Murray tại Úc Mở rộng 2015 | |
Tên đầy đủ | Andrew Barron Murray |
---|---|
Quốc tịch | Anh Quốc |
Nơi cư trú | Luân Đôn, Anh, Vương quốc Anh |
Sinh | 15 tháng 5, 1987 (37 tuổi) Dunblane, Scotland, Vương quốc Anh |
Chiều cao | 1,91 m |
Lên chuyên nghiệp | 2005 |
Tay thuận | Tay phải, trái tay hai tay |
Tiền thưởng | 62,009,732 USD |
Đánh đơn | |
Thắng/Thua | 680/204 |
Số danh hiệu | 46 |
Thứ hạng cao nhất | 1 (7.11.2016) |
Thứ hạng hiện tại | 105 (04.8.2021) |
Thành tích đánh đơn Gland Slam | |
Úc Mở rộng | CK (2010, 2011, 2013, 2015, 2016) |
Pháp mở rộng | CK (2016) |
Wimbledon | VĐ (2013, 2016) CK 2012 |
Mỹ Mở rộng | VĐ (2012) CK 2008 |
Thế vận hội | Huy chương vàng (2012, 2016) |
Đánh đôi | |
Thắng/Thua | 45/54 |
Số danh hiệu | 3 |
Thứ hạng cao nhất | 51 (10.2011) |
Thứ hạng hiện tại | 154 (8.2021 |
Sir Andrew Barron Murray (sinh ngày 15 tháng 5 năm 1987), thường được gọi là Andy Murray, là một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp người Scotland, Vương quốc Anh.
Năm 2005, Andy giành được giải Nhân vật thể thao Scotland trong năm của BBC (BBC Scotland Sports Personality of the Year).
Trước đây, anh từng được huấn luyện bởi huấn luyện viên Brad Gilbert và Amélie Mauresmo.
Murray đại diện cho Vương quốc Anh trong các hoạt động thể thao của anh ấy và là người chiến thắng giải đấu Grand Slam ba lần, vô địch Thế vận hội hai lần, vô địch Davis Cup, người chiến thắng trong Chung kết ATP World Tour 2016, và cựu số 1 thế giới.
Murray đã đánh bại Novak Djokovic trong trận chung kết US Open 2012, trở thành cầu thủ người Anh đầu tiên kể từ năm 1977 và là người nam Anh đầu tiên kể từ năm 1936, để giành chiến thắng trong một giải đấu đơn Grand Slam. Murray cũng là người nam Anh đầu tiên giành được nhiều danh hiệu đơn Wimbledon kể từ Fred Perry năm 1936, chiến thắng giải đấu năm 2013 và 2016.
Murray là người giành huy chương vàng Thế vận hội mùa hè 2012 và 2016 đơn nam, khiến anh trở thành tay vợt duy nhất, dù là nam hay nữ, đã giành được hai danh hiệu đơn Olympic. Anh ấy đã góp mặt trong đội giành cúp Davis Cup của Anh năm 2015, thắng 11-0 trong các trận đấu của anh ấy (8 đơn và 3 đôi) khi họ bảo vệ danh hiệu Davis Cup đầu tiên của họ kể từ năm 1936.
Tuổi thơ
Anh bắt đầu chơi quần vợt từ khi mới 3 tuổi. Mẹ anh, bà Judy là một cựu tay vợt của Scotland và cha anh là ông William. Anh có một anh trai là Jamie Murray cũng là một tay vợt nhưng thường thi đấu ở thể loại đánh đôi.
Murray từng là học sinh của trường tiểu học Dunblane từ năm 1992 đến năm 1999. Năm 1999, anh học ở trường trung học Dunblane. Năm 11 đến 13 tuổi, Andy là thành viên của 3 đội quần vợt nhỏ tuổi tại câu lạc bộ Next Generation ở Newhaven, Edinburgh - nơi anh thi đấu thường xuyên. Vào tuổi 14, Murray đến Barcelona ở Tây Ban Nha, nơi anh đã học trường Schiller International và tập luyện trên mặt sân đất nện của học viện Sanchez-Casal, nơi mà anh được cho biệt danh 'Lazy English' (người Anh lười). Murray giành giải nam trẻ tại US Open năm 2004 và tốt nghiệp sau đó một năm.
