
An Lão
|
|||
---|---|---|---|
Huyện | |||
Huyện An Lão | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Đồng bằng sông Hồng | ||
Thành phố | Hải Phòng | ||
Huyện lỵ | thị trấn An Lão | ||
Trụ sở UBND | Số 17, đường Nguyễn Văn Trỗi, thị trấn An Lão | ||
Phân chia hành chính | 2 thị trấn, 15 xã | ||
Thành lập | 1831 | ||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Ngô Thị Thanh Thủy | ||
Bí thư Huyện ủy | Nguyễn Cao Lân | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: | |||
| |||
Diện tích | 114,58 km² | ||
Dân số (2019) | |||
Tổng cộng | 146.712 người | ||
Mật độ | 1.280 người/km² | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 313 | ||
Biển số xe | 15-D1 | ||
Website | anlao | ||
An Lão là một huyện thuộc thành phố Hải Phòng, Việt Nam.
Khu vực
Huyện An Lão nằm ở phía tây thành phố Hải Phòng, với trung tâm hành chính là thị trấn An Lão, cách trung tâm thành phố khoảng 18 km. Huyện có đặc điểm địa lý như sau:
- Hướng đông tiếp giáp quận Kiến An và huyện Kiến Thụy
- Hướng tây giáp huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương
- Hướng nam tiếp giáp huyện Tiên Lãng
- Hướng bắc tiếp giáp huyện An Dương và huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương.
Diện tích huyện là 114,58 km², dân số năm 2019 là 146.712 người, với mật độ dân số đạt 1.280 người/km².
Quá khứ
An Lão (安老=bình yên lâu dài) vốn là vùng đất cổ, thuộc quận Giao Chỉ thời Hán, sau chuyển thành trấn Hải Môn dưới thời Đường, và sau đó gọi là châu Hồng.
Trong thời kỳ đầu độc lập, ba triều Đinh, Tiền Lê, và Lý vẫn duy trì trạng thái này. Nhà Trần thuộc lộ Hồng Châu, từ đó An Lão trở thành một huyện (bao gồm đất An Lão, Kiến Thụy, Kiến An, và Đồ Sơn hiện nay) thuộc châu Đông Triều, phủ Tân Hưng.
Vào năm 1468, triều đại nhà Lê đã đặt An Lão dưới quyền Thừa tuyên Nam Sách. Năm sau (1469), vua Lê Thánh Tông đã tách một phần An Lão để lập nên huyện Nghi Dương.
Khi nhà Mạc (1527-1592) thiết lập kinh đô tại Nghi Dương (hiện nay là quận Dương Kinh), các vùng lân cận như Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thái Bình đều phải quy về Dương Kinh. Do vị trí gần biển, ven sông Úc có nhiều bãi bồi và vũng trũng, các quan quân nhà Mạc đã đưa tre từ Thanh Hóa đến, tổ chức dân cư làm đê kè, lấn biển, nắn sông, hình thành các làng ấp, trong đó có vùng Cao Mật. Qua thời gian, dân cư đã khai phá, bồi đắp thành ruộng đồng.
Trong thời kỳ Lê Trung hưng, An Lão được khôi phục như trước đây và với việc Hải Dương đã được bình định, năm 1741, chúa Trịnh chia thành bốn đạo: Thượng Hồng, Hạ Hồng, An Lão và Đông Triều, mỗi đạo có một chức tuần thủ để quản lý dân cư. Vào tháng 9 nhuận năm Cảnh Hưng thứ 28 (1767), Trịnh Sâm, vì lý do đất nước đang trong tình trạng khó khăn, đã hợp nhất hoặc cắt giảm các phủ, châu huyện, giảm xuống còn 4 phủ và 29 châu huyện, trong đó An Lão do Thủy Đường kiêm lý.
