A-di-đà Phật | |
---|---|
Pho tượng Phật A-di-đà khổng lồ bằng đồng ở Kamakura, tỉnh Kanagawa, Nhật Bản | |
Phạn | अमिताभ Amitābha, अमितायुस् Amitāyus |
Trung | 阿彌陀佛(T) / 阿弥陀佛(S) Bính âm: Ēmítuó Fó Wade-Giles: E-mi-t’uo Fo |
Nhật | 阿弥陀如来 Amida Nyorai |
Hàn | 아미타불 Amit'a Bul |
Mông Cổ | ᠴᠠᠭᠯᠠᠰᠢ ᠦᠭᠡᠢ ᠭᠡᠷᠡᠯᠲᠦ Цаглашгүй гэрэлт Tsaglasi ügei gereltu Одбагмэд Odbagmed Аминдаваа Amindavaa Аюуш Ayush |
Tây Tạng | འོད་དཔག་མེད་ od dpag med Ö-pa-me yoong toog taaa |
Việt | A-di-đà Phật |
Thông tin | |
Tôn kính bởi | Đại thừa, Kim Cương thừa |
Thuộc tính | Vô lượng quang |
Shakti | Pandara |
Cổng thông tin Phật giáo |
A-di-đà Phật (chữ Hán: 阿彌陀佛) được phiên âm từ Amitābha, hay còn được biết đến với tên gọi Amida hoặc Amitāyus (trong tiếng Sankrit Amitābha có nghĩa là ánh sáng vô lượng, Amitāyus có nghĩa là thọ mạng vô lượng, nên A-di-đà Phật được xem là đức Phật Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Ngại Quang, Thanh Tịnh Quang, Giải Thoát Quang, Bất Khả Tư Nghị Quang, Trí Huệ Quang, Siêu Nhật Nguyệt Quang hoặc Tiếp Dẫn đạo sư (Vị thầy đạo tiếp đón chúng sinh). Trong hai tiểu thuyết Phong thần diễn nghĩa và Tây du ký có 1 nhân vật có tên này nhưng được miêu tả có ngoại hình khác. Ngài là một trong những vị Phật được thờ trong Phật giáo Đại thừa, ngụ ở tịnh độ của mình và đến thế giới này với vai trò là một thế lực cứu độ. Theo Đại Kinh A-di-đà hay Đại Kinh Sukhāvatīvyūha, trong một kiếp sống trước đây A-di-đà là một vị tăng tên là Pháp-tạng hay Dharmākara, ông nguyện khi đắc quả Phật sẽ tịnh hoá và trang nghiêm một thế giới và biến nó thành một trong những quốc độ thanh tịnh và đẹp đẽ nhất. Một khi ông hoàn toàn tỉnh giác và thành tựu lời nguyện của mình, Dharmākara sẽ trở thành Phật A-di-đà. Phật A-di-đà giờ đây đang cư ngụ tại thế giới đã tịnh hoá, gọi là Sukhāvatī (Cực lạc) tịnh độ ở phía phương Tây. Từ thế giới này Ngài sẽ đến với chúng ta, vây quanh bởi những vị bồ tát, chào mừng những chúng sinh đã khuất và dẫn họ đi tái sinh trong đất nước thanh tịnh của Ngài.
Hình ảnh của A-di-đà không hề được nhắc đến trong những tầng văn liệu cổ xưa nhất của Phật Giáo Nguyên Thủy Theravāda, nhưng vào khoảng đầu Công nguyên, danh hiệu A-di-đà xuất hiện là một vị Phật ở phía Tây trong bộ Ngũ phương Phật. Tín ngưỡng A-di-đà gần như được phát triển cùng với phương pháp hành trì thời kỳ đầu của Đại Thừa hay Mahāyāna là cầu khấn và thờ phụng 'mọi vị phật' và hình tượng vài vị trong số đó đang sống ở những thế giới 'thanh tịnh', xa xôi, ứng với một phương hướng chính. Huyền thoại về những lời nguyện và tịnh thổ của A-di-đà có thể được phát triển xấp xỉ với hay cạnh tranh với những tín ngưỡng tương tự của những vị Phật khác chẳng hạn như Phật A-súc-bệ hay Akṣobhya (một trong những vị Phật của ngũ phương, có tịnh-thổ nằm ở phía đông gọi là Diệu Hỷ hay Abhirati).
