>> Những bài văn Phân tích Chữ người tử tù xuất sắc, đạt điểm 10
1. Mẫu số 1
2. Mẫu số 2
3. Mẫu số 3
4. Mẫu số 4
4 Bài văn mẫu Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù
1. Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù, mẫu số 1:
Một tác phẩm không chỉ xuất sắc với nội dung hấp dẫn mà còn đậm chất nghệ thuật đặc sắc. Các yếu tố nghệ thuật như ngôn ngữ đặc trưng, cốt truyện độc đáo, và sử dụng ánh sáng, bóng tối đã tạo nên thành công cho Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ. Cả hai tác phẩm đều có cách sử dụng nghệ thuật này một cách khéo léo và sáng tạo.
Trong Chữ người tử tù, nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối đặc sắc hiện rõ trong miêu tả cảnh Huấn Cao cho viên quan ngục. Nghệ thuật này không chỉ tạo nên giá trị biểu đạt độc đáo cho cảnh tượng mà còn làm cho đó trở thành một trong những đoạn miêu tả đáng nhớ nhất của tác phẩm.
Về đầu tiên là ánh sáng trong đoạn đó. Trong cảnh viết chữ ấy, chỉ có một đuốc nhỏ soi sáng căn phòng. Ánh sáng này không rực rỡ, chỉ đủ để Huấn Cao nhìn rõ và viết chữ tặng người quản ngục.
Bóng tối dày đặc, không chỉ tạo sự tương phản giữa không gian cho chữ và không gian nhà tù, giữa người viết chữ và người nhận chữ mà còn làm nổi bật sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối. Không gian bóng tối chứa đựng những điều kinh hoàng, nhưng Nguyễn Tuân biến đẹp từ bóng tối để thể hiện sự thức tỉnh của con người trước cuộc sống hỗn loạn.
Nghệ thuật miêu tả ánh sáng và bóng tối hiện rõ trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam, đặc biệt là trong cảnh chợ tàn. Hình ảnh phố huyện như một miền quê bị lụi tàn nổi lên với những cảnh chiều buông xuống đầy u ám. Khi đêm buông xuống, chợ tàn trở nên thêm u tối. Thạch Lam tận dụng ánh sáng để kể về bóng tối, tạo ra hình ảnh đẹp mê hồn dù chỉ qua vài câu văn.
Trong tác phẩm này, nghệ thuật miêu tả bóng tối và ánh sáng đặc biệt rõ ràng ở đoạn cuối khi tàu đêm đến. Ánh sáng của đoàn tàu với những tia lửa như chớp và ánh sáng rực trên những khoa hạng sang tạo ra bức tranh sống động. Nhưng khi ánh sáng qua đi, phố huyện lại chìm trong bóng tối.
Nghệ thuật cao hóa biểu thị nội dung của tác phẩm là điểm đặc biệt. Cả hai tác phẩm sử dụng ánh sáng và bóng tối để truyền đạt ý nghĩa nội dung. Cảnh viết chữ trong ánh sáng bóng tối nhấn mạnh sự thăng hoa và gần gũi giữa con người, trong khi Hai đứa trẻ sử dụng nghệ thuật để tả sự tối tăm của cuộc sống ở phố huyện, kể về nghèo đói, khổ cực, và sự cầm cự sống.
Tuy nhiên, hai nhà văn có cách sử dụng nghệ thuật khác nhau để diễn đạt ý nghĩa cá nhân.
Nguyễn Tuân tập trung vào bóng tối để làm nổi bật ánh sáng của ngọn đuốc, biểu hiện sự thăng hoa và sức mạnh của cái đẹp trong mọi hoàn cảnh, gợi lên ý nghĩa về việc xóa bỏ mọi tăm tối để tạo nên sự gần gũi.
Trái lại, Thạch Lam chủ yếu tập trung vào ánh sáng, khe sáng, hột sáng... Bóng tối chỉ xuất hiện trong vài câu văn, tạo nên sự tương phản nhẹ nhàng trong tác phẩm.
Tuy nhiên, nhà văn lại chọn làm nổi bật bóng tối để thể hiện sự đau khổ và tối tăm đói nghèo của những con người ở đây.