Dưới triều Nguyễn, An Lão trở thành huyện thuộc tỉnh Hải Dương từ năm 1831. Từ năm Minh Mệnh thứ 19 (1838), An Lão thuộc Phủ Kiến Thuỵ (gồm 4 huyện: Nghi Dương, Kim Thành, An Dương và An Lão) và được huyện Kim Thành kiêm nhiệm (từ năm 1852). Đến năm 1887, An Lão thuộc tỉnh Hải Phòng và được phủ Kiến Thụy kiêm nhiệm. Cùng thời điểm này, làng Hương (Cao Mật, An Lão) được đổi thành Phương (Lạp), có nghĩa là 'thơm', nhưng khác với 'Phương' 芳 là mùi thơm của cỏ chi, không phải mùi thơm của hoa hay lúa gạo. Vào thời Đồng Khánh (1885-1889), An Lão có 10 tổng và 62 xã, thôn.
Khi người Pháp lập tỉnh Kiến An vào tháng 2 năm 1906, An Lão thuộc tỉnh này, bao gồm các tổng: An Luận (8 xã), Văn Đẩu (7 xã), Phù Lưu (6 xã), Biểu Đa (7 xã), Cao Mật (8 xã), Du Viên (5 xã), Đâu Kiên (8 xã), Câu Thượng (7 xã), Quan Trang (8 xã), Phương Chử (7 xã), Đại Hoàng (7 xã), và Đại Phương Lang (7 xã).
Vào đêm 16 và rạng sáng ngày 17 tháng 8 năm 1945, trong cuộc Cách mạng tháng Tám, lực lượng tự vệ An Lão cùng với đông đảo quần chúng vũ trang đã từ căn cứ Câu Trung tiến vào huyện lị, buộc Tri huyện và toàn bộ lính tráng phải đầu hàng, giao nộp ấn tín, tài liệu và vũ khí cho cách mạng. Chính quyền Cách mạng được thành lập vào ngày 25 tháng 8.
Khi kháng chiến bắt đầu, vào tháng 3 năm 1947, liên tỉnh Hải - Kiến đã thành lập Đảng bộ huyện An Lão để lãnh đạo quân và dân xây dựng huyện và chống lại thực dân Pháp. Đảng bộ đã giúp huyện vượt qua nhiều cuộc tấn công của địch, điển hình là cuộc chiến đấu chống càn vào ngày 21 tháng 4 năm 1953 tại làng Đại Điền, xã Tân Viên. Ba trăm ngày cuối cùng của thực dân Pháp ở An Lão là thời kỳ chiến đấu ác liệt, kết thúc 9 năm kháng chiến và chấm dứt gần 100 năm thống trị của Pháp.
Vào ngày 8 tháng 5 năm 1955, chính quyền huyện An Lão chính thức ra mắt người dân. Theo kế hoạch 5 năm đầu tiên, vào ngày 27 tháng 10 năm 1962, Quốc hội khóa II đã thông qua nghị quyết hợp nhất thành phố Hải Phòng với tỉnh Kiến An, tạo thành thành phố Hải Phòng, và An Lão trở thành một huyện của thành phố từ đó.
Ngày 4 tháng 4 năm 1969, An Lão được hợp nhất với Kiến Thụy thành An Thụy. Sau đó, vào năm 1980, theo Quyết định số 71/QĐ-CP của Hội đồng Chính phủ, 16 xã cũ của An Lão được sáp nhập vào thị xã Kiến An, tạo thành huyện Kiến An.
Ngày 8 tháng 8 năm 1988, huyện An Lão được tái lập theo Quyết định số 100/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng. Khi tái lập, huyện An Lão có 16 xã: An Thái, An Thắng, An Thọ, An Tiến, Bát Trang, Chiến Thắng, Mỹ Đức, Quang Hưng, Quang Trung, Quốc Tuấn, Tân Dân, Tân Viên, Thái Sơn, Trường Sơn, Trường Thành, và Trường Thọ.
