1. Phân tích khát vọng tình yêu trong bài thơ 'Sóng' và 'Vội vàng' - mẫu 5
Tình yêu và khát vọng là những yếu tố thiết yếu trong cuộc sống mỗi người. Chỉ khi khao khát yêu và được yêu, khao khát sống và trân trọng cuộc sống thì cuộc đời mới thực sự có giá trị. Chính vì vậy, những nhà thơ, những người yêu đời và nhạy cảm trước thời cuộc thường hiểu rõ điều này. Những bài thơ như 'Sóng' và 'Vội vàng' là minh chứng cho khát vọng tình yêu, khát vọng sống và cống hiến.
Cả Xuân Quỳnh và Xuân Diệu đều nhận thức rõ sự trôi chảy của thời gian, dù muốn cũng không thể ngăn lại sự trôi đi ấy.
'Cuộc đời dù dài
Năm tháng vẫn qua nhanh'
Cuộc đời dù dài, thời gian vẫn lặng lẽ trôi qua, rút ngắn cuộc sống con người. Đó là nỗi lo lắng trước thời gian, sự tiếc nuối trước năm tháng trôi qua, vừa sợ hãi lại vừa tiếc nuối.
'Biển rộng bao la
Mây vẫn bay xa'
Dù biển rộng lớn cũng không thể ngăn mây bay xa, chúng mãi không thể gặp nhau. Xuân Diệu cũng vậy, lo sợ thời gian, vội vã:
'Xuân đến, nghĩa là xuân qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng trời cứ hẹp,
Không cho kéo dài thời trẻ của nhân gian,'
Ông lo lắng tuổi trẻ sẽ qua đi, chỉ còn lại sự tiếc nuối. Thời gian luôn trôi, mùa xuân cũng vậy, đến rồi đi, khiến người ta nhận ra thanh xuân không mãi mãi, tuổi tác ngày một lớn, khi xuân hết là khi tôi cũng mất. Nhận thức rõ thời gian không chờ đợi ai, sự ngắn ngủi của cuộc đời, Xuân Diệu càng khát khao yêu và sống để không hối tiếc. Xuân Quỳnh mang đến một tình yêu chân thành, mãnh liệt, của một người con gái e dè nhưng vẫn dũng cảm trong tình yêu:
'Làm sao biến mất
Thành trăm con sóng nhỏ
Của đại dương tình yêu
Để mãi mãi vỗ'
Một con sóng không thể tạo ra đại dương, nhưng sóng ấy phải hòa mình vào biển cả, vào muôn ngàn con sóng để tồn tại mãi mãi. Tình yêu cũng vậy, không thể giữ cho riêng mình, phải là tình yêu lớn như đại dương, phải là tình yêu của hai ta và của nhân loại. Đó là biển của tình yêu, đại dương của tình yêu, mãi mãi bất tử, không như đời người. Một khát vọng yêu đẹp đẽ và phi thường. Tình yêu là khát vọng vĩnh hằng, mãnh liệt trong trái tim mỗi người, trong tuổi trẻ.
Xuân Diệu cũng vậy, lo lắng trước thời gian, nhận ra sự ngắn ngủi của cuộc đời, ông càng vội vàng, thúc giục con người sống trọn vẹn hơn để đua theo thời gian, tận hưởng vẻ đẹp của cuộc sống. Khát vọng thực hiện những điều kỳ diệu, giữ gìn vẻ đẹp của tạo hóa, để nắng không tàn và hương hoa không vội mất đi:
'Tôi muốn tắt nắng
Để màu không phai nhạt
Tôi muốn buộc gió lại
Để hương không bay đi'
Và đây là những khao khát tận hưởng trọn vẹn dư vị cuộc sống:
'Ta muốn ôm
Cả sự sống mới mẻ
Ta muốn mây bay và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn chiều
....
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi'
Những cảm xúc mãnh liệt, thiết tha trong lòng tác giả, muốn sống, yêu, giữ trọn mùa xuân căng tràn sức sống, mùa xuân của đất nước, tuổi trẻ và tình yêu.
Trong 'Sóng', khát vọng tình yêu trở nên lý tưởng và đẹp đẽ, còn trong 'Vội vàng' của Xuân Diệu là khát vọng sống và tận hưởng, vì thời gian không chờ đợi ai. Cả hai bài thơ thể hiện một cái tôi cá nhân muốn giải thoát và tận hưởng cuộc sống, là cái tôi lớn hòa chung với cái ta của cộng đồng và thời đại, nói lên niềm khát khao của nhiều người.
2. Phân tích khát vọng tình yêu trong bài thơ 'Sóng' và 'Vội vàng' - mẫu 4
Trong muôn lời thơ tiếng hát của “cây đàn muôn điệu” về đề tài tình yêu, nền văn học Việt Nam ta may mắn có được hai đại biểu thơ tình xuất sắc: Một Xuân Diệu – đại diện cho sự khát khao mãnh liệt, sôi nổi- ồn ào, vồ vập – đắm say và một Xuân Quỳnh – đại diện cho những tình cảm đôn hậu, đằm thắm, đầy nữ tính nhưng cũng không kém phần mãnh liệt. Giá trị thơ tình Xuân Diệu, Xuân Quỳnh đã được khẳng định qua thời gian và qua những người yêu thơ. Ở mọi thời đại, thơ tình Xuân Diệu, Xuân Quỳnh đều được đông đảo bạn đọc đón nhận, đặc biệt là giới trẻ, những người biết yêu và biết trân trọng tình yêu. Hai đoạn thơ sau đây trong hai thi phẩm “Vội vàng” và “Sóng” sẽ giúp ta nhận ra những giá trị ấy.
Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. “Sóng” là bài thơ tình yêu đặc sắc của Xuân Quỳnh, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”.
Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ Mới” (Hoài Thanh). Ông được giới trẻ tấn phong là “Ông hoàng của thi ca tình yêu”. Ông mang đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết. “Vội vàng” được trích trong tập “Thơ Thơ” là một trong những bài thơ hay nhất của Xuân Diệu trước cách mạng.
Đoạn thơ trong bài Sóng của Xuân Quỳnh thể hiện cái tôi đầy những âu lo, trắc ẩn nhưng cũng dồn chứa bao khát vọng tình yêu “bồi hồi trong ngực trẻ”: Nhà phê bình Chu Văn Sơn khi nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh đã có nhận định tinh tế: “Ở đó, trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhoài giữa biến động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình,…”. Quả thật như thế, mới ở khổ thơ trước chị viết với tất cả niềm tin yêu vô bến bờ với những cảm xúc tình yêu nồng nàn trong sự dào dạt của sóng xô bờ và nỗi nhớ người mình yêu tràn ngập khắp không gian và thời gian: đêm – ngày, dưới lòng sâu – trên mặt nước, trong mơ còn thức…thì ở đoạn thơ này thi sĩ lại đầy ắp những âu lo, dự cảm.
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Thế giới của thời gian và không gian được Xuân Quỳnh đặt cạnh nhau trong sự tương phản và đối lập giữa cái hữu hạn (kiếp người) và cái vô hạn (thời gian và biển lớn). “Cuộc đời” và “năm tháng”, “biển rộng” và “mây trời” và kiểu câu điều kiện “tuy –vẫn; dẫu – vẫn” kết hợp các tính từ “dài – rộng – xa” tạo nên nỗi day dứt ám ảnh. Đặt cái hữu hạn vào cái vô hạn tận của thời gian, nữ sĩ như thấy mình nhỏ bé, mong manh. Cuộc đời thì dài những năm tháng vẫn cứ thế đi qua; biển dẫu rộng nhưng không níu nổi một đám mây bay về cuối chân trời; thời gian vô thuỷ vô chung mà quỹ thời gian tuổi xuân của mỗi con người lại hữu hạn. Cuộc đời tưởng là dài, nhưng trong dòng thời gian chảy trôi bất tận, giữa trời biển bao la, con người có thể chỉ là một thoáng phù vân. Với người phụ nữ, điều ám ảnh nhất vẫn là sợ sự tàn phai, tàn phai năm tháng, tàn phai của tuổi trẻ, của nhan sắc và theo đó là sự tàn phai của tình yêu. Nỗi lo âu đó ở phụ nữ là điều có thật như chính Xuân Quỳnh đã từng viết cho Lưu Quang Vũ:
Em cảm thấy em già rồi, già về thể chất đã đành nhưng em lại còn già về sự yên phận của người đàn bà, về những sự nhỏ nhen tầm thường của đời sống. Em nhìn mặt em trong gương, em thấy em không xứng đáng với anh. […] Vậy cho nên lúc nào em cũng thấy tình yêu của chúng ta mong manh. Em buồn lắm….Em rất muốn em trẻ đẹp lại cho tuổi tác và hình thức của mình. Có thể anh không cần như thế, nhưng em cần như thế. Vì chắc chắn rằng em trẻ hơn và đẹp hơn, anh sẽ yêu em hơn”.
Thế mới biết, hạnh phúc của người phụ nữ phụ thuộc rất nhiều vào hai yếu tố: nhan sắc và tình yêu. Điều đó chứng tỏ, tình yêu có sức mạnh vô biên nhưng cũng đầy mong manh bởi “lời yêu mỏng mảnh như làn khói – ai biết lòng anh có đổi thay”. Và cả chính hình ảnh “mây vẫn bay về xa” kia trong câu thơ cuối cũng đầy những ám ảnh. Phải chăng vì biết trước không có gì vĩnh viễn – “hôm nay yêu mai chắc phải xa rồi” nên anh cũng như đám mây trời phiêu du kia bay về bến bờ khác, dù vòng tay em có rộng như biển, có dài như sông cũng không thể nào níu giữ được anh trong vòng tay. Chính sự nhạy cảm và day dứt của cái tôi Xuân Quỳnh trước thời gian và kiếp người; giữa đổ vỡ và tin yêu đã làm cho hồn thơ này trở nên tha thiết mãnh liệt hơn giữa cuộc đời.
