1. Bài viết phân tích bài thơ 'Tương tư' - mẫu số 4
Khi bên cạnh những tác phẩm thơ mới của Xuân Diệu, Thế Lữ, hay Huy Cận, người ta không thể quên những bài thơ giản dị và đậm đà 'hương đồng gió nội' của Nguyễn Bính. Tình yêu trong thơ ông luôn ngọt ngào, trầm lắng như chính tâm hồn tác giả. Bài thơ 'Tương Tư' trong tập 'Lỡ bước sang ngang' phần nào thể hiện những tâm tư của một người yêu đơn phương với nỗi nhớ và mong mỏi không nguôi.
Người ta thường nói rằng, nỗi đau lớn nhất trong tình yêu là yêu đơn phương. Khi yêu, người ta luôn mong được ở bên người mình thương, được kề vai gần gũi, chia sẻ. Những người yêu nhau mà không thể gặp mặt thì sinh ra “bệnh tương tư”. Chàng trai trong bài thơ 'Tương Tư' của Nguyễn Bính đang ngày đêm nhớ nhung một người mà không nhận được hồi âm. Vì vậy, bốn câu thơ đầu tiên đã thể hiện rõ cảm xúc khắc khoải trong lòng chàng trai:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Nắng mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng…
Giữa những không gian bình yên và hiền hòa, tác giả mượn hình ảnh “thôn Đoài” và “thôn Đông” để diễn tả cảm xúc từ tận đáy lòng mình. Có phải người thương của tác giả ở tận thôn Đông, còn tác giả đang ngồi đây nhớ thương? Những vùng thôn quê yên ả đang âm thầm vun đắp cho một tình cảm đẹp trong lòng nhà thơ.
Nhà thơ tiếp tục sử dụng thủ pháp nhân hóa với hình ảnh “mưa” và “nắng”. Sau cơn mưa, trời sẽ hửng nắng, giống như bệnh tương tư là điều khó tránh khỏi trong tình yêu. Tác giả mượn hình ảnh của tạo hóa để giải thích bệnh tương tư của mình. Căn bệnh ấy bình thường như quy luật của đất trời khi người ta đắm chìm trong nhớ thương. Đặc biệt, trong hai câu thơ thứ ba và thứ tư có hệ từ “là” tạo nên một phép so sánh hợp lý giữa căn bệnh tương tư và thiên nhiên.
Cái “tôi” trong thơ Nguyễn Bính hiện lên rõ ràng cùng với “nàng”. Không còn sự e ấp, ngại ngùng, nhân vật tôi bộc lộ cảm xúc mạnh mẽ để “nàng” nhận thấy tình cảm của mình. Yêu nhau không thể tránh khỏi cảm giác giận dỗi, băn khoăn:
“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?”
Dù đôi ta chỉ cách nhau hai thôn, nhưng lại chung một làng. Khi lòng ta hướng về nhau thì dù xa cách thế nào cũng sẽ hòa quyện lại làm một. Hai con người, nếu chung một tấm lòng yêu thương, sẽ hướng tới một mái ấm gia đình. Ngôi làng ấy sẽ là nơi chúng ta xây dựng tổ ấm của đôi trai gái. “Cớ sao” thể hiện sự hờn dỗi và băn khoăn. Rõ ràng, bên này rất muốn “chung” với bên kia nhưng lại không được đáp lại. Điều tưởng chừng đơn giản lại chứa đựng sự xa cách do lòng người. Những lời than thở tương tư tiếp tục trào dâng qua những câu thơ sau:
“Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”
Đây có thể nói là hai câu thơ thành công nhất trong bài thơ 'Tương Tư' để miêu tả quy luật không thay đổi của tình yêu đơn phương. “Ngày qua ngày” lặp lại như những cảm xúc đợi chờ không có hồi kết. Thời gian trôi qua càng khiến người ta sốt ruột vì chờ đợi hồi âm. Câu thơ tiếp theo với nhịp ngắt bất thường, “lá xanh nhuộm” và “đã thành cây lá vàng” càng làm sâu sắc cảm giác đợi chờ mòn mỏi. Từ những lá xanh non mơn mởn như tình yêu mới nảy nở, giờ đây đã phai tàn thành “lá vàng”. Bệnh tương tư làm cho tình yêu trở nên nhạt màu. Như Nguyễn Du đã viết:
“Người buồn cảnh có bao giờ vui đâu”
Hay
“Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng”
Tâm trạng con người luôn đồng điệu với thiên nhiên. Lòng không vui thì cảnh sắc đẹp đến đâu cũng trở nên vô nghĩa. Trạng thái tâm lý tiếp theo mang chút hờn trách:
“Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy cho tình xa xôi…
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!”
Khi yêu đơn phương, chỉ dám lặng lẽ ngắm nhìn người thương từ xa, không dám bộc lộ hết tâm tình với cô gái. Thầm mong rằng cô gái sẽ hiểu được nỗi lòng. Thôn Đoài và thôn Đông đều chung một bến nước, cùng một làng. Dù không xa như “cách trở đò giang”, nhưng không thể gặp nhau để nói hết tâm tình. Tình yêu còn xa, đối phương chưa biết được tình cảm của ta, nên khiến ta phải tiếp tục cách trở. Đã thao thức bao đêm, khiến cho lá cũng úa màu, lòng mình bạc thương nhưng không có ai hiểu được ngoài chính mình.
Câu hỏi “biết cho ai, hỏi ai người biết cho” chỉ là một lời than thở như để xoa dịu lòng người. Chàng trai vẫn hy vọng về một tương lai không xa rằng:
“Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”
“Bến”-“đò”, “hoa khuê”-“bướm” là những hình ảnh thường dùng để chỉ quan hệ lứa đôi. Trong thơ Xuân Quỳnh, bà đã dùng hình ảnh “thuyền” và “biển” để diễn tả nỗi nhớ, còn Nguyễn Bính dùng “bến đò” và “bướm hoa” để diễn tả tình yêu. Chỉ tiếc là không biết khi nào những điều này sẽ xảy ra. Thật là một mơ ước, một hẹn ước xa vời.
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Người ta thường nói “Miếng đầu là trầu câu chuyện” khi có dịp thưa gửi, cưới xin. Vì vậy, tác giả mượn “giàn trầu” và “hàng cau” để diễn tả nỗi nhớ da diết như dây trầu quấn quanh thân cau. Nguyễn Bính thật khéo léo và tài hoa khi dùng những hình ảnh gần gũi và mộc mạc để diễn tả nỗi nhớ. Trong bốn câu thơ này, có sự thay đổi trong cách xưng hô, từ “tôi-nàng” thành “anh-em” rất táo bạo, cho thấy mối tình đã sâu sắc và chàng trai muốn bộc lộ trực tiếp tình cảm với cô gái.