Sự nghiệp
2005
Tháng 3 năm 2005, lần đầu tiên Andy được gọi vào đội tuyển Davis Cup của Anh và trở thành tay vợt trẻ tuổi nhất của Anh tham dự Davis Cup. Murray và David Sherwood đã thắng cặp đôi của Israel - lúc đó đang đứng thứ 8 thế giới, vào đến bán kết Wimbledon năm 2003, giúp đội tuyển giành chiến thắng 3-2.
Tay vợt người Anh này vào đến bán kết giải trẻ Pháp mở rộng, để thua tay vợt người Croatia Marin Cilic. Điều này chứng tỏ đây là bước đột phá cuối cùng của anh tại giải trẻ Grand Slam.
Murray tham gia hầu hết tất cả các kết quả ATP tour đều đến từ mặt sân cỏ và mặt sân cứng, mặc dù anh thích chơi trên sân đất nện.
- Wimbledon 2005
Anh đã đánh bại tay vợt xếp trên anh 150 bậc trong trận đấu Grand Slam đầu tiên lúc đó Murray đứng thứ 374 thế giới. Ở vòng 2, Andy thắng hạt giống thứ 14 Radek Štěpánek và chịu thua David Nalbandian ở vòng 3.
- Mỹ mở rộng 2005
Tại đây Murray phải thi đấu vòng loại. Ở vòng 1, Murray đánh bại tay vợt người România Andrei Pavel trong 5 set đấu căng thẳng. Sau đó thua Arnaud Clement cũng trong 5 set. Đó là cú sốc cho Andy, nếu anh thắng trận đấu đó anh đã lọt vào top 100 lần đầu tiên trong đời.
- Thái Lan mở rộng
Vào ngày 29 tháng 9, Andy lọt vào top 100 thế giới sau khi đánh bại Robin Soderling tại giải Thái Lan mở rộng. Sau đó, anh thắng Robby Ginepri và tiến vào chung kết lần đầu tiên sau khi vượt qua Paradorn Srichaphan ở bán kết. Andy để thua Roger Federer ở chung kết nhưng vẫn trở thành tay vợt thứ 72 thế giới.
2006
Murray bắt đầu mùa giải 2006 bằng việc bị loại ở vòng 2 trong hai giải đấu và sau đó thua Juan Ignacio Chela ở vòng một Úc mở rộng trong lần đầu tiên tham dự. Giải SAP Mở rộng đã mang về danh hiệu ATP đầu tiên trong sự nghiệp cho Andy, sau khi anh đánh bại cả hai cựu số 1 thế giới là Andy Roddick và Lleyton Hewitt. Andy vào tứ kết giải Memphis nhưng không duy trì được phong độ, để thua ngay ở vòng 1 tại sáu trong chín giải tham dự bao gồm cả Giải Pháp mở rộng và giải Queen's Club.
Tại Wimbledon, Andy vào tới vòng 4 ngay trong lần đầu tham dự. Sau đó, Murray còn lọt vào bán kết Hall of Fame Championship ở Newport và chung kết Legg Mason Classic tại Washington. Là thành viên của đội tuyển Anh tham dự Davis Cup, Andy đánh bại Andy Ram của Israel - đây là lần thứ hai anh giành chiến thắng trong trận đấu kéo dài 5 set.
Phong độ của Andy ngày càng được cải thiện, anh vào bán kết Toronto Master. Ở giải đấu tiếp theo - giải Cincinnati, Murray vào tứ kết nhưng thất bại trước Andy Roddick. Trước đó, anh đã đánh bại tay vợt số 1 thế giới Roger Federer và trở thành một trong hai tay vợt đánh bại được Roger trong năm 2006. Giải Grand Slam cuối cùng trong năm, Andy lại vào vòng 4 nhưng dừng bước trước tay vợt người Nga Nikolay Davydenko sau 4 set.