Nói về nghệ thuật, hai tác phẩm Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù chứng minh rằng một tác phẩm văn học xuất sắc thường mang trong mình những nghệ thuật đặc sắc. Điều này cũng là lý do tại sao cả hai nhà văn đều xứng đáng là những tài năng văn chương.
"""" Hết bài 1 """"-
Sau khi tham khảo bài mẫu phân tích Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ, để hiểu sâu hơn về nội dung, tình huống truyện, tính cách nhân vật, bạn có thể khám phá các bài như Phân tích một cảnh tượng mới lạ trong truyện Chữ người tử tù, Phân tích tình huống truyện trong Chữ người tử tù, Phân tích cảnh viết chữ trong Chữ người tử tù, Tóm tắt tình huống truyện Chữ người tử tù,...
2. Nghệ thuật ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù, mẫu số 2:
Khi nhắc đến Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, không thể không liên tưởng đến hình tượng u tối của Huấn Cao và cảnh viết chữ trong ngục tù. Hình ảnh này không chỉ làm sáng rực một vùng, mà còn làm nổi bật những ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Tác phẩm đã thu hút sự chú ý của độc giả và nhà phê bình văn học, không chỉ vì cốt truyện và tình huống, mà còn vì nghệ thuật đặc sắc mà không phải ai cũng có thể thực hiện được.
Như những nhà phê bình văn học đã chỉ ra, ngoài nội dung hấp dẫn, sự độc đáo của tác phẩm là ở nghệ thuật sáng tối. Nguyễn Tuân đã tận dụng mảng ánh sáng và bóng tối một cách xuất sắc, mang lại cái nhìn mới và đặc sắc về triết lí nhân văn trong tác phẩm của mình.
Một tác phẩm xuất sắc không chỉ cần có cốt truyện hấp dẫn mà còn cần những nghệ thuật đặc sắc. Chi tiết nghệ thuật, ngôn ngữ đậm chất vùng miền, và những ý nghĩa sâu sắc đã làm nổi bật tác phẩm. Ngoài sự hấp dẫn từ cốt truyện, Thạch Lam và Nguyễn Tuân còn là những nghệ sĩ đa tài trong nền văn hóa Việt Nam. Cả hai để lại ấn tượng sâu sắc qua những nghệ thuật đặc sắc, đặc biệt là sử dụng ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù.
Thạch Lam và Nguyễn Tuân, hai nhà văn tài năng của văn học Việt Nam, không chỉ ghi điểm với nội dung và cốt truyện của tác phẩm mà còn với những nghệ thuật đặc sắc, đặc biệt là nghệ thuật sáng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù.
Trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, ánh sáng đầu tiên xuất hiện là của ngọn đuốc trong căn phòng ngục tù, làm sáng bừng không gian ẩm thấp. Nguyễn Tuân tận dụng ánh sáng để làm nổi bật hình ảnh Huấn Cao cho chữ cho quản ngục, tạo ra không gian thiêng liêng và độc đáo.
Nguyễn Tuân chọn lấy ánh sáng để át đi không gian tăm tối của ngục tù. Hình ảnh cho chữ trở nên nổi bật, giản dị và thiêng liêng giữa không gian ẩm ướt và tăm tối. Thông qua thứ ánh sáng đặc biệt này, Nguyễn Tuân muốn truyền đạt ý nghĩa về việc vươn lên khỏi sự hỗn loạn của cuộc sống.
Ánh sáng không chỉ là nguồn sáng cho gian phòng tối tăm mà còn mở ra những khía cạnh tối tăm trong tâm hồn viên quản ngục. Nguyễn Tuân thông qua nghệ thuật ánh sáng và bóng tối giúp thấy rõ sự thức tỉnh và sáng tạo của Huấn Cao, làm tỏa sáng tâm hồn trong bóng tối, và truyền đạt ý nghĩa về lòng nhân ái và sự hiện diện của thiên lương.
Hai đứa trẻ của Thạch Lam mang đến làn gió mới cho văn chương, sử dụng nghệ thuật ánh sáng và bóng tối một cách sáng tạo. Trong tác phẩm này, sự chuyển động của ánh sáng và bóng tối được thể hiện qua hình ảnh phiên chợ tàn và lúc lũ trẻ nhặt nhạnh những còn sót lại. Ánh sáng từ đèn Liên và đèn chị Tý, cùng với ánh sáng của đoàn tàu, tạo nên một không gian sáng tạo và đầy ấn tượng.