'Tương Tư' của Nguyễn Bính diễn tả gần gũi nhất những cung bậc cảm xúc của tình yêu đơn phương. Những tâm sự, nhớ nhung, và những lời muốn nói đều được sắp xếp tự nhiên và hợp lý. Tình yêu đến không thể ngăn cản, dù là cảm xúc hờn dỗi hay trách than đều đáng nhớ trong cuộc đời.
2. Bài phân tích bài thơ 'Tương tư' - mẫu 5
Nguyễn Bính, được biết đến là một nhà thơ gắn bó với cuộc sống nông thôn, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc nhờ vào phong cách nhẹ nhàng và gần gũi của mình. Bài thơ 'Tương tư' nằm trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang” của ông, thể hiện tâm trạng sâu lắng của một người đang mơ màng nhớ thương một người mình yêu thương.
Tên 'Tương tư' không phải là sự lựa chọn ngẫu nhiên của tác giả. Đây là cái tên thể hiện đầy đủ tâm trạng ẩn chứa trong từng câu thơ. Tương tư chính là cảm giác nhớ nhung sâu sắc, sự mong chờ hồi đáp từ một trái tim yêu thương nồng nhiệt, nhưng lại là tình yêu đơn phương. Tình cảm chân thành của người yêu đơn phương được bộc lộ qua từng vần thơ mộc mạc, chân thành:
“Thôn Đoài nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người”
Hai câu thơ đơn giản như vẽ nên trước mắt chúng ta một khung cảnh thôn quê bình yên, giản dị. Tác giả đã sử dụng thủ pháp nhân hóa một cách tài tình để diễn tả nỗi nhớ nhung sâu thẳm trong lòng. Chúng ta như thấy một người đang ở độ tuổi thanh xuân, đứng ở thôn này mà hướng mắt về phía thôn kia, mong mỏi được nhìn thấy người mình thương mến.
“Nắng mưa là chuyện của trời
Tương tư là chuyện của tôi yêu nàng”
Tác giả đã khéo léo so sánh nỗi tương tư với những biến đổi của thiên nhiên như nắng mưa để diễn tả rằng, đó là một căn bệnh tâm hồn, tựa như quy luật tự nhiên. Với bốn câu thơ mở đầu giản dị, tác giả đã thành công trong việc khơi gợi sự quan tâm của người đọc về tình yêu bình dị nhưng mãnh liệt của chàng trai thôn Đoài dành cho cô gái thôn Đông. Tuy nhiên, các câu thơ sau đây lại thể hiện sự trách móc nhẹ nhàng nhưng đầy tâm trạng của chàng trai đối với sự lạnh lùng từ phía cô gái:
“Hai thôn chung một làng,
Cớ sao bên ấy không sang đây?”
Ngày này nối tiếp ngày qua,
Lá xanh đã chuyển sang màu vàng.
Đường cách trở, đò giang xa,
Không sang thì đừng trách đường xa.
Mới thấy cách một đầu đình,
Xa xôi thế nào mà tình vẫn xa?
Tương tư thức bao đêm dài,
Biết hỏi ai, ai hiểu lòng tôi?
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Những câu hỏi liên tiếp dồn dập thể hiện nỗi lo lắng và bối rối của chàng trai đang yêu. Chàng trai vừa bối rối vừa giận hờn vì dường như cô gái không nhận ra tình cảm chân thành của anh.
Từng câu thơ đều có nhịp điệu uyển chuyển, nhẹ nhàng và tha thiết, như chàng trai muốn gửi gắm thông điệp tình cảm đến cô gái. Câu hỏi “cớ sao” làm cho lời trách móc trở nên nhẹ nhàng và đầy cảm mến, như một cách để gợi ý cho cô gái. Trong sự chờ đợi đầy bối rối, chàng trai chỉ mong sao “bến” có thể gặp được “đò”, mong rằng cô gái hiểu được tâm tư của mình. Trong tâm trạng rối bời vì chờ đợi, chàng trai lại tự hỏi:
“Nhà em có giàn giầu,
Nhà anh có hàng cau nối phòng.”
Thôn Đoài nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài có nhớ giầu không?”
Thể thơ lục bát mang đến sự nhẹ nhàng, sâu lắng và dễ đi vào lòng người, đồng thời làm tăng sức ảnh hưởng của bài thơ. “Giàn trầu” và “hàng cau” được tác giả sử dụng để biểu đạt nỗi nhớ thương sâu đậm của chàng trai, như dây trầu quấn lấy thân cau, thể hiện sự không thể tách rời của chúng trong văn hóa dân gian.
Với sự mộc mạc, việc thay đổi cách xưng hô từ “tôi với nàng” thành “anh với em” cho thấy tình cảm đã trở nên sâu đậm và mãnh liệt, thúc giục chàng trai thổ lộ trực tiếp với cô gái. Nhân vật trữ tình trong bài thơ vừa bình dị, trong sáng, vừa chân thành và mạnh mẽ.
Có thể nói, nỗi tương tư, vốn rất quen thuộc, đã được Nguyễn Bính thể hiện một cách nghệ thuật tinh tế thông qua bút pháp độc đáo và cách diễn đạt mộc mạc của mình.
3. Bài viết phân tích bài thơ 'Tương tư' - mẫu 6
Thôn Đoài đang nhớ về thôn Đông…
Câu thơ giống như làn gió heo may lướt qua cánh đồng, mang theo cảm giác bâng khuâng mà chưa thật rõ ràng. Đó là một nỗi nhớ mơ hồ kiểu “Hôm nay trời cao trong — Tôi buồn mà không rõ nguyên nhân”, chỉ khác là khung cảnh rộng lớn của đồng quê. Không lồng ghép như ca dao, bài thơ bắt đầu bằng sự cảm nhận trực tiếp của nhà thơ và gọi tên cảm xúc: nỗi nhớ. Nhưng sao không nói: anh nhớ?