Cảm giác thất vọng sau khi để thua đồng hương Tim Henman tại giải Thái Lan mở rộng được giảm bớt khi Andy và anh trai Jamie vào đến chung kết đôi.
Với những thành công trong năm 2006, Andy kết thúc mùa giải với thứ hạng 17.
2007
Tại Giải Úc Mở rộng, Murray được xếp hạng hạt giống số 15. Ở vòng 1, anh đánh bại Alberto Martín của Tây Ban Nha với tỷ số 6–0, 6–0, 6–1, đây cũng là chiến thắng áp đảo nhất từ năm 1968. Đối thủ của anh ở vòng 4 là tay vợt số 2 thế giới Rafael Nadal, đây là lần đầu tiên họ gặp nhau. Dẫn trước 2-1, Murray rồi thua Nadal với tỷ số 6(3)-7(7), 6–4, 4–6, 6–3, 6–1. Sau trận đấu, Murray nhận xét đây là một trong những trận đấu hay nhất của anh từ trước đến nay.
Andy Murray bảo vệ thành công danh hiệu tại San Jose, đánh bại Ivo Karlovic 6–7 (3–7), 6–4, 7–6 (7–2) trong trận chung kết. Anh trai của Murray, Jamie cũng giành danh hiệu đôi tại giải đấu này. Hai anh em trở thành cặp anh em đầu tiên từ năm 1989 giành danh hiệu đơn và đôi trong cùng một giải đấu.
Murray vào bán kết hai giải đấu tiếp theo là Indian Wells Masters và Miami Masters. Cả hai lần anh đều dừng bước trước Novak Djokovic. Tuy nhiên, Murray vẫn leo lên vị trí thứ 11 trên bảng xếp hạng thế giới.
2008
Murray khởi đầu mùa giải 2008 với danh hiệu thứ 4 trong sự nghiệp tại giải Qatar ExxonMoblie Open. Thắng hạt giống số 1 và hạng 4 thế giới Nikolay Davydenko 6-4 6-3 ở bán kết, Murray tự tin vào chung kết và đánh bại tay vợt Thụy Sĩ Stanislas Wawrinka 6-4 4-6 6-2. Danh hiệu tại Qatar giúp Andy vào top 10 thế giới.
Andy Murray là hạt giống số 9 tại giải quần vợt Úc mở rộng. Ngược lại với dự đoán của nhiều người, Andy phải dừng bước từ vòng 1 khi thua tay vợt người Pháp Jo-Wilfried Tsonga 7-5, 6-4, 0-6, 7-6.
Sau khi thất bại ở vòng 1 Giải quần vợt Úc Mở rộng, Murray gặp chấn thương ở đầu gối và phải rút tên khỏi đội tuyển Anh tham dự Davis Cup.
Đầu tháng 2, Murray tham dự giải Open 13 tại Marseille, Pháp. Dù dính chấn thương đầu gối, anh vẫn vào chung kết và đánh bại cựu số 7 thế giới, Mario Ancic với tỷ số 6-3, 6-4. Danh hiệu tại Marseille là danh hiệu thứ 2 trong năm của Murray và thứ 5 trong sự nghiệp.
Giải ABN Amro Tournament tại Rotterdam, hạt giống số 6 - Andy Murray bị loại ngay từ vòng đầu khi thua tay vợt chủ nhà Robin Haase.
Không được xếp hạng tại giải Dubai Tennis Championship, Murray đụng độ tay vợt số 1 thế giới Roger Federer. Murray là một trong số ít tay vợt có thành tích tốt hơn so với Federer khi thắng 7-6(6), 3-6, 4-6. Anh dừng bước ở tứ kết khi thua Davydenko 7-5, 6-4.
Giải Master Series đầu tiên trong năm, Indian Wells, Murray không lặp lại thành tích của năm trước khi bị loại ở vòng 4 trước tay vợt người Đức Tommy Haas 6-2 5-7 3-6. Giải Sony Ericsson Open tại Miami, Murray thua Mario Ancic ở vòng hai, khiến anh rớt khỏi top 20 bảng xếp hạng ATP.