Xuân Diệu cũng đã từng rất sợ thời gian nên cứ thế mà sống cuống quýt, “vội vàng”, “giục dã”: “gấp đi em, anh rất sợ ngày mai – đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn” nên với Xuân Diệu – sống là phải hưởng thụ, chiếm lĩnh để không hoài, không phí những tháng năm của tuổi trẻ. Và với Xuân Quỳnh, những âu lo, dự cảm đã mang đến một khát vọng mãnh liệt – khát vọng được bất tử hoá tình yêu:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Mở đầu bài thơ là con sóng bỏ bờ để “tìm ra tận bể” và khổ thơ cuối cùng này như tâm nguyện đã hoàn thành của sóng. Còn em thì sao?
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Hai chữ “làm sao” như tả hết được những trăn trở, băn khoăn, niềm mong mỏi, khát khao mãnh liệt của người phụ nữ. Khát vọng được hóa thành trăm con sóng nhỏ, khát vọng được tan thành trăm con sóng nhỏ là khát vọng được cho đi và dâng hiến bởi có một nghịch lí trong tình yêu là “Hạnh phúc thật sự chỉ đến khi bạn dám mạnh dạn cho đi chứ không phải nắm giữ thật chặt” (Christopher Hoare). Hai chữ “tan ra” gợi ra nhiều cách hiểu. “Tan ra” không phải là mất đi, không phải là để tan loãng vào cõi hư vô mà “tan ra” là hi sinh, là dâng hiến, là khao khát được hoá thân cái tôi cá thể vào “trăm con sóng nhỏ” để hoà mình vào “biển lớn tình yêu” để vĩnh hằng hoá, bất tử hoá tình yêu; cũng là một cách để vượt qua giới hạn mong manh của cõi người.
“Tan ra” còn là để vượt qua mọi giới hạn không gian, thời gian để trường tồn cùng tình yêu. Trong phút giây giao hoà của cảm xúc thì “tan ra” hay “tan vào nhau” đều là biểu hiện của sự hoà nhập trọn vẹn, thăng hoa. Tình yêu của lứa đôi phải chăng hạnh phúc nhất vẫn là lúc được trọn vẹn cùng những khao khát: “em yêu anh cuồng điên – yêu đến tan cả em” (Dệt tầm gai- Vi Thuỳ Linh); yêu đến nỗi mà “từng nguyên tử của em cũng thuộc về anh” (Uýt man). Yêu và mong ước được hiến dâng và hi sinh cũng chính là khao khát được sống hết mình vì tình yêu. Có như thế tình yêu mới có thể tồn tại vĩnh hằng cùng với thời gian; có như thế tình yêu mới chiến thắng được cái hữu hạn, mong manh của đời người. Hai câu thơ cuối khép lại đoạn thơ như lời kết cho một quan niệm tình yêu hoàn mỹ:
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Ở đây, Xuân Quỳnh đã đặt “biển lớn” – không gian vô tận bên cạnh “ngàn năm” thời gian vô cùng. Ý thơ vì thế trở nên mênh mông như tình yêu nối dài vô tận. Đúng là khi hoà vào biển lớn tình yêu của nhân loại thì tình yêu của những cá thể sẽ không còn cô đơn, không còn mong manh nữa. Sự trường tồn bất tử với thời gian, không gian làm nỗi day dứt hữu hạn và những mong manh của cõi người như cũng tan biến. Ở đó chỉ còn thấy sóng vỗ bờ và “còn vỗ” là còn yêu, còn vỗ bờ là còn tồn tại. Như em còn sống thì sẽ còn yêu anh và sẽ còn yêu anh “cả khi chết đi rồi” (Xuân Quỳnh).
Bàn về sự dâng hiến và hi sinh trong tình yêu, có lẽ chúng ta cũng nên rộng mở “chân trời nghệ thuật” của bài thơ. Đặt hoàn cảnh những năm 1967 -1968 khi bài thơ ra đời, khi sân ga, giếng nước, con tàu diễn ra những “cuộc chia ly màu đỏ” – khi cả nước ào ào xông trận vì miền Nam ruột thịt thì những tình yêu lứa đôi kia cũng phải gác lại cho tình yêu lớn lao hơn – tình yêu Tổ Quốc. Bởi vậy những chàng trai cô gái “xa nhau không hề rơi nước mắt – nước mắt dành cho ngày gặp lại”. Bởi “khi tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”.
Suy cho cùng, đó cũng là dâng hiến và hi sinh, hi sinh tình yêu cá nhân mình để tình yêu cá nhân hoà vào biển lớn tình yêu của đất nước, của trách nhiệm cao cả. Sự hiến dâng ấy cũng như tâm nguyện góp những “mùa xuân nho nhỏ” để làm nên mùa xuân lớn của dân tộc; sự hoá thân thành trăm con sóng nhỏ cũng là hoá thân cho đất nước khi “Tổ Quốc gọi tên mình”. Thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu. Sử dụng các phép tu từ: nhân hoá, ẩn dụ…Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế. Giọng thơ mềm mại, nữ tính Nếu đoạn thơ trong Sóng của Xuân Quỳnh là vẻ đẹp của cái tôi muốn vượt qua sự hữu hạn của đời người để hoá thân vào biển lớn tình yêu; thì đoạn thơ trong bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu lại bộc lộ một cái tôi sôi nổi, vồ vập và khát vọng chiếm lĩnh.
Nhận định về Xuân Diệu, nhà phê bình Hoài Thanh cho rằng: “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này, Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình”. Nhận xét ấy làm ta nhớ tới câu thơ trong bài “Hư vô” của nhà thơ:
Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời
“Vội vàng” cũng là một bài thơ mang cái tôi như thế. Ở phần đầu của bài thơ, thi sĩ luận giải cho người đọc thấy được tạo hoá có sinh ra con người không thể mãi mãi hưởng lạc thú ở chốn trần gian. Đời người ngắn ngủi, tuổi xuân có hạn và thời gian trôi đi vĩnh viễn không trở lại. Vì vậy thi nhân “giục giã” chúng ta phải “nhanh lên”, “vội vàng lên” để tận hưởng bữa tiệc của trần gian khi mà “mùa chưa ngả chiều hôm”, khi mà xuân đang non, cành còn tơ, đồng nội xanh rì, tháng giêng ngon…Có lẽ chính vì vậy mà thi nhân đã khép lại bài thơ bằng một đoạn thơ mang sắc màu ái ân mãnh liệt. Ba chữ “Ta muốn ôm” đứng biệt lập ở giữa đoạn thơ, gợi tư thế chủ động, tâm thế sẵn sàng của một chủ thể đang đứng giữa đất trời, dang rộng vòng tay đón trọn hương đời.
Trước đó nhà thơ xưng “tôi” với ước muốn táo bạo “tắt nắng, buộc gió” nhưng ở đoạn thơ cuối này cái tôi ấy đã hòa thành cái ta chung để tận hưởng hết những hương sắc của cuộc đời. Ngay liền đó là câu thơ thể hiện cái tươi non của “cuộc sống mới bắt đầu mơn mởn”. “Mơn mởn” là từ láy rất gợi cảm và giàu ý nghĩa miêu tả. Nó gợi cảm giác sự vật, cây cối đang ở độ non mướt, tươi tốt đầy sức sống “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, khiến cho thi nhân tràn lên bao khao khát:
“Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn
Làm dây đa quấn quýt cả vườn xuân
Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần
Chân hoá rễ để hút mùa dưới đất”
(Thanh niên)
Và đằng sau khao khát “ôm cả sự sống mơn mởn” ấy là những câu thơ mạnh bạo, gấp gáp, giục giã tràn đầy nỗi yêu:
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Một đoạn thơ ngắn mà có tới bốn, năm từ “ta muốn” được điệp đi, điệp lại, như nhịp điệu hối hả, như hơi thở gấp gáp của thi nhân. Chứng tỏ Xuân Diệu nồng nhiệt đến rối rít, cuống quýt, như muốn cùng lúc giang tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Sống như thế với Xuân Diệu mới thực là sống, mới đi đến tận cùng của niềm hạnh phúc được sống. Điệp ngữ “Ta muốn” như ý nghĩa của nó đã nói lên được cái ham muốn khát thèm đến hăm hở, cuồng nhiệt của nhà thơ. Thi nhân như muốn ôm hết vào lòng mình “mây đưa và gió lượn”, muốn đắm say với “cánh bướm tình yêu”, muốn gom hết vào lồng ngực trẻ trung ấy “một cái hôn nhiều”. Muốn thu hết vào hồn nhựa sống dạt dào “Và non nước, và cây, và cỏ rạng”. Để rồi, chàng như con ong bay đi hút nhụy đời cho đến say “chếnh choáng” hút cho đã cho đầy ánh sáng, “Cho no nê thanh sắc của thời tươi” mới lảo đảo bay đi. Câu thơ:
“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Điệp từ “cho” với nhịp độ tăng tiến nhấn mạnh các cấp độ khát vọng hưởng thụ đạt đến độ thoả thuê, sung mãn, trọn vẹn. Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”, “chếnh choáng”, “đã đầy”. Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân như một cái gì quý nhất, trọn vẹn như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, xuân hồng, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khao khát cao độ.
