam Định. Dù sống cùng thời, một người đã đạt được thành công vang dội (Tam Nguyên Yên Đổ), còn người kia lại gặp nhiều thất bại trong khoa cử và sống ở đô thị suốt đời. Nguyễn Khuyến có sự nghiệp đáng ngưỡng mộ, trong khi Tú Xương không mỉm cười với thi cử, dù tài năng của ông được mọi người công nhận. Điểm chung lớn nhất giữa họ là nỗi niềm tâm sự tương đồng, với những bài thơ đều chất chứa lòng yêu nước, yêu quê hương.
Nguyễn Khuyến được biết đến qua những bức tranh phong cảnh mùa thu, thể hiện sâu sắc nỗi niềm và tình yêu nước của ông. Thơ của ông mang một sự tinh tế, từ hòa quyện giữa sự cô đơn và cảm xúc mãnh liệt, từ trữ tình đến trào phúng, phản ánh tình yêu sâu sắc với đất nước qua hình ảnh ao thu và cảnh vật nông thôn. Ví dụ điển hình là bài thơ 'Thu điếu':
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Nguyễn Khuyến, qua nỗi đau của mình, đã giấu kín tình yêu nước vào cảnh sắc mùa thu, giống như cá ẩn mình dưới ao bèo.
Tú Xương cũng có những nỗi niềm tương tự, nhưng giọng thơ của ông khác biệt. Ông nổi bật với những câu thơ châm biếm sâu cay, phản ánh sự bất mãn với tình hình xã hội và các quan lại. Trong bài thơ 'Mẹ Mốc' của Nguyễn Khuyến, hình ảnh người phụ nữ danh tiết được khắc họa đầy cảm động, trong khi Tú Xương lại viết về vợ mình trong bài 'Thương vợ' để bày tỏ lòng tri ân sâu sắc:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.”
Trong khi Nguyễn Khuyến dùng giọng thơ nhẹ nhàng, tinh tế và mộc mạc, thì Tú Xương mang đến một phong cách trào phúng, châm biếm với ngôn từ sắc sảo. Các bài thơ của Tú Xương thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ với xã hội phong kiến, tạo nên một giọng thơ hiện thực, dí dỏm nhưng sâu sắc. Ví dụ là bài thơ:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.”
Nhìn chung, thơ của Nguyễn Khuyến và Tú Xương phản ánh hai phong cách khác nhau: một bên là sự tinh tế của nhà nho, một bên là sự châm biếm của nhà nho thị dân. Dù khác biệt, cả hai đều là những tài năng xuất sắc trong nền văn học Việt Nam.
6. So sánh phong cách thơ của Nguyễn Khuyến và Tú Xương - mẫu 1
Nguyễn Khuyến và Tú Xương, dù sống cùng thời đại, đều là những người yêu nước và yêu thơ văn sâu sắc. Họ sử dụng thơ văn để thể hiện sự chỉ trích và mỉa mai xã hội phong kiến. Đồng thời, họ cũng bày tỏ tình yêu quê hương và tâm trạng về tình cảnh đất nước qua các tác phẩm như “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến và “Vịnh khoa thi hương” của Tú Xương.
Nguyễn Khuyến và Tú Xương cùng chia sẻ nỗi lòng và sự căm ghét đối với xã hội phong kiến, nhưng do hoàn cảnh sống và thân thế khác nhau, phong cách thơ của họ cũng có sự khác biệt rõ rệt, thể hiện qua các bài thơ của họ.
Nguyễn Khuyến, xuất thân từ một gia đình nghèo nhưng học giỏi, đã thi đỗ cả ba kỳ thi quan trọng. Dù có thời gian làm quan, ông từ bỏ để về quê dạy học và sống cuộc đời thanh bạch. Thơ của ông thể hiện sự thanh thản và yêu quê hương, như trong bài “Câu cá mùa thu”, miêu tả cảnh thu Bắc Bộ một cách thanh bình và chân thực.
Giọng thơ của Nguyễn Khuyến mang đến sự tĩnh lặng và tao nhã, phản ánh qua việc câu cá trong không gian yên bình. Mặc dù cảnh vật xung quanh như ao nước trong, sóng gợn nhẹ, lá bay trong gió, nhưng có một nỗi niềm sâu thẳm trong lòng ông. Thơ của ông, mặc dù nhẹ nhàng, nhưng chứa đựng sự sâu sắc và châm biếm tinh tế về xã hội.