Để cải thiện kết quả trên mặt đất nện, Murray bắt đầu hợp tác với cựu á quân Pháp Mở rộng Alex Corretja. Dưới sự chỉ dạy của Corretja, Murray chỉ vào vòng 3 của giải đấu.
Mùa giải trên sân cỏ bắt đầu với Andy Murray tại Queen's Club Championships. Anh dừng bước ở tứ kết vì chấn thương cổ tay. Tại Wimbledon, với hạt giống số 12, Murray đánh bại Fabrice Santoro, Xavier Malisse và Tommy Hass trước khi ngược dòng thành công trước Richard Gasquet với tỷ số 5–7, 3–6, 7–6(3), 6–2, 6–4. Tuy nhiên, anh bị Rafael Nadal đánh bại ở tứ kết với tỷ số 6–3, 6–2, 6–4.
Trên sân cứng, Murray vào bán kết Toronto Masters sau khi đánh bại lần đầu tiên Novak Djokovic, nhưng lại thua Nadal lần thứ hai liên tiếp. Anh giành danh hiệu Masters Series đầu tiên tại Cincinnati Masters sau khi đánh bại Djokovic 7-6(4), 7-6(5).
Cùng với anh trai Jamie, Andy Murray tham dự Olympic Bắc Kinh 2008. Bất ngờ xảy ra khi Murray, hạt giống số sáu, bị loại ngay ở vòng một. Ở nội dung đánh đôi, anh em Murray cũng sớm dừng bước tại vòng hai.
Tại Mỹ Mở rộng 2008, Andy Murray có màn lội ngược dòng ngoạn mục khi đánh bại Jurgen Melzer với tỷ số 6-7(5), 4-6, 7-6(5), 6-1, 6-3 để tiến vào vòng bốn. Ở bán kết, Murray đụng độ Rafael Nadal, người từng đánh bại anh năm lần trước đó, nhưng lần này là Murray giành chiến thắng với tỷ số 6–2, 7–6(5), 4–6, 6–4. Murray trở thành tay vợt đầu tiên của Vương quốc Anh vào chung kết một giải Grand Slam kể từ khi Greg Rusedski làm được điều này tại Mỹ Mở rộng năm 1997. Mặc dù thua Roger Federer trong trận chung kết, Murray vẫn leo lên vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng thế giới.
Với tư cách hạt giống thứ 4, Andy Murray được miễn thi đấu vòng một tại Madrid Masters. Sau khi đối thủ Simone Bolelli bỏ cuộc do chấn thương vai, Murray dễ dàng đi tiếp. Anh đánh bại Marin Cilic và Gael Monfils mà không để thua set nào. Murray vào bán kết và gặp lại Roger Federer trong trận chung kết Mỹ Mở rộng 2008. Sau ba set căng thẳng, Murray giành chiến thắng 3-6, 6-3, 7-5. Với phong độ cao, anh vượt qua tay vợt người Pháp Gilles Simon 6–4, 7–6 (8-6) để giành danh hiệu Master Series thứ hai liên tiếp. Murray trở thành tay vợt Anh đầu tiên giành 4 danh hiệu trong cùng một mùa giải.
2011
Andy Murray tham gia Australia Open 2011 và lọt vào chung kết lần thứ hai liên tiếp, nhưng sức ép từ người hâm mộ xứ sương mù đã ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý thi đấu của anh. Murray cuối cùng phải gác vợt nhanh chóng trước Novak Djokovic. Thất bại này là một cú sốc lớn với tham vọng và tinh thần thi đấu của Murray, và từ đó anh bắt đầu chuỗi trận thua liên tiếp ở các giải ABN Amro Tournament tại Rotterdam, Indian Wells và Miami. Tuy nhiên, người hâm mộ vẫn luôn cổ vũ và hy vọng vào sự trở lại mạnh mẽ của anh ở những giải đấu tiếp theo.
Andy Murray tham dự các giải đấu vào năm 2012.