Thơ Xuân Diệu có đặc trưng là sự vồ vập, cuồng nhiệt, mạnh bạo. Mỗi một lần khao khát “Ta muốn” thì lại đi liền với một động từ chỉ trạng thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, nồng nàn hơn “ôm – sự sống” – “riết – mây đưa, gió lượn” – “say – cánh bướm, tình yêu” – “thâu – cái hôn nhiều”, để cuối cùng là một tiếng kêu của sự cuồng nhiệt, đắm say thể hiện niềm yêu đời, khát sống chưa từng có trong thơ ca Việt Nam “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”. Đây chính là đỉnh điểm của sự khao khát cháy bỏng của nhà thơ.
Dưới ngòi bút của Xuân Diệu và trong ánh mắt “xanh non”, “biếc rờn” của thi sĩ, mùa xuân hiện lên rõ rệt và sống động như có hình có dáng, có hồn có sắc “Xuân hồng”. Mùa xuân như môi, như má của một người thiếu nữ trẻ trung, tràn trề nhựa sống và đẹp xinh, trinh nguyên đang rạo rực yêu đương, hay như một quả chín ngọt thơm trong vườn “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Đứng trước cái hấp dẫn của mùa xuân, cuộc sống, thi sĩ hình như không nén nổi lòng yêu đã đi đến một cử chỉ cũng thật đáng yêu:
Ta muốn cắn vào ngươi!
Có lẽ trong các bài thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng thì đây là những vần thơ Xuân Diệu nhất. Vì mỗi câu, mỗi chữ đều mang hơi thở nồng nàn, đắm say, ham sống của “một nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Thành công của đoạn thơ chính là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật : điệp ngữ “Ta muốn” được lặp đi lặp lại nhiều lần ; sử dụng động từ mạnh : thâu, riết, say, hôn, cắn; giọng điệu say mê; nhịp điệu gấp gáp; chuyển đổi thể thơ linh hoạt; từ ngữ táo bạo thể hiện cái tôi tràn đầy cảm xúc của tác giả.
Văn học là lĩnh vực của sự sáng tạo, vì vậy nó không cho phép sự trùng lặp, tương đồng, liên văn bản tuyệt đối. Nhưng điều kỳ diệu là ở chỗ, tác phẩm văn học lại là nơi gặp gỡ, đồng điệu của những tâm hồn nên nó vẫn có những điểm tương đồng, giao thoa. Bởi vậy sẽ không ngạc nhiên khi “Sóng” của Xuân Quỳnh và “Vội vàng” của Xuân Diệu lại có những điểm giống nhau đến không ngờ.
Tuy nhiên nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình. Bởi vậy ngoài những điểm giao thoa, tương đồng thì giữa hai đoạn thơ cũng mang nhiều điểm riêng biệt tạo nên sức hấp dẫn riêng: Khát vọng trong “Sóng” là khát vọng của tình yêu lứa đôi, là khao khát dâng hiến đến tận cùng, khát vọng thăng thiên, bất tử hoá tình yêu. Còn trong “Vội Vàng” – Xuân Diệu thể hiện một quan niệm sống: sống vội vàng, sống giục giã, cuống quýt, phải tận hưởng vì thời gian đi qua tuổi trẻ sẽ không còn. Cho nên câu thơ cuối cùng của bài thơ “Vội vàng” như một điểm sáng của toàn bài, đó là nốt vĩ thanh vút bay cao trong một thi phẩm tràn trề cảm xúc: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Vâng! Chỉ một câu thơ như vậy thôi nhưng nó đã nâng bài thơ lên tầm triết lý: Vì lẽ cuộc đời trôi đi không đứng đợi nên con người cần sống tận hưởng và tận hiến trong từng giây phút cuộc đời, và đừng lãng phí những tháng năm của đời người, nhất là những tháng năm của tuổi trẻ. Bởi “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt – Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”.
Tình yêu là tiếng gọi của con tim và lý trí. Nếu “Vội vàng” giục giã thi nhân Xuân Diệu sống vồ vập, đắm say với cuộc đời bởi “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”; sống để tận hưởng hương sắc ngất ngây của đời. Thì Xuân Quỳnh lại dịu dàng mà mãnh liệt qua khao khát được tan ra, được hiến dâng cho cuộc đời. Dù mang hai quan niệm khác nhau trong tình yêu nhưng cả hai đoạn thơ và tư tưởng của những thiên tài thi ca Xuân Quỳnh – Xuân Diệu vẫn cất lên những giá trị nhân bản, nhân văn: yêu là sống hết mình cho tình yêu.
3. Phân tích sự khác biệt trong khát vọng tình yêu giữa các bài thơ 'Sóng' và 'Vội vàng' - mẫu 6
Xuân Diệu và Xuân Quỳnh là hai nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam thế kỉ 20. Thơ của Xuân Quỳnh phản ánh tâm hồn phụ nữ với những cảm xúc đa dạng, từ sự hồn nhiên, tươi tắn đến sự chân thành, đằm thắm, luôn khao khát một hạnh phúc đời thường. Ngược lại, thơ Xuân Diệu thể hiện sự đam mê mạnh mẽ, khát vọng sống tràn đầy trong tình yêu và cuộc sống. Cả hai đều mang đến cách thể hiện khát vọng tình yêu tuổi trẻ rất riêng biệt.
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
(Sóng – Xuân Quỳnh)
Đoạn thơ trong bài 'Sóng' của Xuân Quỳnh thể hiện một khát vọng mãnh liệt. Khát vọng hòa mình thành trăm con sóng nhỏ, khát vọng dâng hiến không ngừng vì tình yêu thật sự chỉ đến khi bạn biết cho đi thay vì nắm giữ.
Khát vọng của Xuân Quỳnh là muốn tình yêu trở nên vĩnh cửu, không bị tách rời khỏi cộng đồng. Đặt bài thơ trong bối cảnh năm 1968, khi đất nước đang chiến tranh, ta càng hiểu sâu sắc hơn về tình yêu và những khát vọng của con người thời ấy.
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
(Vội vàng – Xuân Diệu)
Đoạn thơ trong bài 'Vội vàng' của Xuân Diệu bộc lộ một cái tôi sôi nổi và khao khát mãnh liệt. Khát vọng của Xuân Diệu là ngừng nắng và buộc gió để giữ lại sự tươi mới của mùa xuân. 'Nắng' và 'gió', 'hương' và 'hoa' là những hình ảnh ẩn dụ cho tuổi trẻ. Xuân Diệu lo sợ về thời gian và tuổi tác, vì vậy ông khao khát giữ lại những khoảnh khắc đẹp nhất của cuộc đời.
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”
Khát vọng của Xuân Diệu là chiếm quyền năng của tạo hóa để vũ trụ ngừng quay, thời gian ngừng trôi, để tận hưởng những phút giây đẹp nhất của đời người. Đây cũng là một khát vọng đầy tính nhân văn.
Khát vọng trong 'Sóng' là khao khát tình yêu lứa đôi, dâng hiến hết mình. Còn trong 'Vội vàng' thể hiện quan niệm sống vội vàng, tận hưởng từng khoảnh khắc vì thời gian trôi qua không thể trở lại.
4. Phân tích khát vọng tình yêu trong bài thơ 'Sóng' và 'Vội vàng' - mẫu 7
Ngàn vạn năm rồi kể từ khi tiếng đàn Orphee vang lên thay cho niềm nhớ nhung vô hạn gửi đến người vợ Euridice của mình. Nỗi nhớ thương ngày ấy lay động cả đỉnh Olympus và ngục sâu thẳm của thế giới Vong Hồn. Sóng đã đi giữa những xúc cảm mãnh liệt tình yêu ấy để thoáng chốc gọi mở cho bản thân mình những xúc cảm giản dị của người phụ nữ thời đại: nỗi lo âu và khát vọng bất tử hóa tình yêu. Để từ đó chính “Sóng” với những triết lý của riêng mình lại gặp “Vội Vàng” của Xuân Diệu khi xưa về triết lý thời gian.
Khánh Ly trong quyển sách duy nhất của mình – Đằng sau những nụ cười- đã tâm sự rất mực chân thành về những người phụ nữ làm nghệ thuật: là ca sĩ hay là thi sĩ. Bà nói rằng bất cứ người phụ nữ nào, dù có kiêu sa với ánh đèn, tiếng hát hay vinh quang tột bậc với những con chữ, thì sau tất cả, ai cũng giữ cho mình một đóa hoa hồng nhỏ bé trong trái tim. Đó là những ước vọng đời thường, những khát khao bình dị, những niềm yêu chân. Xuân Quỳnh cũng là người phụ nữ như thế. Chị ngay từ những buổi đầu của thơ ca đã chạm vào thơ ca bằng đôi bàn tay kì diệu của một trái tim hồn hậu yêu thương. Ơ đôi bàn tay ấy có một đóa hoa ngâu vàng đang nở rộ trong tiếng đàn của anh. Đông đầy nơi ấy là tiếng “À ơi …cái ngủ đang về cùng con.” Nhưng đi giữa tình yêu người ta vẫn thấy thấp thoáng đâu đó một nỗi nhớ, lo sợ và phấp phỏng. “Lời yêu mỏng manh như màu khói? Ai biết tình ai có đổi thay?” (Hoa cỏ may).