Dù rằng A-di-đà có nhiều phẩm chất giống với những vị Phật Đại thừa khác, nhưng A-di-đà thường được gắn với ánh chiều tà rạng rỡ, lan ra khắp mọi ngõ ngách vũ trụ mà không làm thiêu đốt hay mù loà (ở Đông Á Ngài cũng được liên kết với ánh trăng). Sự nhấn mạnh trên những phẩm chất phát quang (hay vầng hào quang) này vốn đóng một vai trò quan trọng trong văn hoá biểu tượng Đông Á, không làm thay thế hay mâu thuẫn khi kết hợp Đức A-di-đà với tôn giáo của âm thanh và tiếng nói; sự cứu hộ của Ngài được đảm bảo hay cam chắc bắng cách gọi tên Ngài, hay đúng hơn, cầu khấn danh hiệu Ngài với câu: 'Nam Mô A-di-đà Phật.' Thậm chí trong những đoạn văn nhấn mạnh vào hình ảnh ánh sáng như là Đại-trí-độ luận (Luận về Đại Trí tuệ Hoàn Hảo), Ngài vẫn là mẫu hình mạnh mẽ của thề nguyện và thánh danh.
A-di-đà thường được thể hiện trong ấn thiền định dhyānamudrā, có lẽ để nói đến 500 kiếp thiền định đã đưa Dharmākara đến giác ngộ. Một thủ ấn khác cũng hay được thể hiện trong tư thế đứng là ấn vô uý abhayamudrā (MUDRA của sự phòng hộ khỏi sợ hãi và nguy hiểm).
Trên khắp mọi nơi, niềm tin vào A-di-đà vẫn được duy trì đến ngày nay, bao gồm nhiều phương pháp thực hành và đối tượng thờ cúng đa dạng. Một trong những niềm tin phổ biến là niềm tin rằng tịnh thổ Sukhāvatī, do 2 vị bồ tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí ban phước, đặc biệt là Quán Thế Âm, thường liên kết với sự thỉnh nguyện hồng danh của A-di-đà, khiến bồ tát Quán Thế Âm có thể đến cứu giúp những người tụng niệm Ngài. Sự kết hợp của nhiều niềm tin và phương pháp thực hành khác nhau, cùng với sự giao thoa của các vị cứu thế và các hình tượng thần thánh, có lẽ là bối cảnh chung nhất cho sự hiện diện của A-di-đà, từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam và cho đến Phật giáo Nhật Bản ngoài lề Phật giáo Kamakura cải cách.
Cách nhìn nhận về A-di-đà như một trong những vị cứu thế và mối liên hệ giữa niềm tin vào Ngài và những năng lực phi thường của Quán Thế Âm là các chủ đề phổ biến trong Phật giáo châu Á. Không ngạc nhiên khi Panchen Lama của Tây Tạng được coi là tái sinh của A-di-đà, trong khi Dalai Lama tại Lhasa, mặc dù ông từ chối điều này, vẫn được xem là tái sinh của bồ tát Quán Thế Âm.
Tông phái tịnh độ
Các Phật tử theo phái Tịnh Độ thường tụng 'Nam-mô A-di-đà Phật' (Tôn kính đức Phật đã Giác ngộ vô lượng). Họ tin rằng, trong Thập Lục Quán Kinh, Phật đã dạy rằng nếu ai niệm danh hiệu của Phật A-di-đà một lần sẽ tiêu được 8 muôn ức kiếp tội nặng. Tuy nhiên, các phái Phật giáo khác như Thiền tông, Phật giáo Nguyên thủy không thường tụng niệm câu này.
Trong Phật giáo Tây Tạng, Đại sư Liên Hoa Sinh và Panchen Lama được xem như là những hóa thân của Đức Phật A-di-đà.
Ngoài ra, có truyền thuyết cho rằng Đại Sư Vĩnh Minh Diên Thọ là hóa thân của Phật A-di-đà. Dựa trên câu chuyện này, các tín đồ Phật giáo Bắc tông nói chung và phái Tịnh Độ nói riêng chọn ngày sinh của Đại Sư Vĩnh Minh là ngày 17 tháng 11 âm lịch để tổ chức lễ vía Phật A-di-dà hàng năm, mặc dù trong các kinh văn như Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Đại Bổn A Di Đà… không có thông tin chính xác về ngày sinh của Phật A-di-đà.
Nguồn gốc về Giáo Lý của Đức Phật A-di-đà
Vì nhiều lý do khác nhau, nguồn gốc của A-di-đà vẫn gây tranh cãi cho người trong và ngoài đạo. Về mặt lịch sử giáo lý, khi xem xét nguồn gốc của Phật A-di-đà và các giáo lý liên quan mà không xét đến lịch sử thời gian thông thường, những người tu Tịnh Độ tin rằng niệm Phật A-di-đà và tu Tịnh Độ là con đường nhanh nhất để đạt giải thoát, mỗi người đều có thể làm được. Trong khi đó, giáo lý nguyên thủy trong phật giáo cho rằng thiền là con đường tự giải thoát, Phật không thể giúp đỡ ai, chỉ có chính bản thân mình giúp được. Ngay cả đức Phật Thích-ca, cũng đã tự giác ngộ và dẫn đến giải thoát cao thượng.