Trong tác phẩm này, ánh sáng được mô tả như là hạt sáng, khe sáng, quầng sáng, và bầu trời chứa hàng ngàn ngôi sao lấp lánh. Nó cũng được lấy từ ngọn đèn Liên và đèn chị Tý. Ánh sáng của đoàn tàu khiến phố huyện trở nên sáng bừng và tươi mới. Cảnh này tạo nên một thế giới ánh sáng, phủ đầy niềm hy vọng và mong đợi.
Trong tác phẩm này, ánh sáng không chỉ là nguồn sáng cho môi trường tối tăm mà còn làm nổi bật những khía cạnh tối tăm trong tâm hồn và xã hội. Nguyễn Tuân và Thạch Lam thông qua nghệ thuật ánh sáng và bóng tối giúp chúng ta thấy rõ sự thức tỉnh, sáng tạo và hiện diện của thiên lương trong cuộc sống.
Hai tác giả thông qua nghệ thuật ánh sáng bóng tối đã vẽ nên bức tranh về cuộc sống ở chốn phố huyện và hình ảnh tối tăm nhưng rực sáng trong ngục lao. Ngược lại với Thạch Lam, Nguyễn Tuân tinh tế sử dụng ánh sáng bóng tối trong Chữ người tử tù, tạo ra hình ảnh bóng tối dày đặc nhưng vẫn không thể làm mờ đi ánh sáng từ ngọn đuốc thiêng liêng và những tâm hồn cao quý. Dù sử dụng nhiều hình ảnh ánh sáng trong Hai đứa trẻ, nhưng mọi người vẫn thu về một phố huyện nghèo nàn.
Cả hai tác phẩm của hai tác giả khác nhau đều sử dụng nghệ thuật ánh sáng bóng tối để gợi lên những tưởng tượng và ý nghĩa độc đáo. Mỗi tác phẩm mang lại những cảm nhận riêng biệt, nhưng không thể phủ nhận rằng nghệ thuật này làm nên thành công của cả hai thiên truyện.
3. Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù, mẫu số 3:
Một tác phẩm xuất sắc không chỉ cần nội dung hấp dẫn mà còn phải có nghệ thuật đặc sắc. Điều này rõ ràng trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ. Hai tác phẩm này, mặc dù mang đến những đặc điểm nghệ thuật khác nhau, nhưng chung điểm đó là nghệ thuật sáng tạo với ánh sáng và bóng tối.
Nghệ thuật tuyệt vời hiện lên rõ trong Chữ người tử tù, đặc biệt là trong đoạn Huấn Cao cho viên quản ngục chữ. Cảnh tượng độc đáo ấy không chỉ được biểu hiện qua ánh sáng mà còn bởi sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối, không gian cho chữ và không gian nhà tù. Điều này tạo nên một hình ảnh không thể quên, với ánh sáng duy nhất của ngọn đuốc soi sáng căn phòng và bóng tối dày đặc, làm nổi bật sự thức tỉnh của viên quản ngục.
Đầu tiên là ánh sáng trong đoạn ấy. Có thể nói trong cảnh cho chữ ấy ánh sáng duy nhất chỉ có một ngọn đuốc soi sáng căn phòng. Ánh sáng ấy không thể rực rỡ mà chi đủ để huấn Cao có thể nhìn rõ mà viết chữ tặng quản ngục mà thôi. Thật vậy, nhà văn Nguyễn Tuân đã miêu tả thật chính xác cái ánh sáng ấy. ba con người chụm lại bên tờ giấy với ngọn đuốc đủ để thắp sáng cho Huấn Cao viết chữ.