Việc sử dụng các địa danh thường thấy trong ca dao (Làm trai cho đáng nén trai – Xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài yêu). Nhưng ca dao thường dùng những hình ảnh cụ thể như áo, khăn, đèn, thuyền, bến để diễn tả nỗi nhớ. Ở đây, nỗi nhớ và đối tượng của nó được cụ thể hóa bằng từ “Một người” (Một người chín nhớ mười mong một người). “Một người” không chỉ đơn giản, tuy một mà là hai và tuy hai lại là một. Hai từ “Một người” ở đầu và cuối thơ tạo nên một cầu nối giữa những sợi dây của “chín nhớ mười mong”. Hai câu mở đầu có phần khó chấp nhận với người đọc, nhưng được nhà thơ giải tỏa bằng hai câu thơ sau:
Gió mưa là chuyện của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Thì ra trời và người đều chung căn bệnh muôn thuở từ thuở khai thiên lập địa. Ý nghĩa thật táo bạo và nên thơ! Điều này làm cho nỗi đau tương tư trở nên phổ biến và dễ cảm thông hơn. Bài thơ mở đầu một cách tinh tế và duyên dáng, gợi cảm giác đồng cảm.
Ba khổ thơ tiếp theo mở rộng và phát triển khái niệm tương tư một cách tài tình. Giống như một ngôi nhà lớn được xây dựng cẩn thận với những cột kèo vững chãi mà không cần thêm một chiếc đinh nào. Điều này nhờ vào sự khéo léo và trí tuệ của người thợ xây. Có hai hình thức liên kết trong bài thơ. Thứ nhất là sự lặp lại như giữa khổ một và khổ hai. Nếu khổ một bắt đầu với “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông” thì khổ hai “Có sao bên ấy chẳng sang bên này” (một sự lặp lại nhưng có sự đổi chỗ). Thứ hai là sự liên kết giữa khổ hai và khổ ba, với sự giằng kéo giữa “Hai thôn chung lại một làng” và “Bảo rằng cách trở đò giang” dẫn đến khổ ba “Tương tư thức mấy đêm rồi”. Khổ cuối cùng kết nối với khổ đầu bằng cảm giác thương nhớ, với những hình ảnh thôn Đoài, thôn Đông, và những quả cau, trái trầu thật đầy xúc cảm!
Đi vào ý chính của bài thơ, chúng ta thấy sự kết hợp giữa trách móc và thơ than. Trách móc trong nỗi nhớ là việc tìm ra những lý do để trách. Những lý do này đôi khi rất ngẫu nhiên, nhưng không phải là oan. Cái cớ mà chàng trai đưa ra chỉ xoay quanh ý thơ cũ: “Hữu duyên thiên lí năng tương ngộ”, hay ca dao nói “Yêu nhau tam bốn núi cũng trèo”. Nhưng giữa chàng trai và nàng dâu vẫn có khoảng cách, không phải là “thôn lý”. Không chỉ trách móc mà còn có vẻ như chỉ trích, đay nghiến:
Bảo rằng cách trở đò ngang
Không sang là chẳng đường sang dã đành
Nhưng đây cách một đầu dinh
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi.
Nguyễn Bính đã sử dụng lục bát để nói về nỗi niềm sâu kín một cách chân thành. Giọng điệu phân trần nhằm vào mục đích này. Những từ lặp như “sang” và “xa xôi” nhấn mạnh sự bất công và đau khổ của người nói. Cách lập luận “người ta thế kia, còn mình thế nọ” làm tăng thêm cảm giác oan ức và giận hờn dễ thương của nhân vật. Trách móc và giận dữ đều là biểu hiện của tình yêu đơn phương. Nỗi đau này chỉ là tưởng tượng, bởi tình yêu của chàng trai chỉ là tình yêu một chiều. Bất kể chàng có trách móc thế nào cũng không lay chuyển được cảm xúc của người khác.
Tất cả đều diễn ra trên nền tảng giả tưởng, nơi tiếng vọng không cần ai nghe, chỉ là sự lẻ loi và cô đơn của người nói. Cảm giác đau khổ khi “nhuộm” không chỉ là sự hoàn tất của quá trình biến đổi mà còn là sự chủ quan hóa thiên nhiên, tạo ra sự đồng cảm giữa con người và tạo vật. Trong sự đồng cảm ấy, thời gian vô vọng trôi qua, ngày nối tiếp ngày. Lá vàng của mùa thu không phải là điều hiển nhiên, mà là sự mất mát của hi vọng xanh tươi. Hai câu thơ gợi nhớ những câu thơ tương tự:
Thu sang, rồi lại thu sang
Cúc bao lần nở thu vàng bao rơi
(Dòng dư lệ)
Giọng thơ kết thúc bằng sự đau khổ: “Tương tư thức mấy đêm rồi — Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!”. Có sự kìm nén trong thơ nhưng không thể che giấu được nỗi lòng, giống như Nguyễn Khuyến khi mất Dương Khuê: “Câu thơ nghĩ đắn đo không viết – Viết đưa ai, ai biết mà đưa”. Đây là sự đợi chờ đầy đau khổ, chỉ khác là tình yêu, không phải tình bạn. Câu hỏi cuối cùng là sự mỉa mai giữa “hoa khuê các” và “bướm giang hồ”.
Kết thúc bài thơ bằng một dụng công lộ liễu. Dụng công là việc tạo ra cầu nối giữa các yếu tố như trầu cau, thôn Đoài, thôn Đông, giống như một lễ cưới tinh thần nhưng cô dâu lại biến mất:
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?
Hai câu kết chỉ là khoảng trống dành cho một người mà chúng ta đều biết. Chỉ cần thay “thôn nào” bằng “thôn nàng” là rõ, nhưng như thế thì ý nghĩa bị lộ. Thay vì “thôn nào”, cần có cách nói kín đáo hơn, nhưng có lẽ vì quá yêu mà chàng trai không tìm được nơi ẩn náu nào cho mình.
4. Phân tích bài thơ 'Tương tư' - ví dụ 7
Nguyễn Bính đã sớm được biết đến với phong cách văn thơ giản dị, chân chất, được tạo nên từ những chất liệu mộc mạc nhất. Dù qua bao thời gian, các tác phẩm của ông vẫn nhận được sự yêu mến nồng nhiệt từ độc giả. “Tương tư” là một trong những bài thơ tiêu biểu về tình yêu lứa đôi, mang đến những cảm xúc trong sáng và chân thực.