Vào ngày 23 tháng 11 năm 1993, thị trấn An Lão được thành lập và trở thành thị trấn huyện lị của huyện An Lão, bao gồm khu vực của các xã An Tiến, An Thắng và Quốc Tuấn.
Ngày 5 tháng 4 năm 2007, xã Trường Sơn được nâng cấp thành thị trấn Trường Sơn.
Hiện nay, huyện An Lão bao gồm 2 thị trấn và 15 xã.
Hành chính
Huyện An Lão có tổng cộng 17 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 2 thị trấn: An Lão (huyện lỵ) và Trường Sơn, cùng với 15 xã: An Thái, An Thắng, An Thọ, An Tiến, Bát Trang, Chiến Thắng, Mỹ Đức, Quang Hưng, Quang Trung, Quốc Tuấn, Tân Dân, Tân Viên, Thái Sơn, Trường Thành, và Trường Thọ.
Đường phố
- Cao Sơn
- Hoàng Thiết Tâm
- Hoàng Xá
- Lê Lợi
- Lương Khánh Thiện
- Ngô Quyền
- Nguyễn Chuyên Mỹ
- Nguyễn Kim
- Nguyễn Trọng Hòe
- Nguyễn Văn Trỗi
- Phan Hiền
- Trần Tảo
- Trần Tất Văn
- Trần Thị Trinh
- Văn Quang
- Văn Xuân
- Vương Công Hiền
- Xuân Áng
Kinh tế
- Huyện An Lão sở hữu khu công nghiệp An Tràng và nhiều cụm công nghiệp dọc quốc lộ 10.
- Nông nghiệp và ngành tiểu thủ công nghiệp đóng vai trò chủ chốt trong nền kinh tế địa phương.
- Du lịch nổi bật với Núi Voi.
- Làng nghề đặc trưng bao gồm mây tre đan ở Tiên Cầm và hoa, cây cảnh ở Mông Thượng.
- Sản phẩm nổi bật như chè Chi Lai.
- Thuốc lào từ Cao Mật, An Lão, Hải Phòng.
Làng nghề
An Lão có ít làng nghề và làng có nghề, với sản xuất nông nghiệp gắn bó mật thiết với người dân. Giá trị từ các làng nghề và nghề truyền thống còn chưa phát huy hết tiềm năng, đặc biệt là về vị trí địa lý. Các nghề dịch vụ cũng chưa phát triển nhiều so với các khu vực khác ở đồng bằng sông Hồng. Ngay cả ở các xã phát triển như Quang Trung, Quốc Tuấn, An Tiến và Mỹ Đức, nhóm nghề dịch vụ, kinh doanh và tiểu thủ công nghiệp vẫn chưa có sự phát triển mạnh mẽ. Các làng nghề và nghề phụ trong huyện bao gồm:
- Làng hoa cây cảnh Mông Thượng (Chiến Thắng)
- Nghề sản xuất thuốc lào ở Cao Mật (An Thọ)
- Chế tác đá tại Phương Chử Đông (Trường Thành)
- Trồng rau thủy canh ở Lang Thượng (Mỹ Đức)
- Nghề làm nem chua, nem nắm ở Nam Sơn (An Thọ)
- Làm vàng mã tại Đâu Kiên (Quốc Tuấn)
- Quất cảnh tại thôn Lương Câu (Tân Viên)
- Mây tre đan, vàng mã ở Tiên Cầm (An Thái)
- Chế tác đá tại thôn Khúc Giản (An Tiến)
- Trồng lương thực, rau củ vụ đông, chăn nuôi và lao động trong và ngoài nước...
Giao thông
Huyện An Lão được kết nối qua quốc lộ 10 và đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng.
.jpg/100px-Statue_of_Madam_Lê-Chân_in_Haiphong_City_(1).jpg)
Đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc thành phố Hải Phòng |
---|
Xã, thị trấn thuộc huyện An Lão, thành phố Hải Phòng |
---|