Để các dòng thơ của chị lại tạo thành dòng mạch ngầm êm đềm len lỏi trong tâm hồn . Chúng âm ỉ nỗi đau của một người phụ nữ đã từng trải qua mất mát đau thương của cuộc đời. Nhưng vẫn thường trực đâu đó trong mạch ngầm ấy là một niềm tin mãnh liệt vào tình yêu. Mang trong mình khát vọng tình yêu của Xuân Quỳnh nên “Sóng” đã được chị ưu ái đặt và nở rộ giữa rừng hoa chiến tuyến trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào “ (1967). Tập thơ này chị viết nhiều về đất nước. Có lẽ vì suốt tập thơ ấy, Xuân Quỳnh chỉ dành duy nhất góc nhỏ này cho tình yêu nên “Sóng“ đã tu hội trong nó tất cả những gì là đặc trưng nhất của thơ chị: vừa hiện đại vừa truyền thống, lúc cuộn xoáy khát khao, lúc dâng trào mãnh liệt, lúc trầm ấm thiết tha, lúc thâm trầm nghĩ ngợi. Sóng ấy trong hai khổ thơ cuối, sau một đoạn đường dài trải nghiệm về tình yêu lại trầm tư trong những nỗi lo âu thường trực, trong những triết lý tình yêu vĩnh hằng.
Trong thơ có một ngưỡng cửa mà bất kì ai cũng phải vượt qua nếu muốn trở thành thi nhân chân chính: sự thành thật. Nhiều người mới bước vào thi đàn thơ ca lại cứ quen lối chau chuốt ngôn từ hay cường điệu tình cảm. Chau chuốt quá hóa sáo mòn, cường điệu lắm thành ra giả tạo. Xuận Quỳnh không thế. Chị xem mình là người phụ nữ bình thường và chị cho phép mình giải bày nỗi niềm lo âu trước sự mong manh của tình yêu vào hình tượng Sóng độc đáo mà không khoa trương:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa.”
Đứng trước biển, đứng trước sự vô hồn, vô tận của biển cả, sự vô thủy, vô chung của thời gian, con người lại rợn ngợp và đầy nỗi lo. Xuân Quỳnh trước biển lớn lại như Sóng chơi vơi đầy nỗi niềm. Có lẽ thế nên giọng thơ của chị quãng này chùng xuống, lắng đọng đầy chiêm nghiệm. “Cuộc đời” vì vậy cất lên ngay đầu câu như một tiếng thở dài . Bởi bản thân nó đang gánh trên vai tình yêu, sự sống và niềm tin. Nhưng thời gian vẫn thế, vẫn nhẹ nhàng lả lướt đi trên từng bước nhịp cuộc đời để lại những vấn vương riêng tư thời đại. Người xưa đứng trước sự chảy trôi ấy vẫn giữ cho mình một trái tim an nhiên tự tại để sống trọn một đời để rồi chết đi lại về với đất trời:
“Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao.”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Ta sẽ bỗng có cảm tưởng như thể thời gian vẫn cứ tuần hoàn theo tháng năm như cái bản chất vốn có của nó. Nhịp thơ ấy khi đến với mặt biển rộng của Thơ Mới lại như chuyển dòng vòng giữa những khúc quanh đầy ám ảnh của chia ly mất mát. Xuân Diệu nhạy cảm nhận ra: “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi ”để rồi tiếng thơ ông vang lên như một cơn lũ cảm xúc,hối hả cuốn theo tất cả sự đắm say trước vẻ đẹp thời gian trong bước nhịp dồn dập của cuộc đời. Xuân Quỳnh giữa thời gian lại như cánh chuồn chuồn bơ vơi tìm cho tình yêu chỗ nương thân trong nắng nôi dông bão của cuộc đời. Phải chăng thời tgian đã thực sự đã bào mòn cái mầm sống le lói của tình yêu để nó trở nên hữu hạn? Bởi lẽ bi kịch của tình yêu không phải là cái chết hay sự chia ly mà là sự lãnh đạm đi qua đời nhau? Cặp quan hệ từ chỉ y nhượng bộ “tuy…vẫn”, “dẫu…vẫn…” tiếp nối sau đó đã thể hiện sự trăn trở của con người trước sự hữu hạn ấy của cuộc đời. Vì đời người tuy dài đến cả trăm năm thì theo năm tháng , tất cả rồi sẽ đi qua. Biển kia cũng vậy. Nó tuy rộng nhưng không phải vô tận nên chẳng thể giữ mây ở lại vĩnh viễn.
Vũ trụ thì bao la nhưng con người lại nhỏ bé quá. Đời người thì ngắn ngủi nhưng khát vọng tình yêu của con người lại quá to lớn. Con người trước những nghịch lý ấy lại chỉ là một thân phận phù du ôm mộng tình yêu vĩnh hằng, hạnh phúc muôn đời. Và vì vậy con người luôn lo lắng, sợ hãi trước sự phôi phai của tình yêu. Mang trong mình những sự sợ sệt cố hữu nên con người càng gan dạ để sẵn sàng vượt qua mọi thử thách của thời gian để vì nhau và cùng nhau tìm kiếm hạnh phúc chân thực. Không gian và thời gian tuy từng trở đi trở lại trong thơ Xuân Quỳnh như một nỗi ám ảnh về tình yêu phai nhạt lại trở về trong “Sóng” như một động lực, một nguồn sức mạnh để hun đúc cho người sự mạnh mẽ để hành động và sống vì tình yêu của mình. Chính “Sóng” đã đưa tình yêu “Trở về đúng nghĩa trái tim em/ Biết khát khao những điều mơ ước. Biết xúc động qua nhiều nhận thức/ Biết yêu anh và biết được anh yêu.” (Tự Hát). Và cũng để chén rượu thơ của Xuân Quỳnh rót ra trên bề mặt chữ sớm gặp những nỗi lòng tri âm của thế hệ – những người vẫn mang khát vọng yêu thương và sẻ chia. Phan Thị Thanh Nhàn trong những vần thơ của mình đã rót vào thành trì yêu thương những giọt buồn :”Nếu anh đi với người yêu/ Chỉ mong anh nhớ một điều nhỏ thôi/ Nếu cùng người mới dạo chơi/ Xin anh tránh những nẻo đường vui ban đầu “. Xuân Quỳnh không vậy. Sóng trong thơ chị vẫn là người con gái vị tha và mạnh mẽ trước giông tố cuộc đời. Chị đã hóa thân vào Sóng để bày tỏ khát vọng được vươn mình ra sự vĩnh hằng của tình yêu:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giua biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.”
Vẫn là một Xuân Quỳnh “Bao ngày tháng đi về trên mái tóc/ Chỉ có em là đã khác em thôi.”, hay lo sợ về cái mong manh , ngắn ngủi của đời người. Câu hỏi “làm sao” cùng kết cấu “làm sao…được thành…” đã bộc lộ khát vọng đau đáu đến khắc khoải của nhà thơ. Làm sao để tình yêu như cánh phượng tồn tại mãi trong lưu bút tâm hồn? Làm sao được hòa mình vào tình yêu? Làm sao để tìm kiếm tình yêu đích thực giữa muôn ngàn khuôn mặt từa tựa nhau?..
Tất cả những câu hỏi đó vẫn thường trực, trăn trở trong nỗi lòng của Xuân Quỳnh. Chị nghĩ mình là con sóng trong lòng biển, lại thấy lo âu về sự tàn phai của tình yêu. Kì thực trong nỗi lo đầy nhân tính ấy. chị càng tin vào tình yêu, cháy bỏng để hòa mình vào Sóng. “Được tan ra” chính là sự từ bỏ của chính chị- một cái tôi ích kỷ để hoàn toàn hòa nhập vào đại dương. Và khi tâm hồn chị tan trong khát vọng, mọi suy nghĩ và tình cảm đều tan thành “trăm con sóng nhỏ” để hướng đến bờ yêu. “Tan” ở đây là sự dâng hiến hòa mình. Đó không phải là một tham vọng chiếm hữu. Bởi chị không có ý muốn vươn đến cái cực hạn. Mà điều chị mong là sự vô hạn giữa biển lớn . Để từ đó, từ một thân phận bé nhỏ của một con Sóng vẫn ráo riết rong ruổi “tìm ra tận bể”, nhìn về biển lớn với vẻ ngây ngô “Từ nơi nào sóng lên?”, vẫn chực chờ bao nỗi ám ảnh trước thời gian chảy trôi, sóng cuối cùng vẫn có thể tự nở thành những đóa hoa tình yêu bất tử giữa biển khơi. Chúng ta vẫn thường hay lo sợ về tình yêu.
Chúng ta luôn đòi hỏi tình yêu sự hồi đáp. Nhưng có lẽ chúng ta chưa bao giờ tự hỏi và tự nhắc nhở bản thân về trách nhiệm của mình với tình yêu, về hành động của mình với tình yêu. Vì vậy Xuân Quỳnh đã thay lời Sóng để giúp con người nhận ra rằng chỉ có sống và yêu hết mình thì tình yêu mới đủ sức mạnh để vượt qua sự băng hoại của thời gian để chạm khắc vào thành trì thời gian những nét bút rực lửa của một tình yêu đẹp và vĩnh cửu. Chính phút giây ấy, giây phút mà Sóng tìm được cho mình một lối sống phù hợp trước thời gian ây thì Sóng không còn là những con sóng xa tít biển khơi mà nó đã trở thành em, trở thành nỗi lòng muôn thế hệ.