Thơ của Nguyễn Bính không giống với thơ hiện đại, mà mang đậm ảnh hưởng của ca dao, dễ dàng đi vào lòng người. Tương tư trở thành một hiện tượng với sự thể hiện trực tiếp tình cảm của đôi lứa. Những câu thơ lục bát như những lời hát trao đổi giữa các cặp tình nhân, mô tả cảnh các cô gái, chàng trai thầm thương trộm nhớ nhau, đứng bên đình tát nước và nói ví von:
“Hôm qua tát nước bên đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà”
Những câu thơ nhẹ nhàng, đằm thắm như tiếng ru ngọt ngào của tình yêu, dẫn dắt cảm xúc từ thuở ban đầu vào sâu trong lòng người đọc. Để người đọc có thể nhận thấy chính hình ảnh của mình trong đó. Những câu thơ khác cũng mang ý nghĩa sâu xa:
“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”
Tát nước dưới ánh trăng làm tan ánh trăng tròn cũng đúng, nhưng đó lại là cái cớ để làm quen. Những chi tiết nhỏ nhặt nhưng lại khiến các cặp đôi xích lại gần nhau. Cảm giác tương tư là một bệnh khó chữa, chỉ có thuốc tình yêu mới làm dịu. Chính vì vậy có bài thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính.
Bài thơ thể hiện đặc trưng dân gian và sự đồng cảm của đông đảo độc giả. Với thể thơ lục bát ngọt ngào, vần điệu phong phú, lối đan chữ và sự vật hóa, các hình ảnh như thôn Đoài, thôn Đông, bến nước, giàn trầu, hàng cau… đều mang vẻ gần gũi, chân chất, từ những hình ảnh quen thuộc đến cảnh vật hữu tình. Chữ “tôi” trong bài thơ trở nên đáng yêu, với các thôn là cầu nối giữa nàng và tôi. Sử dụng hoán dụ, nhân hóa và nghệ thuật phân hợp số từ làm cho bài thơ bình dị mà hồn nhiên, đằm thắm. “Chín nhớ mười mong” diễn tả nỗi lòng của chàng trai yêu đơn phương, cũng là cảm xúc của nhiều người khác. Tương tư không chỉ là cảm xúc của nhân vật trong bài thơ mà còn đại diện cho nỗi lòng của nhiều người khác, vì thế mà khi bày tỏ tình cảm, người ta thường nhắn nhủ một cách bóng gió:
“Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Bài thơ “Tương tư” vừa thơ mộng vừa lãng mạn, không gì có thể thay đổi cảm xúc nhớ nhung, dù thời gian có trôi qua. Tương tư mang những nỗi buồn, hờn giận nhưng đó là đặc sản của tình yêu, tạo nên sự đáng yêu và khát khao trọn vẹn trong tình yêu, đặc biệt là tình yêu đơn phương.
5. Phân tích bài thơ 'Tương tư' - ví dụ 8
Nguyễn Bính là một trong ba tên tuổi lớn của thơ Mới giai đoạn 1932-1941. Nếu Xuân Diệu nổi bật với những bài thơ tình nồng nàn, mãnh liệt và Hàn Mặc Tử với những vần thơ lạ lùng hòa quyện giữa sự trong sáng và nét ghê rợn, thì Nguyễn Bính lại hiện lên như một nhà thơ chân chất, bình dị. Như nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét, thơ của Nguyễn Bính mang đến cảm giác 'quê mùa' nhưng vô cùng gần gũi. Dù không có những tác phẩm bùng nổ như các nhà thơ khác, thơ của Nguyễn Bính vẫn giữ được một vị trí đặc biệt trong lòng độc giả bởi nét chân chất, đậm đà hồn quê. Bài thơ nổi tiếng nhất của ông, 'Tương tư', là một ví dụ tiêu biểu với giọng thơ lục bát dân tộc, trong sáng và đầy tình yêu đôi lứa.
Tương tư là trạng thái cảm xúc mà ai khi mới yêu đều phải trải qua: nỗi nhớ nhung da diết, những câu hỏi về tình cảm của người yêu, khiến người ta luôn cảm thấy bâng khuâng và xao lạc. Đặc biệt, 'tương tư' cũng được dùng để miêu tả tình cảm đơn phương, khi tình yêu bị cản trở bởi không gian, thời gian hoặc sự thờ ơ của đối phương, làm cho người yêu phải chịu đựng nhiều nỗi khổ. Trong nỗi tương tư, không chỉ có sự nhớ thương, khao khát gặp mặt mà còn có sự trách móc, ghen tuông. Tuy nhiên, tất cả đều xuất phát từ một tình yêu mới chớm và đầy hy vọng. Mặc dù Nguyễn Bính không phải là nhà thơ tình chuyên nghiệp như Xuân Diệu hay Hàn Mặc Tử, thơ tình của ông vẫn rất đặc sắc, với hồn quê và lối thơ lục bát quen thuộc.
'Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng'
Trong bốn câu thơ đầu tiên, nỗi nhớ nhung của chàng trai được thể hiện một cách chân thành và đáng yêu. Chàng trai dùng hình ảnh hai thôn để ẩn dụ cho nỗi nhớ, và cụm từ 'chín nhớ mười mong' thể hiện tình cảm sâu sắc. Dù trời có mưa có gió thì tình yêu của chàng trai vẫn không thay đổi. Lời thơ 'Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng' mang đến cảm giác chân thành và hóm hỉnh, thể hiện tình yêu của chàng trai như một 'bệnh' mà chỉ có tình yêu của cô gái mới chữa được. Lời tỏ tình này, dù có phần dân dã, lại phản ánh rõ nét cuộc sống tình cảm của người dân thôn quê xưa.
Tương tư không chỉ là nỗi nhớ mà còn có sự trách móc, ghen tuông, điều này được thể hiện rõ trong các câu thơ sau:
'Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy cho tình xa xôi...'
Chàng trai trách cô gái vì dù hai thôn gần nhau, cô vẫn không đến thăm, khiến chàng chìm đắm trong nỗi nhớ nhung và hy vọng. Đặc biệt, khoảng cách không gian được nhấn mạnh trong những câu hờn trách, thể hiện nỗi lòng mong mỏi của chàng trai về tình yêu không thay đổi dù gần hay xa. Đọc thơ, người ta thấy sự băn khoăn về tình cảm của cô gái và sự khắc khoải của chàng trai khi yêu đơn phương.
'Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?'
Chàng trai bộc lộ sự mỏi mệt của mình sau những ngày đêm tương tư không có hồi đáp, thể hiện sự mong mỏi gặp gỡ, tương ngộ. Hình ảnh 'bến và đò' và 'hoa khuê các bướm giang hồ' thể hiện mong ước về một ngày đoàn tụ đầy lãng mạn, dù có phần sến súa nhưng lại rất đúng với tâm trạng của chàng trai quê.
'Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?'
