Alanine | |
---|---|
Alanine in non-ionic form | |
Danh pháp IUPAC | Alanine |
Tên khác | 2-Aminopropanoic acid |
Nhận dạng | |
Số CAS | 338-69-2 |
PubChem | 5950 |
KEGG | C01401 |
ChEBI | 16977 |
ChEMBL | 66693 |
Ảnh Jmol-3D | ảnh ảnh 2 |
SMILES | đầy đủ |
InChI | đầy đủ |
UNII | 1FU7983T0U |
Thuộc tính | |
Bề ngoài | bột trắng |
Khối lượng riêng | 1.424 g/cm³ |
Điểm nóng chảy | 258 °C (531 K; 496 °F) (sublimes) |
Điểm sôi | |
Độ hòa tan trong nước | 167.2 g/L (25 °C) |
log P | -0.68 |
Độ axit (pKa) | 2.35 (carboxyl), 9.69 (amino) |
MagSus | -50.5·10 cm³/mol |
Các nguy hiểm | |
Trừ khi có ghi chú khác, dữ liệu được cung cấp cho các vật liệu trong trạng thái tiêu chuẩn của chúng (ở 25 °C [77 °F], 100 kPa).
(cái gì ?)
Tham khảo hộp thông tin |
Alanine (ký hiệu là Ala hoặc A) là một axit α-amin đóng vai trò quan trọng trong tổng hợp protein. Alanine có một nhóm α-amino (dưới dạng proton, −NH3 + trong điều kiện sinh học), một nhóm axit α-carboxylic (dưới dạng giảm proton, −COO− trong điều kiện sinh học), và một chuỗi bên nhóm methyl, làm cho axit amin này trở thành một amino acid không phân cực, mạch hở. Đây là một amino acid không thiết yếu đối với con người vì cơ thể có khả năng tự tổng hợp nó và không cần thiết phải có trong chế độ ăn uống. Amino acid này được mã hóa bởi tất cả các codon bắt đầu bằng GC (GCU, GCC, GCA và GCG).
Đồng phân L của alanine (đồng phân 'tay trái') là một hợp chất quan trọng trong việc tạo ra protein. L-Alanine đứng sau leucine về tỷ lệ xuất hiện, chiếm 7,8% trong cấu trúc bậc một của 1.150 mẫu protein được nghiên cứu. Đồng phân 'tay phải', D-Alanine chỉ xuất hiện trong một số polypeptide của vi khuẩn và một số kháng sinh peptide, cũng như trong các mô của nhiều động vật giáp xác và động vật thân mềm như một chất thẩm thấu.
Cấu trúc
Alanine là một amino acid mạch thẳng, với chuỗi bên kết nối vào nguyên tử α-carbon là một nhóm methyl (-CH3), làm cho nó trở thành axit α-amino đơn giản nhất chỉ sau glycin. Nhóm methyl của alanine không hoạt động và do đó hiếm khi tham gia trực tiếp vào chức năng của protein.
Do chuỗi bên của alanine không thể bị phosphoryl hóa (hiện chỉ có các hợp chất như 3-Phosphino-L-alanine và 3-Hydroxyphosphinylalanine được biết đến), alanine rất có giá trị trong các kỹ thuật di truyền liên quan đến phosphoryl hóa. Một số phương pháp tạo ra thư viện gen với đột biến điểm ở các vị trí khác nhau trong khu vực gen quan tâm, đôi khi áp dụng cho toàn bộ gen, gọi là 'quét đột biến (scanning)'. Phương pháp đơn giản và đầu tiên được sử dụng là 'quét alanine', trong đó từng vị trí lần lượt bị thay thế bằng alanine.