Sóng không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Và Sóng sau một đoạn hành trình dài biến hóa qua biết bao hồn thơ và tình thơ thì nó lại trở về cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng vẫn khao khát yêu và được yêu trong thơ Xuân Quỳnh. Việc sử dụng hình tượng “Sóng” vì vậy không mới. Tuy nhiên, Sóng của Xuân Quỳnh vẫn giữ được một góc riêng vì lời của Sóng là lời tâm sự đầy tha thiết, đầy suy tư về những triết lý tình yêu nhưng từ ngữ lại hết sức giản dị. Xuân Quỳnh đã phát hiện những quy luật của Sóng ở đại dương và đồng nhất chúng với quy luật tình yêu. Chị vừa thổ lộ trực tiếp những nguy nghĩa vừa mượn hình tượng Sóng để thể hiện quy luật rằng: Tựa như sóng vẫn cứ vỗ bờ mãi ngàn năm không biết mệt mỏi thì tình yêu sẽ vĩnh cửu khi con người chân thành và hết mình vì nó. Xuân Quỳnh đã từ bỏ cái tôi chật hẹp đầy riêng tư để tìm đến một tình yêu bao la rộng lớn muôn đời. (Bởi lẽ chị đã vượt qua cái gọi là hiện đại hay truyền thống mà người ta vẫn thường gán cho thơ chị, thật sự đến với tình yêu và “Sóng” bằng hai chữ “chân thành”.
Chính vì thế chị yêu như đúng nghĩa một tình yêu mãnh liệt và chị lo lắng như nỗi lo muôn đời của con người. Trong chị không có dấu vết của lễ giáo gia phong của những quan niệm khép mình của Phương Đông xưa, cũng không có cái tự do và táo bạo nhiều đên thiếu đi phần nữ tính của phương Tây hiện đại. Mà điều còn lại trong thơ chị, tồn tại ở nơi đây, vĩnh hằng trong Sóng muôn đời là một tình yêu của một người phụ nữ hiện đại với tất cả tâm tình chảy ra từ suối nguồn vô tận của thương yêu)
Nếu những năm tháng sau này chúng ta trầm tư với những lời thơ cảu Xuân Quỳnh trong triết lý tình yêu vĩnh cửu của chi thì trước đây đã từng có một nhà thơ dùng lời thơ để gửi gắm triết lý sống đúng đắn trước thời gian. Đó là Xuân Diệu với triết lý sống “Vội vàng” trong bài thơ cùng tên
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước,và cây và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùa thơm, cho đã đầy ánh sáng. Cho no nê thanh sắc của thời tươi -Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi. Đã có năm lần cụm từ “ta muốn” nhấn xuống bề mặt thơ. Đã có lúc đại từ “tôi“ chuyển thành đại từ “ta”. Và đã có khi ông cuống quýt cùng với bướm, mây ,… Trái tim ông tràn đầy nhựa sống . Và ông gửi gắm vào thơ. Những vần thơ vì vậy như hồn Xuân Diệu muốn mở ra, như tay Xuân Diệu muốn chìa ra ôm lấy, như tấm lòng của Xuân Diệu muốn gửi gắm đến bạn đọc một triết lý sống: triết lý vội vàng.Bởi Xuân Diệu từng lo lắng: ”Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua/ Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.” Và ông tiếc nuối: ”Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật/ Không cho dài thời trẻ của nhân gian.” Vì vậy ông luôn vội vã “Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm.” Lòng ham sống và sự say mê cuồng nhiệt với mùa xuân và tuổi trẻ đã tạo cho Xuân Diệu một động lực lớn lao để sống thật trọn vẹn, để sống cống hiến hết mình cho cuộc đời. Và triết lý sống ấy đến với người đọc đã tạo nên một niềm tin để con người vượt qua những thử thách, những lúc yếu đuối , nản chí để tiếp tục theo đuổi đam mê để tuổi trẻ trôi qua không lãng phí. Người ta gọi thơ Xuân Diệu là “nguồn sống dào dạt chưa từng có ở chốn non nước lặng lẽ này“ chính là vì Xuân Diệu đã gọi dậy được lòng ham sống, thôi thúc được trong người đọc sự vội vàng để tạo nên những phút giây ý nghĩa.
là những ngày đẹp hơn tất cả/ Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn.” Đúng, bởi lẽ dù là ngày trời xanh nắng đẹp hay ngày mây mù âm u thì chúng ta sẽ không có cơ hội nhìn thấy bầu trời chính xác như thế này lần nữa. Hiểu được và từng đau đớn, lo âu vì sự nhanh vội của thời gian, cả Xuân Quỳnh và Xuân Diệu đã gặp nhau trong triết lý thời gian tuyến tính. Với họ, thời gian không tuần hoàn. Thời gian sẽ trôi đi và không bao giờ trở lại .Và nếu con người không hành động, con người sẽ bỏ lỡ . Vì vậy cả bài thơ đã truyền cho con người khát vọng sống tích cực và mãnh liệt để tận hưởng, tận hiến những gì đẹp đẽ nhất cho cuộc đời. Tuy nhiên mỗi bài thơ lại mang những khát khao hướng đến những điều thân thương khác nhau. Nếu “Sóng” là khát vọng của người phụ nữ trong tình yêu, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người để sống mãi với tình yêu lớn của mình thì Vội Vàng không vậy.
Bài thơ lại thế hiện khát khao được sống hối hả, cuồng nhiệt như một cách khắc phục giới hạn đời người trong dòng chảy thời gian. Nhưng giữa những khat vọng riêng tư ấy, điểm khác biệt lớn lao nhất là cách mà cả hai nhà thơ hành động vì khát khao của mình. Xuân Quỳnh, chị ước vọng được tan mình trong tình yêu và tình cảm lớn lao để bất tử hóa tình yêu. Xuân Diệu, ông lại say riết, ôm xiết với những gì ông yêu thương. Ở ông, người ta cảm nhận được cái tôi đầy ích kỷ để sống trọn vẹn vì bản thân với mảnh đất trần gian. Sự khác nhau ấy đến từ phong cách và trào lưu văn học của thời đại tác giả sinh sống.Thơ Xuân Quỳnh ra đời và lớn lên trong thời đại văn hóa phát triển theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước. Vì vậy Sóng của thơ chị không chỉ mang thân phận của người con gái hết mình vì tình yêu. Mà Sóng ấy còn gắn thân phận của mình với số mệnh đất nước.
Tiếng lòng của thơ chị cũng là tiếng lòng của những nhà thơ cùng thời: ”Anh yêu em như anh yêu đất nước.” (Tố Hữu). “Trong anh và em hôm nay/Đều có một phần Đất Nước.” (Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm). Vì mỗi cá nhân đều có ảnh hưởng nhất định đến số phận của đất nước. Chúng ta, mỗi người cần “Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở / Làm nên Đất Nước muôn đời.” Âm hưởng sử thi ấy rõ ràng đã vọng vào bài thơ, đặc biệt là khổ thơ cuôi, trong sự hòa nhập của tình yêu đôi lứa với “biển lớn tình yêu”- một tình yêu chung của cộng đồng rộng lớn: tình yêu đất nước. Cho nên trong Sóng, Xuân Quỳnh đã chọn sự cho đi để lưu giữ tình yêu vào cõi bất tử. Nhưng Xuân Diệu lại không vậy. Ông ra đời trong thời đại đề cao giá trị chữ tôi.
Chữ tôi ấy cho phép và đòi hỏi ở mỗi ca nhân một cá tính, một sự dũng cảm để đấu tranh cho quyền tự do yêu đương và bảo vệ chúng. Ở Vội Vàng, người ta cảm nhận được cái tôi ấy đầy mãnh liệt trong tình yêu vơi mùa xuân và tuổi trẻ. Và chinh vì yêu và cuồng si, ông tham lam và ích kỷ để cất giữa những điều tuyệt vời cho riêng mình. Vì vậy trong thơ Xuân Diệu luôn tồn tại sự níu kéo tuổi trẻ trong những cái “ôm”,”riết”,”thâu”,”say: “cắn” vì với ông đó là các duy nhất để ông không tiếc nuối và day dứt trong việc bảo vệ điều mà ông yêu quý. Hai nhà hai cách thức, hai lối viết khác nhau đều là những khúc ca đẹp về tuổi trẻ. Từ đó từng lời thơ cất lên như đưa giai điệu và lòng người để người đọc nâng niu và trân trọng những điều mình đang có, hạnh phúc mang mình đang sở hữu.