Năm 2012 là một năm đặc biệt thành công của Andy Murray. Sau khi thua đau đớn tại chung kết Wimbledon 2012 trên sân nhà trước Roger Federer, anh đã lập kỷ lục giành Huy chương Vàng Olympic London cho Vương quốc Anh và chỉ hơn một tháng sau đó, anh đã chiến thắng trận chung kết Mỹ Mở rộng 2012 trước Novak Djokovic với tỷ số 3-2, giành Grand Slam đầu tiên trong sự nghiệp. Người hâm mộ hy vọng đây sẽ là bước đột phá để Andy Murray tiếp tục đạt được nhiều thành công mới trong những năm sau.
Andy Murray tham gia các giải đấu vào năm 2013.
Andy Murray đã trở thành tay vợt nam đầu tiên của Vương quốc Anh trong 77 năm giành chức vô địch Wimbledon sau khi đánh bại Djokovic với tỷ số 3-0 (6-4, 7-5, 6-4) trong trận chung kết.
Andy Murray tham gia các giải đấu vào năm 2015.
Năm 2015, Andy Murray có một mùa giải thi đấu khá tốt. Anh lọt vào chung kết Australia Open nhưng để thua Novak Djokovic sau 4 set. Anh dừng bước ở tứ kết của cả Roland Garros và Wimbledon. Tại US Open, anh thua Djokovic ở bán kết. Điểm đặc biệt của Andy Murray trong năm 2015 là anh giành chức vô địch Davis Cup cùng đội tuyển Vương Quốc Anh. Anh chiến thắng 2 trận đơn gặp các tay vợt Bỉ và 1 trận đôi cùng với anh trai Jamie Murray. Andy Murray cũng lần đầu tiên kết thúc một mùa giải với vị trí số 2 trên bảng xếp hạng ATP.
Năm 2016, Andy Murray tham gia các giải đấu.
Năm 2016 là một năm thành công đối với Andy Murray sau khi giành chức vô địch Davis Cup. Anh thi đấu xuất sắc tại Australian Open và lọt vào trận chung kết, nhưng lại để thua Novak Djokovic. Trước Roland Garros, anh giành chức vô địch tại Rome Master sau khi đánh bại Djokovic trong trận chung kết. Tại Wimbledon, Murray vượt qua Milos Raonic để giành danh hiệu Grand Slam thứ 3 trong sự nghiệp.
Andy Murray đã giành huy chương vàng tại môn quần vợt Thế vận hội Mùa hè 2016.
Thành tích của Andy Murray trong năm 2016.
Vô địch đơn hoặc Chung kết đơn
|
|
Giải đấu | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | 2009 | 2010 | 2011 | 2012 | 2013 | 2014 | 2015 | 2016 | 2017 | 2018 | 2019 | 2020 | 2021 | SR | Thắng/Thua | Tỷ lệ thắng |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Australian Open | Vắng mặt | Vòng 1 | Vòng 4 | Vòng 1 | Vòng 4 | Chung kết | Chung kết | Bán kết | Chung kết | Tứ kết | Chung kết | Chung kết | Vòng 4 | Vắng mặt | Vòng 1 | Vắng mặt | Vắng mặt | 0/13 | 48-13 | 79% |
French Open | Vắng mặt | Vòng
1 |
Vắng mặt | Vòng 3 | Tứ kết | Vòng 4 | Bán kết | Tứ kết | Vắng mặt | Bán kết | Bán kết | Chung kết | Bán kết | Vắng mặt | Vắng mặt | Vòng 1 | Vắng mặt | 0/11 | 39-11 | 78% |
Wimbledon | Vòng 3 | Vòng 4 | Vắng mặt | Tứ kết | Bán kết | Bán kết | Bán kết | Chung kết | Vô địch | Tứ kết | Bán kết | Vô địch | Tứ kết | Vắng mặt | Vắng mặt | Không tổ chức | Vòng 3 | 2/13 | 59/11 | 84% |
US Open | Vòng 2 | Vòng 4 | Vòng 3 | Chung kết | Vòng 4 | Vòng 3 | Bán kết | Vô địch | Tứ kết | Tứ kết | Vòng 4 | Tứ kết | Vắng mặt | Vòng 2 | Vắng mặt | Vòng 2 | 1/14 | 46/13 | 78% | |
Thắng - Thua | 3-2 | 6-4 | 5-2 | 12-4 | 15-4 | 16-4 | 21-4 | 22-3 | 17-2 | 17-4 | 19-4 | 23-3 | 12-3 | 1-1 | 0-1 | 1-2 | 2-1 | 3/51 | 192/48 | 80% |
TT | Ngày | Giải đấu | Mặt sân | Đối thủ | Tỉ số |
---|---|---|---|---|---|
1. | 19 tháng 2 năm 2006 | San Jose, Hoa Kỳ | Cứng(i) | Lleyton Hewitt | 2–6, 6–1, 7–6 |
2.
