Tên đầy đủ | Amsterdamsche Football Club Ajax |
---|---|
Biệt danh | de Godenzonen (Con của Chúa), de Joden (Người Do Thái) Lucky Ajax |
Thành lập | 18 tháng 3 năm 1900; 124 năm trước |
Sân | Johan Cruyff Arena |
Sức chứa | 55.865 |
Chủ sở hữu | AFC Ajax N.V. |
Chủ tịch | Alex Kroes |
Huấn luyện viên trưởng | John van 't Schip |
Giải đấu | Eredivisie |
2022–23 | Eredivisie, thứ 3 trên 18 |
Trang web | Trang web của câu lạc bộ |
Amsterdamsche Football Club Ajax (phát âm tiếng Hà Lan: [ˈaːjɑks]), còn được gọi là AFC Ajax, Ajax Amsterdam hoặc đơn giản là Ajax, là câu lạc bộ bóng đá có trụ sở ở Amsterdam, đang chơi tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Hà Lan (Eredivisie), hạng đấu cao nhất của bóng đá Hà Lan. Trong lịch sử, Ajax (tên của nhân vật thần thoại Hy Lạp) là đội bóng thành công nhất Hà Lan, với 36 chức vô địch quốc gia Hà Lan và 20 Cúp KNVB. Câu lạc bộ liên tục thi đấu ở Eredivisie kể từ khi giải đấu khởi đầu từ năm 1956. Cùng với Feyenoord và PSV Eindhoven, họ là 3 câu lạc bộ thống trị giải đấu.
Ajax đã từng 4 lần vô địch Cúp C1 châu Âu, trong đó có ba lần vô địch liên tiếp từ năm 1971–1973 và một lần vô địch vào năm 1995. Năm 1972, họ hoàn tất cú ăn ba lục địa bằng việc vô địch Eredivisie, Cúp KNVB và Cúp C1 châu Âu. Câu lạc bộ là 1 trong 5 đội vô địch cả ba giải đấu cấp câu lạc bộ hàng đầu của UEFA (Cúp C1 châu Âu, UEFA Cup Winners' Cup và Cúp UEFA).
Ajax thi đấu tại Johan Cruyff Arena, được mở cửa với tên gọi Amsterdam Arena vào năm 1996 và được đổi tên vào năm 2018. Họ trước đây thi đấu tại sân vận động De Meer và sân vận động Olympic Amsterdam (cho các trận đấu quốc tế).
Lịch sử
Câu lạc bộ do Floris Stempel, Carel Reeser, anh em Han và Johan Dade thành lập tại Amsterdam, ngày 18 tháng 3 năm 1900. Câu lạc bộ thăng hạng cao nhất của bóng đá Hà Lan từ năm 1911 và có chức vô địch đầu tiên vào năm 1917 (Cúp KNVB). Mùa giải sau đó, họ giành chức vô địch quốc gia lần đầu tiên. Câu lạc bộ bảo vệ chức vô địch vào mùa 1918–19, trở thành đội bóng duy nhất có mùa giải bất bại tại Giải VĐQG Hà Lan. Những năm 1920s, Ajax là một thế lực lớn ở khu vực họ, vô địch giải Eerste Klasser West năm 1921, 1927 và 1928, nhưng không thành công ở giải quốc gia. Khi giải đấu được thay đổi vào những năm 30, họ vô địch 5 lần (1931, 1932, 1934, 1937, 1939), trở thành đội bóng Hà Lan thành công nhất vào thời điểm đó. Ajax giành cúp KNVP lần thứ 2 vào mùa 1942–43 và chức vô địch Hà Lan lần thứ 8 vào mùa 1946–47, mùa giải cuối cùng câu lạc bộ được dẫn dắt bởi HLV Jack Reynolds, thâu tóm tất cả các chức vô địch nội địa, kể cả chiếc Cúp KNVB năm 1917.
