'Việc tạo ra chữ quốc ngữ thường được cho là công lao của các thừa sai, nhưng nếu không có sự hỗ trợ từ người Việt trong việc dạy và điều chỉnh âm thanh cho các thừa sai, chữ quốc ngữ khó có thể ra đời'.

TS Phạm Thị Kiều Ly phát biểu tại buổi ra mắt bộ sách về lịch sử chữ quốc ngữ (1615-1919), hành trình sáng tạo chữ quốc ngữ, và 100 câu hỏi về lịch sử chữ quốc ngữ, diễn ra vào sáng 28-7 tại Đường sách TP.HCM.
Bên cạnh tác giả sách - TS Kiều Ly, sự kiện còn có sự góp mặt của PGS.TS Trần Quốc Anh và TS Vũ Thị Phương Anh.
Đóng góp của người Việt
Ông Trần Quốc Anh cho biết, trước TS Kiều Ly, đã có nhiều nghiên cứu về chữ quốc ngữ từ nhóm Thanh Lãng, Nguyễn Khắc Xuyên với các bài viết trên các tạp chí miền Nam cuối những năm 1950 và đầu 1960, cũng như cuốn 'Lịch sử chữ quốc ngữ (1620 - 1659)' của cố linh mục Đỗ Quang Chính.
Còn có Từ điển Annam-Lusitan-La-tinh do nhóm Thanh Lãng, Đỗ Quang Chính, Hoàng Xuân Việt biên dịch năm 1978 và các nghiên cứu ngữ học của Ronald Jacques vào thập niên 1990.
Năm 2007, học giả Hoàng Xuân Việt cho ra mắt cuốn 'Tìm hiểu lịch sử chữ quốc ngữ'. Đến năm 2013, nhà báo Trần Nhật Vy đã phát hành sách 'Chữ quốc ngữ, 130 năm thăng trầm'.
'TS Kiều Ly tiếp bước các học giả trước đây, đặc biệt là việc tìm kiếm tài liệu từ Hội Thừa sai Ba Lê để bổ sung thêm thông tin mới, đồng thời khái quát hầu hết các giai đoạn phát triển của chữ quốc ngữ trong thời kỳ Dòng Tên, Hội Thừa sai và thời kỳ thuộc địa', ông nói.
Theo TS Kiều Ly, sự hình thành chữ quốc ngữ nằm trong xu hướng nghiên cứu ngữ học truyền giáo từ thế kỷ 16. Các giáo sĩ Dòng Tên học tiếng Việt để giao tiếp với người bản địa. Alexandre de Rhodes từng kể rằng nhờ học tiếng Việt từ một cậu bé, ông đã phân biệt được các thanh điệu và cách phát âm chỉ sau ba tuần.

Chữ quốc ngữ có làm người Việt bị phân tâm không?
Các chương cuối của cuốn sách Lịch sử chữ quốc ngữ (1615-1919) đề cập đến việc đưa chữ quốc ngữ vào chương trình giảng dạy và biến nó thành một phần của kỳ thi truyền thống.
Bà Vũ Thị Phương Anh nhận định rằng việc sử dụng các công cụ ngôn ngữ tiện lợi giúp việc học tiếng trở nên đơn giản hơn.
Dưới ảnh hưởng của chính sách của người Pháp và sự ủng hộ của các trí thức Việt, chữ quốc ngữ dần thay thế chữ Hán. Trong cuốn sách, GS.TS Liam C. Kelly cho rằng sự lan rộng của chữ viết mới ở Việt Nam đã tạo ra một sự phân chia thế hệ trong giới trí thức.

Nhà nghiên cứu này cho rằng 'những thế hệ Việt Nam mới' không còn suy nghĩ giống như các thế hệ trước. Phần lớn trong số họ không đủ khả năng hiểu truyền thống văn hóa và tinh thần của tổ tiên.
Tuy nhiên, nghiên cứu của Kiều Ly nghiêng về giả thuyết rằng việc thay đổi chữ viết không có tác động lớn bằng việc thay đổi chương trình học với các môn học mới trong hệ thống giáo dục. Nếu có sự đứt gãy, chắc chắn nó phải diễn ra qua nhiều giai đoạn.
'Nếu lập luận rằng chữ quốc ngữ đôi khi khiến người Việt thời Pháp thuộc bị lạc hướng, thì cần nhớ rằng phần lớn dân chúng lúc đó còn mù chữ.
Chính những người yêu nước, những nhà cách mạng Việt Nam đã ủng hộ việc đưa chữ viết Latin hóa vào giáo dục nhằm xóa nạn mù chữ và nâng cao dân trí,' Kiều Ly chia sẻ.
Bà cho rằng mọi dân tộc đều tìm thấy bản sắc của mình trong các yếu tố cấu thành nền văn hóa, dù biết chữ hay không.
Văn khấn tổ tiên mang giá trị biểu tượng lớn, là thông điệp mà người sống gửi đến người đã khuất. Tuy nhiên, sự linh thiêng của nghi lễ không nằm ở kiểu chữ mà ở chính cách thức thể hiện nó.