Tú Xương, ngược lại, gặp khó khăn trong việc thi cử, chỉ đỗ tú tài và không được làm quan. Thơ của ông phản ánh nỗi lòng và sự phẫn uất với chế độ thi cử và xã hội nửa thực dân phong kiến. Bài thơ “Vịnh khoa thi hương” thể hiện sự căm ghét mạnh mẽ và cảm giác bất lực của ông, đồng thời cũng là sự tiếc nuối vì không thể đóng góp cho đất nước và gia đình.
Mặc dù Nguyễn Khuyến và Tú Xương có cùng một tâm trạng, cách thể hiện của họ lại khác nhau. Tuy nhiên, mục tiêu chung của họ đều là mong muốn một xã hội công bằng và tự do. Hai nhà thơ, với những giá trị nghệ thuật và nền tảng khác nhau, nhưng đều góp phần vào cùng một mạch cảm xúc chung.
Từ những tác phẩm của Tú Xương và Nguyễn Khuyến, ta thấy rằng dù tình yêu quê hương và đất nước của họ là chung, nhưng phong cách thơ của họ khác nhau do hoàn cảnh, cảm nhận và sự lựa chọn cuộc sống khác nhau.
7. So sánh phong cách thơ của Nguyễn Khuyến và Tú Xương - mẫu 2
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, Việt Nam chịu sự thống trị của xã hội thực dân nửa phong kiến, một xã hội đầy rối ren và mục nát. Trong hoàn cảnh đó, văn học trào phúng đã nảy nở và phát triển mạnh mẽ, tạo điều kiện cho các thi nhân thể hiện tiếng nói của mình. Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ này, cùng chia sẻ những nỗi niềm nhưng với phong cách khác nhau.
Cả Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều xuất thân từ các nhà Nho yêu nước, và dù sống trong các thời kỳ khác nhau, họ đều trải qua những năm tháng khó khăn của lịch sử. Sự thay đổi của xã hội thực dân nửa phong kiến đã gây ra những biến động trong đời sống xã hội, dẫn đến việc nhiều giá trị bị đảo lộn. Trong bối cảnh đó, những người có học như Nguyễn Khuyến và Tú Xương không thể đứng yên khi thấy xã hội suy đồi, và họ đã gửi gắm tâm sự của mình qua ngòi bút.
Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều bày tỏ sự bất mãn với xã hội qua những tác phẩm châm biếm và tố cáo sự mục nát của thời đại. Tuy nhiên, phong cách của họ có sự khác biệt rõ rệt. Nguyễn Khuyến sử dụng lối viết nhẹ nhàng và sâu lắng, trong khi Tú Xương thể hiện sự chua xót và cay đắng.
Nguyễn Khuyến, mặc dù châm biếm xã hội và chính trị, nhưng mục đích của ông là vì tình yêu đối với đất nước. Ông chỉ trích thực dân Pháp và các quan lại, xem việc làm quan dưới thời kỳ thống trị của giặc là một sự nhục nhã. Những câu thơ của ông, như:
Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề
Đã thể hiện sự khinh bỉ đối với bọn quan lại và chế độ phong kiến. Ông cũng chỉ trích các tiến sĩ phong kiến qua bài thơ “Tiến sĩ giấy” với những câu:
Chiết thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh thế mới hời
Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi
Tú Xương, với cảm giác chua xót, chỉ trích không chỉ vì bản thân mà còn vì dân tộc. Ông mượn ngòi bút để lên án sự tha hóa của xã hội, nơi tiền bạc chi phối tất cả. Những câu thơ của ông, như:
Kẻ yêu người ghét hay gì chữ
Đứa trọng thằng khinh chỉ vì tiền
Cho thấy thực trạng xã hội coi trọng đồng tiền hơn tất cả. Mặc dù cả hai nhà thơ đều sử dụng châm biếm, phong cách của họ khác nhau: Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng và thâm thúy, còn Tú Xương mạnh mẽ và trực diện.
Yêu nước là động lực chính của sự châm biếm. Những nhà Nho như Nguyễn Khuyến và Tú Xương không chỉ đau khổ vì mất nước mà còn cảm thấy trách nhiệm đối với vận mệnh quốc gia. Dù vậy, họ vẫn mang nỗi đau riêng vì không đủ dũng khí để đấu tranh. Dù cuộc đời đầy rối ren, họ vẫn giữ được phẩm cách của những nhà Nho chân chính, và thơ của họ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về xã hội Việt Nam thời kỳ đó.