Người nghệ sĩ nào bỗng một hôm cư ôm đàn ra vào ngẩn ngơ, điệu nhạc buôn ra theo tiếng thở dài và những nụ cười vụt đến rồi lại vụt đi. Bạn bè hỏi , anh ta mà khe khẽ: ”Tôi đang nhớ nghĩa là tôi đang yêu.” (Cách diễn đạt của Decaster) . Tình yêu và nỗi nhớ, nỗi lo âu là những đứa trẻ giống nhau , tình yêu đến và những nhung nhớ, những nỗi lo lại theo về. Tựa như lời của “Sóng” cất lên vẫn say đắm chảy hoài, chảy mãi cho tâm sự, cho khát vọng bất tử hóa tình yêu của con người. Tựa như lời Xuân Diệu rất nhiều năm về trước đầy tha thiết gửi gắm triết lý sống Vội Vàng thôi thúc mãi cho con người thời xưa, thời nay, những năm tháng sau này và mãi mãi…
5. Bài luận so sánh khát vọng tình yêu trong thơ 'Sóng' và 'Vội vàng' - mẫu 8
“Sống và khát vọng” là lí tưởng cao đẹp của thanh niên thời hiện đại. Tuổi trẻ nên biết tận hưởng và cống hiến sức mình cho đời. Đó có lẽ là biểu hiện niềm ham sống mãnh liệt, hay là nỗi khao khát hòa mình vào tình yêu chung của nhân loại. Xuân Diệu và Xuân Quỳnh – những nhà thơ của tuổi trẻ – đã thể hiện quan niệm sống mới mẻ này qua hai tác phẩm tiêu biểu là “Sóng” và “Vội vàng” mà tiêu biểu là hai đoạn thơ sau:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
(Sóng – Xuân Quỳnh)
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
(Vội vàng – Xuân Diệu)
Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ thời chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng người phụ nữ khi yêu, nhiều trắc ẩn – vừa hồn nhiên, tươi tắn lại vừa đằm thắm, chân thành. Nhân vật trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh đều là những người phụ nữ mạnh mẽ, luôn da diết khát vọng hạnh phúc đời thường. Bài thơ “Sóng” ra đời trong chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền (Thái Bình). Đây là thi phẩm đặc sắc, đậm chất phong cách thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”.
Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Ông đã đem đến cho thi ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới cùng những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo. Cũng như Xuân Quỳnh, Xuân Diệu là nhà thơ của tình yêu và tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết. Từ sau cách mạng, thơ Xuân Diệu gắn liền với đất nước và rất giàu tính thời sự. Bài thơ “Vội vàng” là một trong số những thi phẩm về lòng yêu cuộc sống của người trẻ, được in trong tập “Thơ Thơ”.
“Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” (Xuân Diệu). Vì thế, sống và để yêu thương và khát vọng luôn song hành cùng tuổi trẻ. Đó là tính quy luật muôn đời. Trước hết, ta sẽ tìm hiểu khát vọng mà nữ sĩ Xuân Quỳnh đã đề cập đến trong “Sóng”. Tuổi trẻ sinh ra là để được yêu và tình yêu đóng vai trò đặc biệt đối với tuổi thanh xuân của mỗi người. Bởi lẽ:
Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào.
(Xuân Diệu)
Tình yêu trong “Sóng” của Xuân Quỳnh không chỉ có những cung bậc cảm xúc đời thường của người phụ nữ khi yêu mà nó còn ẩn chứa lí tưởng cao đẹp của tình yêu hiện đại:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
Người trẻ yêu rất say đắm, rất mãnh liệt, họ luôn khát vọng tình yêu, luôn “bồi hồi trong ngực trẻ”. Chính vì vậy, mà họ sẵn sàng hi sinh, hiến dâng cho hạnh phúc của mình. Chỉ với bốn câu thơ, nữ tác giả đã bộc lộ cái tôi bản thân cũng như suy nghĩ của thế hệ trẻ. Hai chữ “làm sao” thật giàu cảm xúc. Là nỗi băn khoăn, trăn trở của Xuân Quỳnh. Đó chính là nỗi khát khao được “tan thành trăm con sóng nhỏ”. Vì sao vậy, vì nhà thơ bằng trực cảm của mình đã nhận ra tình yêu không thuộc về vĩnh viễn. Nó giống như:
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Cuộc đời tuy dài nhưng không ngăn nổi tháng năm của tuổi trẻ sẽ đi qua. Biển dẫu đến vô cùng vẫn không thể nào giữ nổi một đám mây bay về cuối chân trời. Vì vậy mới sinh ra khát vọng của thi nhân. Khát vọng được hóa thân thành sóng là khát vọng được cho đi, được dâng hiến. Bởi vì, có một nghịch lí trong tình yêu là “hạnh phúc thật sự chỉ đến khi bạn biết mạnh dạn cho đi chứ không phải nắm giữ thật chặt” (Christopher Hoare). Con sóng lớn là tổng hòa của “Trăm con sóng nhỏ” để hòa vào đại dương mênh mông sâu thẳm. Trong bao la vô tận ấy, sóng sẽ mãi mãi vỗ muôn điệu yêu thương mà không bao giờ lo âu vì tình yêu trong biển rộng trời cao ấy chẳng bao giờ vơi cạn. Bên cạnh đó, có thể thấy rằng, Xuân Quỳnh đang ngầm so sánh cuộc đời tựa hồ như biển lớn tình yêu được tạo nên từ những con sóng nhỏ. Sóng chẳng thể tồn tại nếu nó không còn là một phần của biển khơi. Cũng như tình yêu của muôn người, nếu tách khỏi cộng đồng thì chỉ mãi là một tình yêu lẻ loi, vị kỉ. Từ đó, người đọc cảm nhận được khao khát bất tử hóa tình yêu của nhà thơ:
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
Những con sóng đó quyện mình vào đại dương bao la, cùng vỗ nhịp yêu thương đến ngàn đời sau tượng trưng cho tình yêu vĩnh hằng. Tình yêu cá nhân cần phải hòa mình vào tình yêu chung của nhân loại thì mới trường tồn, vĩnh cửu. Bởi một lẽ “giọt nước chỉ không thể cạn khi nó hòa vào biển cả”. Hơn nữa, bài thơ được ra đời vào năm 1968, trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn ác liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ xâm lược. Thanh niên nam nữ đều xông pha mặt trận, chiến trường khói lửa bom đạn. Biết bao nhiêu cuộc chia ly màu đỏ giữa các cặp gái trai diễn ra vào thời điểm đó. Nghĩ đến điều này, ta lại càng thấm thía hơn về lý tưởng tình yêu của con người thời đại ấy. Nói tóm lại, thông qua khổ cuối của bài thơ “Sóng”, Xuân Quỳnh đã gửi đến độc giả thông điệp nhân văn về tình yêu: yêu là hiến dâng và tình yêu cá nhân không thể và cũng không thể tách rời bể lớn tình yêu nhân loại.
Xuân Quỳnh đã rất khéo léo khi chọn viết “Sóng” bằng thể thơ ngũ ngôn, giàu nhịp điệu. Nhịp điệu của sóng, nhịp điệu của tâm hồn giúp cho nhà thơ phần nào truyền tải ý nghĩa nhân văn của mình đến người đọc một cách sâu sắc và xúc động nhất. Cách so sánh “em” với “sóng” độc đáo, cùng những hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ những con sóng tựa như tâm hồn trắc ẩn của người phụ nữ đang yêu đã tạo nên thành công cho bài thơ. Chẳng những yêu hết mình, yêu chân thành mà tuổi trẻ còn có một niềm ham sống mãnh liệt. Không ai khác ngoài Xuân Diệu có thể bộc lộ cái tôi sôi nổi, giàu khát vọng ấy của đời thanh niên:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Bốn câu thơ trên là lời mở đầu cho thi phẩm “Vội vàng”. Đặc biệt thay, chỉ những câu thơ này được viết bằng thể ngũ ngôn. Với nhịp ngắn, nhanh, giàu nhạc điệu, thì đây là thể thơ thích hợp nhất để bộc lộ cái tôi đầy khát vọng mãnh liệt và táo bạo của nhà thơ. Nhân vật trữ tình trong “Vội vàng” có một khao khát được “tắt nắng” cho màu hoa đừng phai, được “buộc gió” cho “hương đừng bay đi”. Nắng và gió, hương và hoa ở đây là mùa xuân của đất trời. Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm với bạt ngàn hoa thơm, cỏ lạ, với không khí ấm áp, muôn chim hội tụ. Đó là “đồng nội xa rì”, là “lá cành tơ phơ phất” và còn là “của yến anh này đây khúc tình si”. Mùa xuân qua “cặp mắt xanh non biếc rờn” của nhà thơ càng trở nên thanh tân, quyến rũ đến lạ lùng: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Nhưng ẩn sâu trong vẻ đẹp diệu kỳ ấy của mùa xuân là vòng quay không ngừng của thời gian. Thời gian có sức mạnh ghê gớm, nó bào mòn mọi thứ, kể cả tuổi thanh xuân của con người. Vì vậy mà Xuân Diệu luôn lo sợ về tình yêu, về tuổi già trước mắt: Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.
Nỗi sợ vô hình ấy cứ ám ảnh nhà thơ mãi không thôi. Chính vì lẽ đó mà Xuân Diệu đã khát vọng chiếm đoạt quyền năng của tạo hóa, buộc vũ trụ ngừng quay, thời gian dừng lại. Từ đó, thi nhân được hưởng trọn vẹn những phút giây đẹp nhất của đời người. Khát khao ấy nghe có vẻ ngông cuồng, điên rồ nhưng lại rất hợp lý. Có người từng bảo rằng: “Tuổi trẻ như một cơn mưa rào, cho dù bị cảm, vẫn muốn quay lại để được ướt thêm một lần nữa”. Tuổi thanh xuân, là quãng thời gian mà con người cảm thấy mình đẹp nhất, sung sức nhất. Nhà thơ muốn được níu giữ, được tận hưởng thời trẻ, điều đó cũng không quá khó hiểu. Đây chính là khát vọng đầy chất nhân văn của tác giả. Xuân Diệu, qua đó, cũng nhắc nhở người đọc: “Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm”. Nghĩa là ta phải nhanh lên để tình non chẳng chóng già, để một mai ngẫm lại ta không hối tiếc vì đã “chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Tác giả sử dụng thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu, lột tả chân thực khát vọng mãnh liệt của bản thân cũng như làm tăng sức truyền cảm đối với độc giả. Chỉ vỏn vẹn bốn câu thơ mở đầu, mà các động từ mạnh “tắt”, “buộc”,… cùng với điệp ngữ “Tôi muốn” đồng loạt xuất hiện, góp phần nhấn mạnh nội dung của thi phẩm, đồng thời tạo nên cái hay cho đoạn thơ, mang đậm phong cách thơ Xuân Diệu.
