
Âm nhạc thính phòng xuất phát từ tiếng Latinh (camera), nghĩa là nhạc được trình diễn trong không gian nhỏ như phòng hòa nhạc, khác với nhạc giao hưởng hay nhạc sân khấu (như opera, oratoria, cantata) dành cho không gian lớn hơn. Thuật ngữ này đã được hình thành từ thời Trung cổ nhưng chỉ đến cuối thời kỳ Phục Hưng mới được định hình rõ ràng như hiện nay. Âm nhạc thính phòng trước đây thường được trình diễn trong các buổi hòa nhạc gia đình, tạo nên nhóm nhạc thính phòng từ một nghệ sĩ độc tấu đến nhiều nhạc công. Các nhạc sĩ thường tập trung vào từng phương thức biểu cảm phù hợp với từng nhóm cụ thể. Đặc trưng của âm nhạc thính phòng là sự cân bằng giữa các giọng nhạc và sự tinh tế trong ngữ điệu, giai điệu, nhịp điệu và phương thức biểu cảm. Điều quan trọng là sự phát triển của các 'chủ đề âm nhạc' với hình tượng nghệ thuật sâu sắc, âm nhạc thính phòng nổi bật trong khả năng thể hiện cảm xúc tinh tế của tâm hồn.
Vào giữa thế kỷ XVI, sự phân biệt giữa nhạc nhà thờ và nhạc thính phòng bắt đầu rõ rệt trong các thể loại nhạc cho giọng hát. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của âm nhạc thính phòng là 'L'antica musica ridotta alla moderna' của Nicolo Vitrentino (1555). Cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII, âm nhạc thính phòng phát triển mạnh mẽ với các loại hình âm nhạc cho nhạc cụ, còn gọi là khí nhạc. Trong giai đoạn đầu, phong cách nghệ thuật của nhạc cho giọng hát và khí nhạc gần như không khác biệt. Đến giữa thế kỷ XVIII, sự phân biệt này được rõ ràng hơn, như lời nhận xét của nhà âm nhạc học Kvanz: 'Âm nhạc thính phòng đòi hỏi sự sống động và tự do trong ý tưởng âm nhạc hơn âm nhạc nhà thờ'. Thể loại cao nhất của âm nhạc thính phòng cho khí nhạc thời kỳ này là tổ khúc sonate (sonata da camera), phát triển từ tổ khúc vũ điệu. Nửa sau thế kỷ XVIII, các thiên tài như Joseph Haydn, Mozart, Ludwig van Beethoven... đã tạo ra các thể loại âm nhạc thính phòng cổ điển – độc tấu, song tấu, tam tấu, tứ tấu, ngũ tấu, đặc biệt là các nhóm đàn dây như violin, viola, violoncell. Các thể loại này cho phép thể hiện cảm xúc và hình tượng nghệ thuật phong phú, thu hút nhiều nhạc sĩ nổi tiếng như Johannes Brahms, Antonin Dvozak, Bedřich Smetana, Edvard Grieg, Franz Schubert, Aleksandr Borodin, Sergei Rachmaninoff... (thế kỷ XIX), Claude Debussy, Maurice Ravel, Max Reger, Béla Bartók, Sergei Prokofiev, Dmitry Shostakovich... (thế kỷ XX).
Sự phát triển của âm nhạc thính phòng đã trải qua nhiều giai đoạn biến đổi, đặc biệt là sự tương tác giữa âm nhạc thính phòng và âm nhạc giao hưởng. Điều này dẫn đến việc hình thành các tác phẩm âm nhạc thính phòng chịu ảnh hưởng của nhạc giao hưởng (như sonate cho violin - 'Kreisler' của Beethoven, sonate cho violin của Frank) và ngược lại, âm nhạc giao hưởng của âm nhạc thính phòng (như giao hưởng số 14 của Dmitry Shostakovich). Do đó, khái niệm mới xuất hiện – 'Dàn nhạc thính phòng' và 'Giao hưởng thính phòng' để chỉ các tác phẩm giao hưởng dành cho dàn nhạc nhỏ với số lượng nhạc cụ hạn chế. Các tiểu phẩm dành cho các nhạc cụ, đặc biệt là piano, như valse, nocturne, prelude của Franz Schubert, Robert Schumann, Frederic Chopin, Skryabin, Sergei Rachmaninoff, Sergei Prokofiev, đóng vai trò quan trọng. Mặc dù âm nhạc hàn lâm mới du nhập vào Việt Nam chưa lâu, nhưng các nhạc sĩ Việt Nam đã sáng tác nhiều tác phẩm thính phòng từ thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, như các tác phẩm của Hoàng Việt, Đỗ Nhuận, góp phần quan trọng vào sự phát triển văn hóa dân tộc.
Nhạc thính phòng tại Việt Nam
Nhạc thính phòng tại Việt Nam gồm ba thể loại:
- Ca trù miền Bắc
- Ca Huế miền Trung
- Đờn ca tài tử miền Nam
Sách tham khảo thêm
- Baron, John Herschel (1998). Âm nhạc thân mật: Lịch sử của ý tưởng về nhạc thính phòng. Nhà xuất bản Pendragon. ISBN 1-57647-018-0.
- Blum, David (1986). Nghệ thuật chơi tứ tấu: Cuộc trò chuyện với nhóm Guarneri Quartet. New York: Alfred A. Knopf. ISBN 0-8014-9456-7.