Trong bốn câu thơ cuối, hình ảnh trầu và cau xuất hiện với ý nghĩa ẩn dụ về ước vọng kết duyên. Chàng trai mong ước có một ngày thành đôi với cô gái, thể hiện rõ nét phong tục và vẻ đẹp truyền thống thôn quê. Cuối cùng, chàng trai lại một lần nữa tỏ tình và bày tỏ nỗi niềm mong ước về việc nên duyên với cô gái thôn Đông.
Bài thơ 'Tương tư' của Nguyễn Bính là một tác phẩm tình yêu 'quê mùa' với lối viết đậm chất dân gian, thể hiện tình cảm chân thành, giản dị, dễ gần gũi và đi vào lòng người đọc một cách tự nhiên. Thơ của ông không chỉ phản ánh được hồn quê mà còn trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống cảm xúc của nhiều người.
6. Bài viết phân tích bài thơ 'Tương tư' - mẫu 1
Nguyễn Bính, một thi sĩ nổi tiếng với các tác phẩm viết về miền quê, đã được nhà văn Tô Hoài khen ngợi: “Chỉ có quê hương mới có thể sinh ra từng câu chữ của Nguyễn Bính. Trên con đường thơ hơn nửa thế kỉ, mỗi khi những tâm tư, tình cảm chân thành ấy bùng lên, không thể yên lòng, thì những bài thơ tình yêu tuyệt đẹp của Nguyễn Bính lại xuất hiện.” Để khám phá phong cách thơ bình dị, mộc mạc, đậm đà hương vị quê hương của Nguyễn Bính, không thể không nhắc đến bài thơ Tương tư.
Như các nhà thơ lãng mạn cùng thời, Nguyễn Bính cũng đam mê chủ đề tình yêu. Tuy nhiên, ông có cách thể hiện riêng biệt. Trong khi các nhà thơ lãng mạn tìm cảm hứng từ phương Tây, thì Nguyễn Bính lại tìm về nghệ thuật dân tộc và ảnh hưởng của thơ ca dân gian. Với Tương tư, Nguyễn Bính mở đầu chủ đề tình yêu bằng một nỗi nhớ:
Thôn Đoài nhớ thôn Đông,
Một người nhớ chín, mong mười người
Trong đời sống, “tương tư” thường chỉ nỗi nhớ đơn phương, âm thầm của người yêu một ai đó. Nói vậy, tình yêu bắt đầu bằng nỗi nhớ, và tình yêu trong Tương tư cũng vậy. Đó là sự nhớ nhung sâu sắc, như “chín nhớ mười mong”, khiến nỗi nhớ càng thêm mãnh liệt.
Nỗi nhớ đó chính là biểu hiện của tình yêu! Trong hai câu thơ sau, nhà thơ khẳng định đó chính là tình yêu. Tình yêu làm cho nỗi nhớ “chín nhớ mười mong” trở nên rõ ràng, vì yêu nên mới tương tư, chờ đợi:
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Ở đây, nỗi nhớ đã được xác định rõ ràng là nỗi nhớ của tình yêu, của một chàng trai dành cho một cô gái. Chàng trai ấy có gốc rễ sâu xa với quê hương, vì vậy nỗi nhớ cũng mang đậm màu sắc quê hương, giản dị mà chân thật. Thơ của Nguyễn Bính là sự kết hợp giữa lãng mạn và dân dã, nỗi nhớ vừa mộc mạc vừa sâu lắng. Ông yêu thích việc cụ thể hóa cảm xúc trừu tượng của ca dao thành những con số cụ thể, nhưng vẫn giữ được cấu trúc tinh tế của thơ:
Một người nhớ chín, mong mười người
Những từ “Một người” đứng ở đầu và cuối câu thơ tạo nên khoảng cách, diễn tả sự xa cách và nỗi nhớ mong sâu sắc. Tâm trạng của người tình đơn phương được mở ra cùng với sự mênh mông của trời đất. Dù trời có nắng hay mưa, “tôi” vẫn một lòng yêu thương, nhớ nhung “nàng”.
Có lẽ đây là hai câu thơ nổi tiếng nhất của Tương tư – Nguyễn Bính. Không chỉ là tâm trạng của chàng trai trong Tương tư mà còn là nỗi niềm chung của nhiều chàng trai khác đang yêu, câu thơ như thay lời của họ. Thương thầm, nhớ trộm, dù biết “quyền được yêu” nhưng vẫn cảm thấy đơn phương là không công bằng. Tình yêu đôi khi thật phi lý như vậy:
Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này
Đọc câu thơ, ta thấy sự tội nghiệp dành cho người trách hơn là người bị trách. Rõ ràng nàng “Thôn Đông” không hề hay biết về tình cảm của chàng “Thôn Đoài”. Nhưng thấy người ở Thôn Đoài nhớ nhung đến mức tự trách mình, ta cảm thấy thật đáng thương. Đáng thương nhất không phải là tình cảm không được đáp lại mà là nỗi nhớ nhung không thể bày tỏ, chỉ có thể âm thầm chờ đợi và trách móc “vô tình”.
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Sử dụng lặp từ “ngày qua ngày lại...” như âm hưởng của nhạc dân gian, Nguyễn Bính thể hiện sự trôi chảy của thời gian, với câu trên là nhạc và câu dưới là màu sắc. Lá xanh nhuộm thành lá vàng không chỉ là sự thay đổi màu sắc mà còn là sự chờ đợi mòn mỏi. Trong tình yêu, chờ đợi là nỗi đau lớn nhất, vì không biết chờ đợi bao lâu, càng khiến nỗi nhớ thêm bứt rứt, giận hờn:
Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho
Chuyển từ trách móc sang kể lể, đau khổ. Những từ “ai” lặp đi lặp lại gây âm hưởng trầm buồn, giống như trong ca dao:
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai.