Vào năm 1956, mùa giải chuyên nghiệp đầu tiên của Giải VĐQG Hà Lan được diễn ra, Ajax tham dự với tư cách là người sang lập. Câu lạc bộ thủ đô giành chức vô địch đầu tiên trong kỉ nguyên này, đồng thời ra mắt tại đấu trường Cúp Châu Âu trong trận thua ĐKVĐ của Hungary Vasas SC với tổng tỉ số 6-2 tại vòng tứ kết. Họ tiếp tục vô địch Giải VĐQG vào năm 60 và giành Cúp KNVB lần thứ 3 vào năm 1961.
Năm 1965, Rinus Michels, người từng chơi cho CLB trong khoảng từ 1946-1958 trở thành HLV của Ajax. Ông đem triết lí về Bóng đá Tổng lực, không chỉ riêng tới Ajax mà còn cả Đội tuyển quốc gia Hà Lan. 1 năm sau, Johan Cruyff, huyền thoại bóng đá Hà Lan, có trận đấu đầu tiên cho CLB. Trong khoảng thời gian này, Michels và Cruyff tạo nên thời kì hoàng kim nhất trong lịch sử CLB, vô địch Hà Lan đến 7 lần, 4 Cúp KNVB và 3 Cúp C1 liên tiếp (1971-1973).
Ajax vô địch quốc nội vào các năm 1966-1968, và đã vào đến trận chung kết Cúp Châu Âu vào năm 1969, khi họ để thua Milan. Trong mùa giải 1966-67, Ajax ghi tới 122 bàn thắng tại Giải VĐQG, lần đầu đoạt cú đúp danh hiệu Cúp KNVB và VĐQG Hà Lan. Mùa giải 1969-70, Ajax vô địch Hà Lan lần thứ 4 và cú đúp quốc nội lần thứ 2 trong 5 năm, thắng 27/34 trận và ghi 100 bàn.

Trong mùa giải 1970-71, Ajax giành Cúp KNVB và tiến vào chung kết Cúp C1 năm 1971, nơi họ đánh bại Panathinaikos 2-0 để lần đầu vô địch Cúp Châu Âu. Johan Cruyff giành danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất châu Âu trong mùa giải này. Sau đó, Rinus Michels sang dẫn dắt Barcelona, và Stefan Kovács thay thế ông tại Ajax. Trong mùa giải đầu tiên dưới sự chỉ đạo của Kovács, Ajax đoạt cú ăn ba (Cúp C1, Cúp KNVB, vô địch Hà Lan). Mùa giải tiếp theo, họ vượt qua Independiente của Argentina để vô địch Cúp Liên lục địa năm 1972, bảo vệ chức vô địch quốc nội và trở thành đội bóng đầu tiên sau Real Madrid trong những năm 50 giành 3 chức vô địch C1 liên tiếp.
Năm 1973, Johan Cruyff chuyển đến Barca với mức phí kỉ lục thế giới (~2 triệu USD). Kovács chuyển đến dẫn dắt Đội tuyển quốc gia Pháp, kết thúc thời kỳ vàng son của Ajax.
Sân vận động
Sân vận động đầu tiên của Ajax được xây vào năm 1911. Sân được xây bằng gỗ nên có tên là Het Houten Stadion ('Sân Gỗ'). Sau đó, Ajax chuyển đến sân đã từng tổ chức Thế vận hội Mùa hè 1928 tại Amsterdam. Sân này do Jan Wils thiết kế, được biết đến với tên gọi là Olympic Stadium. Vào năm 1934, Ajax chuyển đến De Meer Stadion ở phía Tây Amsterdam, được thiết kế bởi kiến trúc sư và thành viên của Ajax Daan Roodenburgh, người cũng tham gia thiết kế sân vận động đầu tiên của câu lạc bộ. Sân có sức chứa 29500 chỗ ngồi, và họ đã sử dụng sân này cho đến năm 1996. Đối với những trận đấu của UEFA hay của Đội tuyển quốc gia, câu lạc bộ thường chuyển đến Olympic Stadium, nơi có sức chứa gấp đôi.