- Booth, Wayne (1999). Vì tình yêu với nó. Chicago: Nhà xuất bản Đại học Chicago. ISBN 0-226-06585-5.
- Boyden, David (1965). Lịch sử chơi violin. Oxford và New York: Nhà xuất bản Đại học Oxford.
- Butterworth, Neil (1980). Dvorak, Cuộc đời và thời đại. Nhà xuất bản Midas. ISBN 0-85936-142-X.
- Cobbett, Walter Willson, biên tập (1929). Khảo sát bách khoa của Cobbett về nhạc thính phòng. London: Nhà xuất bản Đại học Oxford. ISBN 9781906857820 và ISBN 978-1906857844.
- Donington, Robert (1982). Âm nhạc Baroque: Phong cách và biểu diễn. New York: W. W. Norton. ISBN 0-393-30052-8.
- Einstein, Alfred (1947). Âm nhạc thời kỳ Lãng mạn. New York: W. W. Norton.
- Eosze, Laszlo (1962). Zoltan Kodaly, cuộc đời và tác phẩm. Istvans Farkas và Gyula Gulyas (dịch). Collet's.
- Geiringer, Karl (1982). Haydn: Cuộc đời sáng tạo trong âm nhạc. Nhà xuất bản Đại học California. ISBN 0-520-04317-0.
- Gjerdingen, Robert (2007). Âm nhạc trong phong cách Galant. Oxford và New York: Nhà xuất bản Đại học Oxford. ISBN 978-0-19-531371-0.
- Griffiths, Paul (1978). Lịch sử ngắn gọn về âm nhạc hiện đại. Thames và Hudson. ISBN 0-500-20164-1.
- Griffiths, Paul (1985). Tứ tấu dây: Lịch sử. Thames và Hudson. ISBN 0-500-27383-9.
- Kerman, Joseph (1979). Các tứ tấu của Beethoven. New York: W. W. Norton and Company. ISBN 0-393-00909-2.
- Miller, Lucy (2006). Adams đến Zemlinsky. Concert Artists Guild. ISBN 1-892862-09-3.
- Norton, M.D. Herter (1925). Nghệ thuật chơi tứ tấu dây. New York: Simon and Schuster (1962).
- Raynor, Henry (1978). Lịch sử xã hội của âm nhạc. Boston: Taplinger Publishing Company.
- Sadie, Stanley, biên tập (1984). The New Grove Violin Family. New York: W. W. Norton and Company. ISBN 0-393-02556-X.
- Schoenberg, Arnold (1984). Leonard Stein (biên tập). Phong cách và lý tưởng: Các bài viết chọn lọc của Arnold Schoenberg. Berkeley và Los Angeles: Nhà xuất bản Đại học California.
- Seth, Vikram (2000). Âm nhạc bình đẳng. Vintage. ISBN 0-375-70924-X.
- Shaham, Natan (1994). Rosendorf Quartet. Grove Press. ISBN 0-8021-3316-9.
- Solomon, Maynard (1978). Beethoven. Granada Publishing, Limited. ISBN 0-586-05189-9.
- Steinhardt, Arnold (1998). Không thể chia cắt bởi bốn. Farrar, Straus và Giroux. ISBN 0-374-52700-8.
- Stowell, Robert, biên tập (2003). Người bạn đồng hành của Cambridge với tứ tấu dây. Cambridge và New York: Nhà xuất bản Đại học Cambridge. ISBN 0-521-80194-X.
- Swafford, Jan (1997). Johannes Brahms. Vintage Books. ISBN 0-679-74582-3.
- Thompson, Oscar (1940). Debussy: Con người và nghệ sĩ. Tudor Publishing Company.
- Ulrich, Homer (1966). Nhạc thính phòng. Nhà xuất bản Đại học Columbia. ISBN 0-231-08617-2.
- Winter, Robert, và Martin, Robert, biên tập (1994). Người bạn đồng hành của Beethoven Quartet. Berkeley và Los Angeles: Nhà xuất bản Đại học California. ISBN 0-520-20420-4.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
- Từ điển New Grove về Âm nhạc và Nhạc sĩ (biên tập Stanley Sadie, 1980)
Liên kết bổ sung
- Chamber Music America.
- earsense chamberbase Lưu trữ 2011-06-14 tại Wayback Machine, một cơ sở dữ liệu trực tuyến với hơn 20.000 tác phẩm nhạc thính phòng cùng giao diện tìm kiếm mạnh mẽ và linh hoạt.
- Hiệp hội Nhạc thính phòng Quốc gia Fischoff, nhà tài trợ các cuộc thi nhạc thính phòng và hỗ trợ giáo dục nhạc thính phòng.
- Danh sách tài nguyên trực tuyến Lưu trữ 2011-09-03 tại Wayback Machine về nhạc thính phòng, bao gồm danh sách các nhà tổ chức hòa nhạc thính phòng trên toàn thế giới, được công bố bởi ACMP. Trang web này còn có nhiều tài nguyên khác cho những người chơi nhạc thính phòng, bao gồm danh sách liên lạc của các nhạc sĩ trên toàn thế giới chơi nhạc thính phòng vì niềm đam mê. Họ cũng công bố danh sách các tác phẩm.
- Thư mục chú giải về âm nhạc của ngũ tấu kép.