Than thở, trách móc vì yêu, vì nhớ, vì tương tư. Tình cảm đơn phương thường không hạnh phúc. Nỗi nhớ và sự chờ đợi vô vọng làm trái tim thêm đau khổ, đẫm lệ:
Bao giờ bến mới gặp đò,
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Nhà thơ sử dụng hai biểu tượng ca dao: bến – đò, hoa – bướm. Biểu tượng tĩnh như bến, hoa ám chỉ người con gái; biểu tượng động như đò, bướm ám chỉ người con trai. Nguyễn Bính khéo léo diễn tả nỗi đau của tình yêu, mặc dù sử dụng hình ảnh ca dao nhưng vẫn thêm chút lãng mạn của thời đại. Dù trái tim yêu thương chân thành, nhưng vẫn cảm thấy sự vô vọng và mộng tưởng xa xôi. Cuối bài thơ, nhịp điệu trở về giai điệu ban đầu với vài biến tấu:
Nhà em có một giàn giầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Câu thơ “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông” được nhắc lại với các biểu tượng tình yêu trầu – cau. Dù trầu – cau là biểu tượng của sự kết đôi, nhưng chỉ là nhớ đơn phương, không thể “đỏ với nhau” như ca dao:
Miếng trầu với lại quả cau
Làm sao cho đỏ với nhau thì làm
Tương tư là nỗi nhớ, nỗi nhớ thầm kín và đơn phương, đó là thất tình. Tình yêu không đáp lại làm nỗi nhớ thêm khắc khoải, sầu thảm. Thơ Nguyễn Bính, với tình quê và hồn quê, mang đến một sắc thái khác biệt so với các trường phái lãng mạn đương thời. Sức hút của Tương tư không chỉ ở tình yêu đôi lứa mà còn ở lòng yêu quê hương, sự nâng niu nghệ thuật dân tộc và phong cách thơ đậm chất dân gian.
7. Bài viết phân tích tác phẩm thơ 'Tương tư' - phiên bản 2
Thơ Nguyễn Bính mang đậm hương sắc dân gian, làm sống dậy những cảm xúc xưa cũ về quê hương đất nước qua những câu thơ mộc mạc, giản dị nhưng đầy sâu lắng.
Bài thơ 'Tương tư' là một ví dụ tiêu biểu cho phong cách thơ bình dị của Nguyễn Bính. Nó thể hiện nỗi nhớ nhung, chân thành của chàng trai quê với nhiều cung bậc cảm xúc phong phú và đẹp đẽ, đậm chất dân gian và ấm áp hồn quê. Màu sắc dân gian trong bài thơ tạo ra không khí thôn quê đặc trưng, đồng thời cũng là nét riêng trong phong cách thơ của Nguyễn Bính. Những tác phẩm mang đậm dấu ấn dân gian thường thể hiện tình cảm truyền thống và phong cách thể hiện thường thấy trong ca dao, dân ca. Ca dao, dân ca là kho tàng tinh túy của người lao động bình dân, chứa đựng những cảm xúc và suy nghĩ của họ.
Bài thơ 'Tương tư' trước hết là một sản phẩm của Thơ mới. Khi phá bỏ những quy chuẩn cũ để nhìn thẳng vào bản ngã cá nhân, Thơ mới trở thành một giọng ca chân thực và phong phú, không hề giấu giếm. Nhiều nhà thơ đã chọn viết về tình yêu như Nguyễn Bính, luôn khám phá sâu sắc thế giới thơ này. Nhưng Nguyễn Bính đã có một cách tiếp cận khác. Dù không phải là người đi theo hướng khác lạ, ông cũng không hề sáng tạo vượt bậc vì không phá vỡ các quy tắc của ca dao. Thơ của ông không phải là tình cảm thoảng qua hay tình yêu vĩnh cửu. Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính được phản ánh sâu sắc trong đời sống dân tộc qua ca dao hàng nghìn năm. Thơ ông chứa đựng hồn bình dị của dân tộc. Mở đầu bài thơ, là lời tâm sự của chàng trai:
“Thôn Đoài nhớ thôn Đông
Một người nhớ mong cả mười người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tình yêu nàng.”
Nỗi nhớ nhung, tương tư ấy có nhiều sắc thái đẹp đẽ. Giọng kể tâm tình vừa tự nhiên lại vừa kín đáo. Dù rõ ràng là chuyện tôi yêu nàng nhưng vẫn không thể diễn đạt rõ ràng. Đó chính là tình cảm trong sáng, thánh thiện thường thấy trong ca dao dân ca:
“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em nhận thì cho anh xin.”
(Ca dao)
Không phải là quên áo mà là cớ để gặp gỡ, trò chuyện, thổ lộ tâm tình. Hay một cách tỏ tình khác đẹp đẽ, tinh tế hơn:
“Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi?”
(Ca dao)
Hình ảnh chàng trai ẩn mình trong biểu tượng “thôn Đoài”. Tình cảm được che giấu tế nhị: “ngồi nhớ”, không hề vồ vập hay lộ liễu. Người xưa thường nhẹ nhàng, kín đáo mà vẫn đắm say, nồng nhiệt: “chín nhớ mười mong”. Tiếp theo, chàng trai bày tỏ cảm xúc sau khi đã có lý do:
“Hai thôn chung một làng
Cớ sao bên ấy không sang bên này?”
Lời thơ có vẻ trách móc nhưng thực ra là gợi mở, mời gọi cô gái đến thăm. Đây cũng là cơ hội để trò chuyện, trao đổi. Chắc chắn rằng cô gái đã hiểu tâm tình của chàng trai. Chân đã muốn tìm đường sang nhưng ngại ngần chưa rõ lối. Lẽ ra, chàng trai sẽ chủ động hơn nhưng trong lòng còn nhiều e ngại, chưa rõ nguồn cơn để mạnh lời hơn nữa, đành kín đáo gửi gắm tâm tình qua gió, qua trăng:
“Ngày lại ngày qua đi,
Lá xanh đã chuyển thành vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy cho tình xa xôi…
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết hỏi ai, ai biết cho!”
Chàng trai tưởng như đang nói với cô gái nhưng thực ra là đoạn độc thoại tự vấn. Nỗi niềm đau đáu trong lòng không thể diễn đạt, muốn tìm lời giải đáp để xóa tan u uẩn. Thời gian trôi qua càng làm tình yêu trong lòng cháy bỏng, thôi thúc không ngừng mà người xa vẫn mờ mịt. Có chút oán trách nhưng không có lỗi tại ai. Chàng trai không dám trực tiếp ngỏ lời sợ bị coi là thô lỗ. Càng giấu giếm càng cào cấu dữ dội. Niềm thôi thúc ấy tưởng chừng sẽ là động lực mạnh mẽ đưa chàng trai tìm đến thôn Đông. Nhưng không, chàng quyết định im lặng và chỉ gặp nhau trong mộng tưởng:
“Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?”
Mãi mãi, tình yêu thầm kín được chôn giấu trong lòng. Tình yêu ấy trở thành khát vọng đẹp và suốt cuộc đời chỉ là niềm khao khát xa vời:
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
Đọc thơ Nguyễn Bính mang đến cảm giác nhẹ nhàng và thanh tịnh tâm hồn. Mỗi câu thơ đưa ta trở về với hồn xưa của đất nước. Dù viết về tình yêu, dù là hợp duyên hay trắc trở, tất cả đều diễn ra trong không gian làng quê xanh tươi, tràn đầy sức sống. Màu sắc dân gian trong bài thơ “Tương tư” tỏa ra từ cảnh làng quê bình dị, tĩnh lặng và gần gũi. Đó là nền tảng cho tình yêu lứa đôi phát triển. Thơ Nguyễn Bính khéo léo sử dụng ngôn ngữ dân gian, phong phú hình ảnh, gợi cảm giác quen thuộc như đã đọc thấy hoặc nghe ở đâu đó trong ca dao dân ca.