8. So sánh phong cách thơ của Nguyễn Khuyến và Tú Xương - mẫu 4
“Thế giới chỉ có hai sức mạnh: thanh gươm và cây bút. Thanh gươm chinh phục lãnh thổ, còn cây bút chinh phục tâm hồn.” (Napoleon). Thời kỳ văn học trung đại Việt Nam kết thúc với hai tác giả vĩ đại, Nguyễn Khuyến và Tú Xương, những người đã chinh phục trái tim người đọc đến ngày nay. Dù có nhiều nỗi niềm chung, phong cách thơ của hai nhà thơ lại khác biệt rõ rệt.
Đầu tiên, chúng ta hãy xem xét hoàn cảnh của hai nhà thơ. Nguyễn Khuyến (1835, tỉnh Hà Nam) và Tú Xương (1870, tỉnh Nam Định), dù cùng sống trong thời kỳ nho học, nhưng cuộc đời của họ lại rất khác nhau. Nguyễn Khuyến có sự nghiệp công danh lừng lẫy (Tam Nguyên Yên Đổ), từng làm quan suốt mười năm rồi về sống ở quê. Ông là hình mẫu của một nho sĩ truyền thống, được xã hội phong kiến tôn vinh. Tuy nhiên, khi đạt đến đỉnh cao của vinh quang, ông nhận ra sự bất lực của tầng lớp nho sĩ trước thời cuộc và quyết định từ bỏ quan trường để tránh xa sự nhố nhăng của xã hội và cám dỗ của đồng tiền.
Ngược lại, Tú Xương sống cả đời ở đô thị và gặp phải nhiều trắc trở trong con đường khoa cử, với nhiều lần thất bại và chỉ có một lần đỗ tú tài. Tú Xương có tài năng văn chương thật sự nhưng không được công nhận trong quan trường. Cuộc đời của ông phản ánh một hiện thực đầy gian nan và thất vọng.
Cả Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều chia sẻ nỗi lòng yêu nước, thương dân, và quê hương. Nguyễn Khuyến thể hiện điều này qua bức tranh mùa thu với vẻ đẹp thôn quê Việt Nam, mang đến một tinh thần yêu nước sâu sắc và đầy cảm xúc. Bài thơ “Thu điếu” minh chứng cho tâm trạng này:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Nỗi lòng của nhà thơ thật đáng thương, với cảm giác như là tù binh của cần câu, của chính tâm hồn mình giữa trời đất vô tận. Nguyễn Khuyến yêu nước mãnh liệt, nhưng nỗi đau đớn của cuộc đời đã khiến ông phải giấu kín tình yêu nước vào cảnh thu yên tĩnh. Tiếng “cá đâu đớp động dưới chân bèo” như một sự an ủi rằng dù có khó khăn, vẫn còn hy vọng.
Tú Xương cũng mang trong mình nỗi đau và sự thất vọng về vận mệnh quốc gia và dân tộc. Với phong cách châm biếm sâu cay, ông chỉ trích các quan lại, thực dân, và những kẻ theo đuổi tiền bạc, như thể lên án chính xã hội mình sống. Bài thơ “Vịnh khoa thi Hương” của Tú Xương là một ví dụ:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”
Cả hai nhà thơ cũng ca ngợi hình ảnh người phụ nữ. Nguyễn Khuyến với bài thơ “Mẹ Mốc” đã tôn vinh một người đàn bà danh tiết, trong khi Tú Xương trong bài “Thương vợ” đã thể hiện sự trân trọng vợ mình qua những lời thơ cảm động.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.”
Điểm khác biệt lớn nhất giữa Nguyễn Khuyến và Tú Xương là phong cách thơ của họ. Nguyễn Khuyến, một nhà nho theo chuẩn mực đạo đức nho giáo, mang đến một giọng thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng sâu sắc, thể hiện sự tinh tế và mộc mạc của làng quê. Ngược lại, Tú Xương, một nhà nho thị dân, có giọng thơ trào phúng sắc sảo, châm biếm xã hội phong kiến và thể hiện sự hiện thực rõ rệt. Bài thơ “Vịnh khoa thi Hương” của Tú Xương phản ánh thái độ mỉa mai, phẫn uất đối với chế độ thi cử và xã hội của thời đại ông.
Nhận xét chung về Nguyễn Khuyến và Tú Xương cho thấy họ đều là những tài năng xuất sắc của văn học Việt Nam, với những phong cách và cách tiếp cận khác nhau. Nguyễn Khuyến là đại nho với sự thanh nhã, còn Tú Xương là nhà thơ sắc sảo và quyết liệt. Dù đã qua hơn một thế kỷ, tác phẩm của họ vẫn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Tên tuổi và di sản văn học của Nguyễn Khuyến và Tú Xương sẽ mãi được nhớ đến, vì “văn học không chấp nhận cái chết”.