|
18 tháng 2 năm 2007 | San Jose, Hoa Kỳ | Cứng(i) | Ivo Karlović | 6–7, 6–4, 7–6 |
3. | 28 tháng 10 năm 2007 | St. Petersburg, Nga | Thảm(i) | Fernando Verdasco | 6–2, 6–3 |
4. | 5 tháng 1 năm 2008 | Doha, Qatar | Cứng | Stanislas Wawrinka | 6–4, 4–6, 6–2 |
5. | 17 tháng 2 năm 2008 | Marseille, Pháp | Cứng(i) | Mario Ancic | 6–3, 6–4 |
6. | 3 tháng 8 năm 2008 | Cincinati, Hoa Kỳ | Cứng | Novak Djokovic | 7–6(4), 7–6(5) |
7. | 19 tháng 10 năm 2008 | Madrid, Tây Ban Nha | Cứng(i) | Gilles Simon | 6–4, 7–6(6) |
8. | 26 tháng 10 năm 2008 | Sankt Petersburg, Nga | Cứng(i) | Andrey Golubev | 6–1, 6–1 |
9. | 5 tháng 1 năm 2009 | Doha, Qatar | Cứng | Andy Roddick | 6-4, 6-2 |
10. | 9 tháng 2 năm 2009 | Rotterdam, Hà Lan | Cứng(i) | Rafael Nadal | 6-3, 4-6, 6-0 |
11. | 5 tháng 4 năm 2009 | Miami, Hoa Kỳ | Cứng | Novak Djokovic | 6–2, 7–5 |
12. | 8 tháng 6 năm 2009 | London, Anh | Cỏ | James Blake | 7-5, 6-4 |
13. | 16 tháng 8 năm 2009 | Montreal, Canada | Cứng | Juan Martín del Potro | 6–7(4), 7–6(3), 6–1 |
14. | 8 tháng 11 năm 2009 | Valencia, Tây Ban Nha | Cứng(i) | Mikhail Youzhny | 6–3, 6–2 |
15. | 15 tháng 8 năm 2010 | Toronto, Canada | Cứng | Roger Federer | 7–5, 7–5 |
16. | 17 tháng 10 năm 2010 | Thượng Hải, Trung Quốc | Cứng | Roger Federer | 6–3, 6–2 |
Á quân đơn
TT | Ngày | Giải đấu | Mặt sân | Đối thủ ở vòng chung kết | Điểm số |
---|---|---|---|---|---|
1. | 1 tháng 10 năm 2005 | Bangkok, Thái Lan | Cứng (i) | Roger Federer | 3–6, 5–7 |
2. | 6 tháng 8 năm 2006 | Washington, Hoa Kỳ | Cứng | Arnaud Clement | 6–7(4), 2–6 |
3. | 6 tháng 1 năm 2007 | Doha, Qatar | Cứng | Ivan Ljubičić | 6-4 6-4 |
4. | 7 tháng 10 năm 2007 | Metz, Pháp | Cứng (i) | Tommy Robredo | 6–0, 2–6, 3–6 |
5. | 8 tháng 9 năm 2008 | Mỹ Mở rộng, New York, Hoa Kỳ | Cứng | Roger Federer | 2–6, 5–7, 2–6 |
6. | 22 tháng 3 năm 2009 | Indian Wells, Hoa Kỳ | Cứng | Rafael Nadal | 1–6, 2–6 |
7. | 8 tháng 9 năm 2009 | Úc Mở rộng, Úc | Cứng | Roger Federer | 3–6, 4–6, 6–7(11) |
8. | 1 tháng 8 năm 2010 | Los Angeles, Hoa Kỳ | Cứng | Sam Querrey | 7–5, 6–7(2), 3–6 |
Giải Grand Slam
Vô địch (3 lần)
Năm | Giải đấu | Đối thủ | Tỉ số |
2012 | Mỹ mở rộng | Novak Djokovic | 7-6, 7-5, 2-6, 3-6, 6-2 |