8. Bài cảm nhận về bài thơ 'Tương tư' - phiên bản 3
Bài Tương tư nằm trong một thi tứ bao trùm Thơ mới: tình yêu nam nữ - thứ tình yêu hiện đại trăm hình muôn trạng của văn học lãng mạn giai đoạn 1930 — 1945... cái tình say đắm, cái tình thoảng qua; cái tình gần gũi, cái tình xa xôi..., cái tình trong giây phút, cái tình thiên thu.
Con người lãng mạn trong bài thơ Tương tư đã thao thức chín nhớ mười mong người thương ròng rã suốt mấy đêm rồi, mong nhớ hết ngày này đến ngày khác, thậm chí hết tháng này qua tháng khác: Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng... Theo đạo lí quân tử tu, tề, trị, bình Nho gia, nhất là Tống Nho, thì kẻ nam nhi như thế là hỏng quá... Nhưng sức cuốn hút của thơ tình Nguyễn Bính trong bài Tương tư chủ yếu không phải do thái độ thành thực giãi bày nỗi niềm chín nhớ mười mong nay do sự cải lí cho tính phù hợp quy luật của tình yêu nam nữ, đặng biện hộ cho đạo lí nhân văn (không ít nhà thơ lãng mạn đương thời bộc lộ tình cảm yêu thương nhiều khi còn đắm đuối hơn (Ao ước - Tế Hanh), tinh tế hơn (Ngậm ngùi - Huy Cận) hoặc não lòng hơn: Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ - Lạc giữa niềm êm chẳng bến bà - Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá - Hai người nhưng chẳng bơ va (Trăng - Xuân Diệu); mà sức cuốn hút chủ yếu là bởi những rung động của trái tim thi sĩ (thể hiện trong cấu tứ cũng như ở ngữ điệu - giọng) dung hợp rất nhuần nhuyễn tính cách dân tộc.
Chúng ta đều rõ: Linh hồn của một dân tộc thể hiện tập trung ở các hình thái folklore. Trong folklore Việt Nam có khu vực đặc biệt phát triển: thơ ca dân gian không chỉ do số lượng, mà còn ở chất lượng, ca dao dân ca là một tổng kho văn hóa chứa đựng trí tuệ, tâm linh, thần thái Việt... và trong kho tàng tinh thần đó, xuất hiện biết bao vần thơ tình yêu đặc sắc không thua kém bất cứ một khúc tình ca nào trên thế gian. Nhà thơ Nguyễn Bính chính là một chú bướm (Con bướm vàng tuyển đậu Thám hoa - Truyện cổ tích) đã xâm nhập rồi lượn bay trên một cùng văn hóa dân gian đặc biệt của dân tộc: ca dao dân ca, và đã hấp thụ được một lượng hương nhụy đáng kể...
Trong thơ mới, tất nhiên không phải chỉ riêng Nguyễn Bính, mà một số thi sĩ khác cũng đã quy tụ gần xa chung quanh vùng văn hóa cội nguồn dân tộc này - như tác giả Thi nhân Việt Nam từng nhận xét: Chưa bao giờ như bây giờ họ thấy cần phải tìm về dĩ vãng để vịn vào những gì bất diệt đủ đảm bảo cho ngày mai. Tình hình ấy cũng hoàn toàn phù hợp với một quy luật hình thành văn học lãng mạn thế giới; ví dụ không ít những cây bút lãng mạn châu u thế kỉ XIX cũng đã quay về với dân tộc, văn hóa dân gian, quan tâm sưu tầm các sáng tác dân gian theo quan niệm: cần hợp hồn giữa thời xưa và thời nay (Mickiêvich) vì có khi: phải tìm đến dân ca mới thấy được thơ chân chính.
Một trong những nét đặc trưng của tính cách Việt là ý thức về độ (không vượt ngưỡng). Ý thức về độ ấy đã chi phối nhiều khu vực văn hóa dân gian Việt: về kiến trúc, các công trình xây dựng không quá lớn, về sân khấu tuồng, bi mà vẫn tráng, chèo khi đau buồn phải có hề xua tan ngay không khí thảm sầu, về tín ngưỡng, lễ hội, nghiêm trang mà không khe khắt, về ứng nhân xử thế, ít muôn cạn tàu ráo máng... Ý thức về độ của tính cách Việt do các nguyên nhận lịch sử, đại lí lâu đời quyết định... Đồng hành trong hệ thống văn hóa ấy, tình yêu nam nữ trong ca dao dân ca tuy đắm đuối thiết tha mà không mấy bi lụy - cái thi tứ rũ liệt đến muốn tự diệt vì tình tuyệt vọng hầu như không xuất hiện trong thơ ca dân gian. Vả chăng, người bình dân (gồm cả lao động và trí thức) chủ nhân văn hóa dân gian, trong cuộc sống lúc đang lúc đang yêu thì thường cũng là khi đang có nhiều trách nhiệm lớn nhỏ ràng buộc - đối với gia đình chẳng hạn. Hãy nghe lời van vĩ dễ thương của một thôn nữ tội nghiệp xưa:
Chàng ơi buông áo em ra
Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa
Chợ trưa rau nó héo đi
Lấy gì nuôi mẹ, lấy gì nuôi em.
Chúng ta tin chắc rằng dẫu thiếu nữ ấy có trong tình huống
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt trên vai
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mà mắt không khô.
Đi nữa, thì cô cũng khó tùy tiện ngã bệnh hoặc liều thân, bởi vì ai sẽ thay cô tần tảo nuôi mẹ, nuôi em? Do đó, sầu tương tư, tình tuyệt vọng.. trong ca dao dân ca xưa chỉ đưa chàng đến mức nuối tiếc:
Tiếc công anh đắp đập be bờ.
Để ai quăng đó, đem lờ đến đơm,
Đêm qua vật đổi sao dời,
Tiếc công gắn bó, tiếc lời giao đoan...,
Hoặc dẫn nàng đến độ ngẩn ngơ:
Ngày ngày em đứng em trông
Trông non non ngất, trông sông sông dài...,
Quá nữa là:
Nhớ ai em những khóc thầm
Hai dòng nước mắt dầm dầm như mưa...,
Và trạng thái thông thường của họ là:
Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện chăng tơ...
sầu nhớ quá, nhưng... còn nhiều việc phải làm.