Dễ dàng nhận thấy, cả Xuân Quỳnh lẫn Xuân Diệu đều sử dụng thể thơ ngũ ngôn, giàu nhịp điệu nhằm tăng tính biểu cảm khi truyền tải ý nghĩa nhân văn đến người đọc. Ngoài ra, hai khổ thơ trên đều bộc lộ cái tôi khát vọng với đời vô cùng cháy bỏng của thế hệ trẻ thời hiện đại. Tuy nhiên, khát vọng trong “Sóng” là khát vọng tình yêu lứa đôi, là khao khát được tận hiến, được hi sinh cho một tình yêu đẹp, giữa “biển lớn ngàn năm sóng vỗ”. Còn trong “Vội vàng”, ấy lại là một quan niệm nhân sinh về lẽ sống: sống vội vàng , giục giã để tận hưởng những giá trị của cuộc sống.
Người ta nói: “Tuổi trẻ là tuổi không ngại ngùng gì và không nghi ngờ gì”. Tuổi thanh xuân của đời người trôi qua nhanh lắm. Vậy nên, đừng ngại ngùng, hãy yêu hết mình, sống vội vàng với cả nhiệt huyết của người trẻ như Xuân Diệu và Xuân Quỳnh. Chỉ có thế, ta mới vươn tới được hạnh phúc vĩnh hằng và hưởng thụ lấy những tinh hoa, những khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời này.
6. Phân tích khát vọng tình yêu qua hai bài thơ 'Sóng' và 'Vội vàng' - mẫu 1
“Dù thơ viết về bất cứ ai hay điều gì, nó vẫn phản ánh sâu sắc cái tôi của nhà thơ.” (Thanh Thảo). Tiếng nói trong thơ luôn thuộc về ngôi thứ nhất, thể hiện nội tâm và cảm xúc cá nhân. Ví dụ, Xuân Quỳnh trong bài thơ “Sóng” thể hiện khát vọng tình yêu qua câu: “Làm sao được tan ra...Để ngàn năm còn vỗ”, trong khi Xuân Diệu trong “Vội vàng” lại bộc bạch: “Ta muốn ôm...Cho no nê thanh sắc của thời tươi”.
Tình yêu là chủ đề muôn thuở trong thơ ca. Chúng ta đã từng xao xuyến trước nỗi nhớ trong “Khăn thương nhớ ai”, cảm thương cho mối tình của Kim – Kiều, hay xót xa cho sự chờ đợi của người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm”. Tình yêu đi kèm với những suy ngẫm, cảm xúc và khát vọng đa dạng. Xuân Quỳnh, với trái tim nồng nàn, thể hiện một cái tôi nữ tính, duyên dáng trong tình yêu. Ngược lại, Xuân Diệu, một nghệ sĩ luôn tìm kiếm cái đẹp trong cuộc sống, khao khát tình yêu trọn vẹn và mãnh liệt, muốn chiếm đoạt tình yêu của vũ trụ. Hai phong cách sáng tác của họ đều mang dấu ấn cá nhân, tạo nên những cảm xúc đặc biệt trong thơ ca, như những “tự truyện của một khát vọng” (J.M.Maulpoix).
“Sóng” là tác phẩm được tạo ra từ chuyến đi thực tế của Xuân Quỳnh đến vùng biển Diêm Điền. Trước sức mạnh của sóng và gió biển, nhà thơ không thể kìm nén nỗi lòng mình và đã viết nên bài thơ này. Trong bài thơ, không chỉ có tình yêu, mà còn có khát vọng mãnh liệt:
“Làm sao để tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa đại dương tình yêu
Để ngàn năm vẫn vỗ.”
Hình ảnh sóng hòa vào khát vọng được hiến dâng và hòa mình vào đại dương tình yêu. “Tan ra” thể hiện khát vọng hóa thân thành sóng để tồn tại mãi trong không gian vô tận của biển cả. Sóng lớn muốn biến thành hàng ngàn con sóng nhỏ hơn để hòa vào biển khơi, trải lòng và dâng hiến cho người tình biển cả. Khát vọng này là sự hiến dâng trong tình yêu, muốn kéo dài cuộc đời hữu hạn bằng tình yêu. Khát vọng này khiến người đọc nhớ đến hình ảnh nàng tiên cá biến thành bọt biển, biểu hiện của sự hy sinh vì người mình yêu. Có phải đây là hình ảnh của một người con gái sẵn sàng hy sinh tất cả cho tình yêu chân chính? Mục đích của cô gái là:
“Giữa đại dương tình yêu
Để ngàn năm vẫn vỗ”
Khát vọng hóa thân không phải là vô nghĩa, mà là sự kéo dài của tình yêu. Sóng sẵn sàng tan ra thành nhiều con sóng nhỏ hơn để hòa vào biển lớn, để ngàn năm trôi qua vẫn còn vỗ. Những câu thơ cuối cùng vẫn giữ nhịp đập của một trái tim yêu mãnh liệt. Do đó, “Sóng” trở thành một trong những bản tình ca đẹp nhất trong văn học Việt Nam hiện đại.
Trước Xuân Quỳnh, đã có một nhà thơ với khát vọng mãnh liệt tương tự, Xuân Diệu – một thi sĩ Mới với cách viết và suy nghĩ mới. Nhà phê bình Chu Văn Sơn đã từng nhận xét: “Trong không khí của Xuân Diệu, thời gian chỉ có hai mùa: mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, tình yêu và sự sống, còn mùa thu là màu của sự tàn phai.” Khát vọng tình yêu của Xuân Diệu được thể hiện qua những câu thơ đầy khao khát:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn;
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Đại từ “ta” được lặp lại như một cách để thể hiện cái tôi cá nhân. Câu thơ tái hiện sự khao khát ôm trọn thiên nhiên và cảm nhận vẻ đẹp của cuộc sống. Điệp từ “ta muốn” kết hợp với các động từ mạnh thể hiện khát vọng mãnh liệt của Xuân Diệu. Ông muốn chiếm trọn cảnh sắc thiên nhiên để tận hưởng và hòa mình vào ánh sáng cuộc đời.
Đối với Xuân Diệu, tình yêu là sự giao cảm tuyệt đối, không hời hợt. Tình yêu của ông không chỉ là sự hấp dẫn mà còn là khát vọng tận hưởng trọn vẹn cuộc sống. Sự lặp lại của các hình ảnh thiên nhiên làm nổi bật khát vọng mãnh liệt của nhà thơ. Khrapchenko từng nói: “Điều còn lại của nhà văn là cái giọng của riêng mình” – Xuân Diệu đã để lại dấu ấn riêng trong lòng người đọc bằng những cảm xúc dào dạt. Lầu thơ của ông tiếp tục cao lên, vì khao khát yêu đương và giao cảm của ông chưa bao giờ tắt.
Dù văn chương là lĩnh vực của sáng tạo, giữa các nghệ sĩ vẫn có sự đồng điệu. “Sóng” và “Vội vàng” đều phản ánh một cái tôi giàu cảm xúc và khát vọng yêu đương. “Sóng” thể hiện tình yêu nữ tính, khao khát dâng hiến, trong khi “Vội vàng” lại thể hiện quan niệm sống vội để tận hưởng vẻ đẹp cuộc đời. “Sóng” là bản giao hưởng tình yêu, còn “Vội vàng” là khúc vĩ thanh về khát vọng sống cuống quýt. Hai nhà thơ đã ghi dấu ấn của mình trong thơ ca, với những xúc cảm dào dạt và mãnh liệt. Các tác phẩm của họ sẽ sống mãi với thời gian.
7. Bài viết so sánh khát vọng tình yêu trong các bài thơ 'Sóng' và 'Vội vàng' - mẫu 2
Qua tiếng hát, ta nhận diện người ca sĩ.
Qua dấu vết khắc, ta nhận diện người thợ bạc.
(“Dagestan của tôi”)
Mỗi nghệ sĩ đều có dấu ấn riêng biệt như dấu vân tay, không trùng lặp với ai. Dù sống cùng một bầu trời, thở cùng một không khí, hay chung một đề tài, cách nhìn nhận của mỗi nghệ sĩ về cuộc sống vẫn không giống nhau. Điều này thể hiện rõ qua cái nhìn về tình yêu của Xuân Quỳnh:
“Làm sao để tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để vĩnh viễn còn vỗ”
(“Sóng”)
Ngược lại, Xuân Diệu lại viết:
“Tôi muốn ôm
Cả sự sống vừa mới bắt đầu xanh tươi;
Muốn hòa mình vào mây và gió,”
“Muốn say đắm trong cánh bướm và tình yêu,
Muốn thâu tóm trong một nụ hôn dài
Và non nước, cây cỏ đang rạng rỡ,
Cho chếnh choáng hương thơm, cho đầy ánh sáng,
Cho no nê sắc tươi của thời gian;
- Hỡi mùa xuân, tôi muốn cắn vào ngươi!”