2013 | Wimbledon | Novak Djokovic | 6-4, 7-5, 6-4 |
2016 | Wimbledon | Milos Raonic | 6-4, 7-6, 7-6 |
Á quân (8 lần)
Năm | Giải đấu | Đối thủ | Tỉ số |
2008 | Mỹ Mở rộng | Roger Federer | 2–6, 5–7, 2–6 |
2010 | Úc Mở rộng | Roger Federer | 3–6, 4–6, 6–7 |
2011 | Úc Mở rộng | Novak Djokovic | 4–6, 2–6, 3–6 |
2012 | Wimbledon | Roger Federer | 6–4, 5–7, 3–6, 4-6 |
2013 | Úc Mở rộng | Novak Djokovic | 7–6(2), 6(3)–7, 3–6, 2–6 |
2015 | Úc mở rộng | Novak Djokovic | 6-7 (2-7), 7-6 (7-3), 3-6, 0-6 |
2016 | Úc mở rộng | Novak Djokovic | 1-6, 5-7, 6-7(3) |
2016 | Pháp mở rộng | Novak Djokovic | 6-3, 1-6, 2-6, 4-6 |
Giải ATP World Tour 1000
Vô địch (14 lần)
Năm | Giải đấu | Đối thủ | Tỉ số |
2008 | Cincinnati Masters | Novak Djokovic | 7–6, 7–6 |
2008 | Madrid Masters | Gilles Simon | 6–4, 7–6 |
2009 | Miami Masters | Novak Djokovic | 6-2,7-5 |
2009 | Montreal | Juan Martin Del Potro | 6-7,7-6,6-1 |
2010 | Roger cup (Toronto) | Roger Federer | 7-5,7-5 |
2010 | Shanghai Rolex Master | Roger Federer | 6-3, 6-2 |
2011 | Cincinnati Masters | Novak Djokovic | 6-4, 3-0 (RET) |
2011 | Shanghai Rolex Master | David Ferrer | 7-5, 6-4 |
2013 | Miami Masters | David Ferrer | 2-6, 6-4, 7-6(1) |
2015 | Madrid | Rafael Nadal | 6-3, 6-2 |
2015 | Montreal | Novak Djokovic | 6–4, 4-6, 6-3 |
2016 | Rome | Novak Djokovic | 6-3, 6-3 |
2016 | Shanghai Rolex Master | Roberto Bautista Agut | 7-6(1), 6-1 |
2016 | Paris | John Isner | 6-3, 6-7(4), 6-4 |
Á quân (7 lần)
Năm | Giải đấu | Đối thủ | Tỉ số |
2009 | Indian Wells | Rafael Nadal | 1–6, 2–6 |
2012 | Miami Masters | Novak Djokovic | 1-6, 6-7(4) |
2012 | Shanghai Rolex Master | Novak Djokovic | 7-5, 6-7(11), 3-6 |
2015 | Miami Masters | Novak Djokovic | 6-7, 6-4, 0-6 |
2015 | Paris | Novak Djokovic | 2-6, 4-6 |
2016 | Madrid | Novak Djokovic | 2-6, 6-3, 3-6 |
2016 | Cincinnati Masters | Marin Čilić | 4-6, 5-7 |
Á quân đôi (1 lần)
TT | Ngày | Giải đấu | Mặt sân | Đồng đội | Đối thủ ở vòng chung kết | Điểm số |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 1 tháng 10 năm 2006 | Bangkok, Thái Lan | Trong nhà | Jamie Murray | Jonathan Erlich & Andy Ram |
6-2 2-6 10-4 |
2 | 2013 | Canada master | Ngoài trời | Colin Fleming | [[Alexander Peya| Alexander Peya]]