Tình yêu không thể là cứu cánh duy nhất!
Nét chủ yếu của tính cách dân tộc trong bài thơ Tương tư chính là khuynh hướng cấu tứ khái quát mang ý nghĩa về độ chín: chín nhớ mười mong dài theo tháng ngày, dẫu biệt vô âm tín vẫn tiếp tục chờ đợi: Bao giờ bến mới gặp đò. với niềm hi vọng xa vời: Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào?... và chỉ đến mức ấy thôi, chứ không phải kiểu phản ứng quyết liệt: Rồi anh chết, anh chết sầu chết héo - linh hồn anh thất thểu dõi hồn em... như chàng lãng mạn trong bài Ao ước của Tế Hanh- ý tứ cực đoan này phải chăng chỉ phù hợp với tâm lí một số độc giả thành thị - Phong cách cấu tứ thơ tình yêu với các mức độ tình cảm phù hợp dân tộc tính như vậy đã xuất hiện trong hầu hết những bài thơ của Nguyễn Bính.
Những nhân vật trữ tình thơ Nguyễn Bính (người thật hoặc hư cấu, khách thể hoặc chủ thể) dẫu có tâm trạng muốn yêu đơn phương, tình tuyệt vọng... đều ứng xử có chừng mực: một chàng trai bị người yêu thờ ơ, chỉ than thở: Tình tôi mở giữa mùa thu - Tình em lẳng lặng kia như buồng tằm(Đêm cuối cùng), một cô gái bị lỗi hẹn cũng nhẫn nại đợi chờ: Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày - Bao giờ em mới gặp anh đây (Mùa xuân), anh lái đò kia thất tình phẫn chí định bỏ nghề, nhưng rồi lại thôi: Lang thang anh dặm bán thuyền - Có người trả chín quan tiền lại thôi. (Anh lái đò), một chàng trai thất tình không oán hờn mà chẳng nặng lời: Em đã sang ngang với một người - Anh còn trồng cải nữa hay thôi? - Đêm qua mơ thấy hai con bướm - Khép cánh tình chung ở giữa trời (Hết bướm vàng), đau đớn hơn: người yêu yểu mệnh, nhưng nỗi đau ấy đã hòa tan cùng mộng ảo: Đêm qua nàng đã chết rồi - Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng - Hồn trinh còn ở trần gian - Nhập vào bướm trắng mà sang bên này (Người hàng xóm)... và trước thái độ quá thờ ơ của cô gái hái mơ, khách đa tình chỉ trách móc mơ màng:
Cô hái mơ ơi, cô gái ơi
Chả trả lời nhau lấy một lời
Cứ lặng trôi đi, rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi...
Đặc điểm dân gian, dân tộc ấy trong cấu tứ khiến những bài thơ tình Nguyễn Bính, trước và sau 1945 dễ dàng tìm được sự đồng cảm và tiếp đón hào hứng của một số lượng độc giả lớn(thành phố và tỉnh nhỏ, thành thị và nông thôn...) mà có lẽ chưa nhà thơ lãng mạn nào đạt được.
Quảng đại quần chúng độc giả tìm đến thơ tình Nguyễn Bính còn vì những bài thơ mang tình tứ gần gũi với tâm hồn, tính cách người Việt ấy đã được thể hiện bằng một thứ từ ngữ điệu (giọng) thân quen: giọng ca dao dân ca. Tình ca Tương tư, đó là thể thơ lục bát ngàn xưa dịu ngọt giàu tính nhạc, vần phong phú, lối đan chữ (chín nhớ mười mong), kiểu suy tưởng vật thể hóa (Lá xanh nay đã thành cây lá vàng), và những từ có vùng mờ ngữ nghĩa dẫn thi tứ lan tỏa man mác (Biết cho ai, hỏi ai người biết cho...) Biểu hiện đậm đà chất giọng ca dao dân ca trong Nguyễn Bính phải chăng là các bài: Chân quê, Đêm cuối cùng, Chờ nhau, Giấc mơ anh lái đò, Người hàng xóm và Lỡ bước sang ngang) Bài thơ đã dân gian hóa đến mức được dùng để ru em. Đông đảo người đọc đến với thơ tình yêu Nguyễn Bính còn do những dòng thơ thuần tính cách người Việt đó là đã đánh thức biết bao kỉ niệm êm đềm về quê hương xứ sở thân yêu...
Trong bài Tương tư, đó là hình ảnh: thôn Đoài, thôn Đông, bến nước, đầu đình, giàn trầu, hàng cau... ở những bài thơ khác của Nguyễn Bính, cũng tràn ngập các hình ảnh gần gũi, những con bướm trắng, bướm vàng vẽ vòng trên các vườn hoa cải vàng, vườn chanh, vườn cam, vườn bưởi ngào ngạt hương bay, ven đê là ruộng dâu, bãi cháy, bãi đất, vườn chè, bên ao bèo, bên giếng khơi, giậu mùng tơi xanh rờn... là những thôn nữ đôn hậu dệt lụa chăn tằm, đi trẩy hội chùa, hội làng, xem hát chèo mùa xuân với trang phục đằm thắm, dây lưng đũi, yếm lạu sồi, áo đồng lẫm, quần lĩnh tía... nhưng anh lái đò, cô lái đò sống giữa hương đồng gió nội và dưới bầu Giời cao gió cả giăng như ban ngày...
Hương đồng gió nội trong thơ Nguyễn Bính sáng tác trước 1945, được đông đảo độc giả mến mộ dài lâu. Hiện tượng ấy khiến chúng ta nhớ lại điều dự báo có sức khái quát của tác giả Thi nhân Việt Nam 50 năm trước : Nếu các thi nhân ta đủ sức chăn thành để kể thừa di sản xưa, nếu họ biết tìm đến thơ xưa với một tấm lòng trẻ, họ sẽ phát huy được những gì vĩnh viễn hơn, sâu sắc hơn mà bình dị hơn trong linh hồn nòi giống. Nhất là ca dao sẽ đưa họ về với dân quê, nghĩa là với chín mươi phần trăm số người trong nước. Trong nguồn sống dồi dào và mạnh mẽ ấy, họ sẽ tìm ra những vần thơ không chỉ dành riêng cho chúng ta, một bọn người có học mới mà có thể làm nao lòng hết thảy người Việt Nam.