Với Xuân Quỳnh, thơ là sự hòa quyện giữa sự sống và tình yêu; viết thơ là được sống trọn vẹn, thể hiện bản thân một cách chân thật nhất. Mỗi bài thơ là tiếng nói chân thành của một tâm hồn phụ nữ, đầy âu lo và khát khao hạnh phúc đời thường. Bài thơ “Sóng” được viết sau chuyến thực tế ở Diêm Điền – Thái Bình cuối năm 1967, và được đưa vào tập “Hoa dọc chiến hào” (1968). Trong bài thơ, “sóng” và “em” như hòa làm một, cùng nhau thể hiện sâu sắc cảm xúc của nhân vật trữ tình. Dù có lúc lo lắng về cuộc đời dài rộng, nhưng cuối cùng, nhân vật vẫn chọn niềm tin:
“Làm sao để tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để vĩnh viễn còn vỗ”
“Tan ra” là khát vọng hóa thân vào sóng, để tồn tại mãi trong không gian bao la của biển cả và thời gian vĩnh hằng. Đây là ước vọng vĩnh cửu hóa tình yêu, dùng tình yêu để kéo dài cuộc đời ngắn ngủi của con người. Khát vọng này gợi nhớ đến câu chuyện nàng tiên cá hóa thành bọt biển để người yêu được hạnh phúc trọn vẹn. Câu hỏi “Làm sao...” như một nỗi khắc khoải trong lòng người phụ nữ. Cuối bài thơ, từ con sông nhỏ, người phụ nữ đã tìm thấy biển cả của đời mình. Nhưng làm sao giữa biển lớn tình yêu đó, vẫn có thể nhìn thấy con sóng tình yêu của chúng ta? Khát vọng hóa thân và gìn giữ tình yêu trở nên thiết tha hơn. Phải chăng đó chính là bản chất hi sinh của người phụ nữ?
Bài thơ mở đầu bằng sự chủ động tìm kiếm hạnh phúc và kết thúc bằng sự hi sinh và yêu thương vô bờ. Mở đầu là khát vọng làm rõ bản thân, kết thúc là ước vọng hòa mình. Sự hòa quyện giữa hình tượng sóng và em khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng vừa mạnh mẽ của tình yêu chân thành. Đây là một quá trình chuyển mình tự nhiên và đầy can đảm của người phụ nữ, tạo sự khác biệt trong giọng điệu từ nhịp thơ nhanh, tự tin đến những câu thơ nhẹ nhàng, du dương như tiếng sóng đại dương. Đối với Xuân Quỳnh, thơ là cuộc sống, sống là thơ. Nếu thơ là chuyện viết từ sâu thẳm tâm hồn, Xuân Quỳnh chính là người như vậy. Cô sống hết mình, viết hết lòng, thể hiện bản thân trọn vẹn trong mỗi thi phẩm. Không giả dối, không mượn mát, Xuân Quỳnh gửi gắm chính mình vào thơ. Đối với Xuân Diệu, lại là:
“Tôi muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu tươi tắn;
Muốn hòa mình vào mây gió,
Muốn say trong cánh bướm với tình yêu,
Muốn tận hưởng trong một nụ hôn dài
Và non nước, cây cỏ đang rạng rỡ,
Cho chếnh choáng hương thơm, cho đầy ánh sáng,
Cho no nê sắc tươi của thời gian;
- Hỡi mùa xuân, tôi muốn cắn vào ngươi!”
Đoạn thơ với câu “Tôi muốn ôm” làm giọng thơ trở nên mạnh mẽ, thể hiện sự khao khát được thực hiện những mong muốn. Từ cái “tôi” kiêu hãnh đã chuyển thành “ta”, thể hiện sự hòa quyện giữa cá nhân và cộng đồng. Đúng vậy, trước “sự sống mới bắt đầu tươi tắn” nhưng nhận thức được quy luật thời gian, Xuân Diệu khao khát sống trọn vẹn, tận hưởng tuổi trẻ. Cấu trúc “Ta muốn” cùng với các động từ mạnh như “ôm, say, thâu, cắn” thể hiện sự tận hưởng trọn vẹn. Giọng thơ nhanh để theo kịp với những mong muốn, tạo nên cảm giác sống động và ý nghĩa. Cuối cùng, câu cảm thán: “- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” thể hiện ước vọng giao hòa với thiên nhiên. Đối với Xuân Diệu, cuộc sống hiện thực là tuyệt vời nhất, và ông đón nhận nó bằng tình yêu và nồng nhiệt. Ông sống hết mình, yêu hết mình, đó là Xuân Diệu, luôn rạo rực và thiết tha.
Cả Xuân Quỳnh và Xuân Diệu đều chân thành và nồng thắm trong tình yêu, với khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu. Xuân Quỳnh chọn dâng hiến để làm tình yêu vĩnh cửu, trong khi Xuân Diệu chọn cách tận hưởng để vĩnh cửu hóa tuổi trẻ. Mỗi cách ứng xử khác nhau với tình yêu mang đến những cảm nhận và tình cảm khác biệt. Mỗi trang viết mở ra một thế giới mới, không lặp lại, không giản đơn. Văn học dù từ thời Homere, Kinh thi vẫn tồn tại và là phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người, giúp sống tốt và đẹp hơn.
8. So sánh khát vọng tình yêu qua bài thơ 'Sóng' và 'Vội vàng' - mẫu 3
Xuân Diệu và Xuân Quỳnh là hai trong số các nhà thơ nổi bật của thơ ca hiện đại. Nếu Xuân Diệu được gọi là ông hoàng của thơ tình, thì Xuân Quỳnh được tôn vinh là bà chúa của thơ tình yêu. Hai hồn thơ này đều thể hiện một hơi thở tình yêu nồng nàn và lòng khao khát sống mạnh mẽ.
Xuân Diệu đã từ lâu được coi là một trong ba đỉnh cao của phong trào Thơ mới trong giai đoạn 1932 – 1945. Ông được nhận xét là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới” nhờ vào cách sử dụng ngôn từ và cảm hứng thi ca độc đáo. Khác với các nhà thơ cùng thời, thơ của Xuân Diệu không theo cảm hứng dân tộc mà mang đậm sắc thái lãng mạn. Ông tập trung vào việc thể hiện cái tôi cá nhân và lòng khao khát sống.
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn.
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi.”
Khát vọng mãnh liệt của tác giả được thể hiện rõ qua cụm từ “ta muốn”. “Ta” là đại từ thể hiện cái tôi cá nhân, khác biệt hoàn toàn so với “chúng tôi” hay “chúng ta” đang phổ biến. Đoạn thơ được coi là một tuyên ngôn sống, thể hiện thái độ sống vội vàng và khát khao tận hưởng cuộc đời.
Xuân Diệu mong muốn ôm ấp những điều nhỏ bé như hạt mầm và khao khát chinh phục những điều siêu nhiên như mây và gió. Ông cũng muốn say đắm trong tình yêu và hòa mình vào thiên nhiên, để cơ thể được ngập tràn mùi thơm và ánh sáng, cảm nhận sự sống phong phú. Các động từ mạnh mẽ như “ôm”, “riết”, “thâu”, “say”, “chếnh choáng”, “no nê” cho thấy khao khát mãnh liệt của tác giả. Qua đoạn thơ này, ta thấy Xuân Diệu không chỉ muốn sống mà còn muốn sống nhanh, tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của cuộc đời.
Một nhà thơ khác nổi bật với cảm hứng lãng mạn và lòng khao khát sống là Xuân Quỳnh. Bà là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ của Xuân Quỳnh mang vẻ đẹp nữ tính và tâm hồn nhạy cảm của người phụ nữ. Đoạn thơ trích từ tác phẩm “Sóng” dưới đây thể hiện rõ phong cách của bà:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.”
Đối với Xuân Quỳnh, tình yêu là lẽ sống. Tuy nhiên, tình cảm không chỉ gói gọn trong cái tôi cá nhân mà còn hòa quyện vào biển lớn tình yêu của nhân loại. Bà ước mong:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ”
Từ “trăm con sóng nhỏ” hòa vào “biển lớn tình yêu” nhằm làm cho tình yêu trở nên bất tử. Tình yêu sẽ lan tỏa khắp nơi, mang đến sự bình yên và hòa bình cho nhân loại. Phân tích hai đoạn thơ của Xuân Diệu và Xuân Quỳnh cho thấy cả hai đều bộc lộ cảm xúc mãnh liệt và suy ngẫm sâu sắc về cuộc đời rộng lớn. Họ đều thể hiện lòng khao khát sống mãnh liệt và mong muốn hòa mình vào cuộc sống chung của nhân loại.
Điểm khác biệt là ở cách thể hiện cái tôi cá nhân. Xuân Diệu thể hiện sự mạnh mẽ, nam tính, trong khi Xuân Quỳnh lại thể hiện sự nhẹ nhàng, nữ tính. Thơ của Xuân Diệu cho thấy cái tôi mãnh liệt và khao khát sống, còn thơ của Xuân Quỳnh lại nhẹ nhàng và tâm tình.
Xuân Diệu chọn cách sống vội vã để trải nghiệm hết vẻ đẹp cuộc đời, còn Xuân Quỳnh mong muốn hòa mình vào đời sống chung của nhân loại. Từ cái tôi nhỏ bé, bà tiến tới cái ta rộng lớn trong biển tình yêu.
Qua hai đoạn thơ, ta cảm nhận được lòng khao khát sống và cái tôi lãng mạn của Xuân Diệu và Xuân Quỳnh. Dù sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, họ đều có chung cái tôi lãng mạn và tình yêu mãnh liệt đối với cuộc đời.