Bruno Soares |
2-6, 6-7(3) |
Thế vận hội
Lọt vào chung kết 3 lần (2 huy chương vàng: đơn nam 2012, đơn nam 2016; 1 huy chương bạc: kết hợp đôi nam-nữ 2012)
Đơn nam: 2 lần (2–0)
Kết quả | Năm | Giải đấu | Mặt sân | Đối thủ | Tỷ số |
---|---|---|---|---|---|
HC Vàng | 2012 | Thế vận hội Mùa hè (London) | Sân cỏ | Roger Federer | 6–2, 6–1, 6–4 |
HC Vàng | 2016 | Thế vận hội Mùa hè (Rio) | Sân cứng | Juan Martín del Potro | 7–5, 4–6, 6–2, 7–5 |
Kết hợp đôi: 1 lần (0–1)
Kết quả | Năm | Giải đấu | Mặt sân | Đồng bạn | Đối thủ | Tỷ số |
---|---|---|---|---|---|---|
HC Bạc | 2012 | Thế vận hội Mùa hè (London) | Sân cỏ | Laura Robson | Victoria Azarenka Max Mirnyi |
6–2, 3–6, [8–10] |
Các Giải Đấu
Giải đấu | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | Career SR | Thắng / thua |
---|---|---|---|---|---|---|
Úc Mở rộng | A | V1 | V4 | V1 | 0 / 3 | 3-3 |
Pháp Mở rộng | A | V1 | A | V3 | 0 / 2 | 2-2 |
Wimbledon | V3 | V4 | A | TK | 0 / 3 | 9-3 |
Mỹ Mở rộng | V2 | V4 | V3 | CK | 0 / 4 | 12-4 |
Grand Slam SR | 0 / 2 | 0 / 4 | 0 / 2 | 0 / 4 | 0 / 12 | N/A |
Grand Slam thắng thua | 3-2 | 6-4 | 5-2 | 12-4 | N/A | 20-11 |
Tennis Masters Cup | A | A | A | 0 / 0 | 0-0 | |
Indian Wells Masters | A | V2 | BK | V4 | 0 / 3 | 7-3 |
Miami Masters | A | V1 | BK | V2 | 0 / 3 | 4-3 |
Monte Carlo Masters | A | V1 | A | V3 | 0 / 1 | 0-1 |
Rome Masters | A | V1 | V1 | V2 | 0 / 2 | 0-2 |
Hamburg Masters | A | V2 | V1 | V3 | 0 / 2 | 1-2 |
Canada Masters | A | BK | V2 | BK | 0 / 3 | 8-3 |
Cincinnati Masters | V2 | TK | V1 | T | 1 / 4 | 10-3 |
Madrid Masters (Stuttgart) | A | V3 | V3 | T | 1 / 3 | 10-2 |
Paris Masters | A | V3 | TK | 0 / 2 | 3-2 | |
Danh hiệu | 0 | 1 | 2 | 4 | N/A | 7 |
Thắng / Thua trên sân cứng | 7-4 | 26-14 | 25-7 | 14-5 | N/A | 83-35 |
Thắng / Thua trên sân cỏ | 5-3 | 9-4 | 0-0 | 6-1 | N/A | 20-8 |
Thắng / Thua trên sân thảm | 2-1 | 1-2 | 0-0 | 0-0 | N/A | 3-3 |
Thắng / Thua trên sân đất nện | 0-2 | 4-5 | 0-2 | 7-5 | N/A | 11-14 |
Thắng / Thua | 14-10 | 40-25 | 29-10 | 27-11 | N/A | 124–60 |
Xếp hạng cuồi năm | 63 | 17 | 11 | N/A | N/A |
- A: không tham dự giải Career SR: tỷ lệ số lần thắng trên số lần tham dự