Năm 1996, Ajax chuyển đến sân vận động mới ở phía Đông Nam thành phố, được biết đến với cái tên Amsterdam ArenA. Sân này được xây dựng bởi chính quyền thành phố Amsterdam với chi phí khoảng 134 triệu USD. Sân có sức chứa khoảng 52000 chỗ ngồi. Trung bình mỗi trận, sân nhận đủ 48610 khán giả vào mùa giải 2006-2007 và 49128 vào mùa sau. Amsterdam ArenA có mái che, mở đầu cho xu hướng sân vận động hiện đại tại châu Âu trong những năm tiếp theo. Tại Hà Lan, sân vận động này đã gặp vấn đề về chất lượng cỏ do mái che có thể tháo rời, dẫn đến tiêu tốn nhiều ánh nắng và không khí sạch. Trong mùa giải 2008-2009, nhân viên sân đã giới thiệu công nghệ ánh sáng để khắc phục vấn đề này.
Sân vận động De Meer Stadion, nơi được yêu thích nhất, đã bị phá bỏ và đất đai tại đây đã được bán cho hội đồng thành phố. Chỉ còn lại một món quà duy nhất là dòng chữ 'AJAX', hiện nay nằm trên fasad của trung tâm đào tạo trẻ De Toekomst, gần Amsterdam ArenA.
Thành tựu
Đấu trường quốc tế

- Vô địch: 1971, 1972, 1973, 1995
- Á quân: 1969, 1996
- 1987

- 1992

- 1973, 1995
- 1972, 1995
- 1962
Quốc gia
- Vô địch Giải Vô địch Hà Lan: 36 (kỷ lục của Hà Lan)
- 1918, 1919, 1931, 1932, 1934, 1937, 1939, 1947, 1957, 1960
- 1966, 1967, 1968, 1970, 1972, 1973, 1977, 1979, 1980, 1982
- 1983, 1985, 1990, 1994, 1995, 1996, 1998, 2002, 2004, 2011
- 2012, 2013, 2014, 2019, 2021, 2022
- Cúp Quốc gia Hà Lan: 20 (kỷ lục của Hà Lan)
- 1917, 1943, 1961, 1967, 1970, 1971, 1972, 1979, 1983, 1986
- 1987, 1993, 1998, 1999, 2002, 2006, 2007, 2010, 2019, 2021
- Siêu cúp Hà Lan: 9
- 1993, 1994, 1995, 2002, 2005, 2006, 2007, 2013, 2019
Cầu thủ
Đội hình hiện tại
- Tính đến ngày 1 tháng 2 năm 2024
Ghi chú: Quốc kỳ chỉ áp dụng cho đội tuyển quốc gia theo điều lệ của FIFA. Cầu thủ có thể giữ nhiều quốc tịch ngoài FIFA.
|
|
Cho mượn
Ghi chú: Quốc kỳ chỉ áp dụng cho đội tuyển quốc gia theo điều lệ của FIFA. Cầu thủ có thể giữ nhiều quốc tịch ngoài FIFA.
|
|
Số áo huyền thoại
- 14 – Johan Cruyff (Tiền đạo, 1964–73, 1981–83). Số áo này được treo lên để kỷ niệm sinh nhật lần thứ 60 của Cruyff.
Xếp hạng UEFA
- Cập nhật đến ngày 6 tháng 4 năm 2018
Hạng | Nước | Đội | Điểm |
---|---|---|---|
27 | Liverpool | 56.000 | |
28 | Olympiacos | 54.000 | |
29 | Fiorentina | 54.000 | |
30 | Ajax | 53.500 | |
31 | Villarreal | 52.000 | |
32 | Red Bull Salzburg | 50.500 | |
33 | Anderlecht | 48.000 |