Do có nhiều cách hiểu khác nhau, đức tin này dẫn đến nhiều cuộc tranh luận về các giáo lý, thậm chí có những mâu thuẫn hoàn toàn ngược nhau.
Trong Kinh Phật, Phật A-di-đà được đức Phật Thích-ca (đức Phật của Hiện tại) giới thiệu và ca ngợi lần đầu tiên trong Kinh Vô Lượng Thọ. Theo lời của Đức Phật Thích-ca, để đạt đạo Thức Tỉnh (tức giải thoát hoàn toàn), có 8 vạn 4 ngàn con đường để trở thành Phật, điều này cho thấy có rất nhiều cách để đạt giải thoát, tùy thuộc vào từng hoàn cảnh và con người cụ thể để chọn lựa con đường thích hợp nhất để trở thành Phật (nghĩa là thực sự Thức Tỉnh, đạt đạo). Tuy nhiên, trong giáo lý nguyên thủy, 8 vạn 4 ngàn pháp môn chỉ ra rằng tất cả lời Phật thuyết trong Tạng Kinh, Tạng Luật và Tạng Vô Tỷ Pháp đều có 8 vạn 4 ngàn câu và đoạn.
Chữ A-di-đà, ngoài việc là tên của Đức Phật Pháp Tạng (Phật Trung Chi Vương), theo giáo lý còn có ý nghĩa sâu xa, nhắc nhở người tụng niệm nhận thức về thân phận yếu đuối của mình, dựa vào sức mạnh của Phật để vượt qua tội lỗi và yếu đuối của bản thân, để khi chết được Phật A-di-đà đón nhận vào Cực Lạc và tiếp tục tu hành để đạt giải thoát.
Những người tin vào pháp môn Tịnh Độ (nhận sự trợ lực của Phật A-di-đà để tái sanh vào Cực Lạc và tiếp tục tu hành để trở thành Phật) phổ biến chủ yếu ở các nước Đông Á. Tuy nhiên, đối với các học giả tri thức Phật học trên thế giới, họ lại có niềm tin vào việc tự tu và tự giải thoát mà không cần sự can thiệp của bất kỳ Phật thánh nào, đây là quan điểm phổ biến hơn và có sự nghiên cứu khoa học sâu sắc hơn về nguồn gốc của giáo pháp.
Phật A-di-đà có nguồn gốc lịch sử từ Kinh Vô Lượng, được cho là do Phật Thích-ca Thuyết truyền bá. Tuy nhiên, các bằng chứng khảo cổ chỉ đưa ra vào khoảng thế kỷ 1 TCN, vì vậy, nguồn gốc của Phật A-di-đà đã gây tranh cãi lớn.
Lần đầu tiên Phật A-di-đà được nhắc đến trong Kinh Vô Lượng, được cho là Phật Thích-ca Thuyết khi còn tại thế. Tuy nhiên, các bằng chứng khảo cổ chỉ tìm thấy về Phật A-di-đà vào khoảng thế kỷ 1 TCN. Điều này dẫn đến nhiều tranh cãi về nguồn gốc của niềm tin này.
Giải thích lịch sử và nguồn gốc của niềm tin vào Phật A-di-đà được trích từ bách khoa toàn thư Việt Nam, cho rằng đức tin này là sản phẩm của học giả Phật giáo từ thế kỷ 1 TCN. Do đó, không có bằng chứng rõ ràng cho thấy Phật Thích-ca thực sự đã nói về Phật A-di-đà, hay A-di-đà chỉ là một khái niệm được học giả sáng tạo.
Tuy nhiên, cũng cần xem xét rằng, các luận điểm này dựa trên bằng chứng khảo cổ từ các học giả. Một số học giả theo truyền thống cho rằng các kinh điển Đại thừa, bao gồm cả Prajñāpāramitā sớm nhất và các văn bản về Akshobhya, có thể đã được sáng tác vào thế kỷ 1 TCN ở phía nam Ấn Độ. Những kinh điển này được dịch lần đầu tiên bởi nhà sư Kushan, Lokakṣema, từ vương quốc Gandhāra sang Trung Quốc trong khoảng từ 178 đến 189 Công nguyên.
Chú thích về nguồn gốc lịch sử của Phật A-di-đà.
Liên kết ngoài về Phật A-di-đà.
- A-di-đà trong Từ điển bách khoa Việt Nam
- Amitabha (Phật giáo) trong Encyclopædia Britannica (bằng tiếng Anh)
Phật giáo Việt Nam | ||
---|---|---|
Phật |
| |
Bồ Tát |
| |
Tăng già |
| |
|
Tiêu đề chuẩn |
|
---|