Thế mà bóng tối thì lại dày đặc, dường như ở đây không chỉ có sự tương phản giữa không gian cho chữ và không gian nhà tù, giữa người cho chữ và người nhận chữ thái độ của họ mà còn tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Chúng ta không thể nào quên được cái không gian bóng tối bao chùm ấy. Không gian thì toàn phân gián phân chuột ẩm thấp và ghê gớm. thế nhưng cái đẹp đã thăng hoa lấn át tất cả những điều đó. Lấy bóng tối để làm nên cho ánh sáng ấy Nguyễn Tuân nhằm nói lên sự thức tỉnh của con người khỏi những "bản nhạc xô bồ" của cuộc sống kia. Và ở đây nó chính là sự thức tỉnh của viên quan ngục.
Nghệ thuật ánh sáng và bóng tối cũng xuất sắc được thể hiện trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Chợ tàn lúc chiều buông xuống hiện lên như một bức tranh về sự rơi rụng tàn tạ, và đặc biệt là khi đêm đến, ánh sáng từ nhiều nguồn nhưng vẫn không thể chống lại sức đen tối, tạo ra hình ảnh u tối và đậm đặc. Nghệ thuật ánh sáng và bóng tối làm nổi bật sự tối tăm trong tâm hồn nhân vật.
Trong tác phẩm này, nghệ thuật miêu tả bóng tối và ánh sáng ở phần cuối với đoàn tàu đêm rực rỡ, tia lửa chớp như ánh sáng phá cách, và ánh đèn rực trên những khoa hạng sang. Nhưng sau cùng, khi ánh sáng tan đi, phố huyện lại vùi trong bóng tối. Một hình ảnh tinh tế về sự chuyển động của ánh sáng và bóng tối trong không gian nghệ thuật.
Nghệ thuật ấy không chỉ là biểu thị mà còn là cao hóa nội dung của tác phẩm. Cả Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ đều sử dụng ánh sáng và bóng tối để truyền đạt ý nghĩa. Cảnh cho chữ diễn ra dưới ánh sáng bóng tối để thể hiện sự thăng hoa và gần gũi, trong khi Hai đứa trẻ sử dụng nghệ thuật này để đồng thời nói lên sự tối tăm, khốn khó, và cảm giác cô độc ở phố huyện.
Hai nhà văn, hai cách sử dụng nghệ thuật khác nhau để truyền đạt ý nghĩa. Nguyễn Tuân tập trung vào bóng tối để làm nổi bật ánh sáng, thể hiện sự thăng hoa và gần gũi của con người. Trái ngược, Thạch Lam sử dụng nghệ thuật ánh sáng để tăng cường sự tối tăm của phố huyện, làm nổi bật sự khó khăn và cảm giác cô độc.
5. Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ, mẫu số 5:
Thạch Lam, ngược lại, chú trọng vào ánh sáng hơn là bóng tối, như khe sáng, hột sáng... bóng tối chỉ được nhấn mạnh trong vài câu văn.
Tuy nhiên, ý đồ nghệ thuật của ông là làm nổi bật bóng tối để thể hiện sự tối tăm, đói nghèo của những con người ở đây.
Tác phẩm văn học xuất sắc thường có những nghệ thuật đặc sắc. Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù chính vì điều đó xứng đáng là những tác phẩm hay. Cả hai nhà văn cũng xứng đáng với danh hiệu nhà văn giỏi.
6. Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù, mẫu số 6:
Ánh sáng và bóng tối, những khía cạnh quan trọng trong cuộc sống, luôn đi đôi với nhau, tương complement và bổ sung cho nhau. Trong hội họa, ánh sáng và bóng tối trở thành một phương tiện cơ bản để thể hiện con người và thế giới xung quanh.
Trong văn chương, ánh sáng và bóng tối được sử dụng như một thủ thuật nghệ thuật để tạo nên bối cảnh, chuyển tải nội dung và chủ đề của tác phẩm. Trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ánh sáng và bóng tối là một thủ thuật nghệ thuật cốt lõi 'biểu hiện cách khám phá hình tượng về cuộc sống, như một phương tiện thuyết phục và thu hút độc giả' của các tác giả. Nguyễn Tuân và Thạch Lam, dù thuộc cùng thể loại văn học lãng mạn, nhưng mỗi người lại có cách sử dụng thủ thuật nghệ thuật hoàn toàn khác nhau, tạo ra những thế giới nghệ thuật riêng biệt và độc đáo, mang đậm phong cách cá nhân của họ.
Trên hành trình miệt mài tìm kiếm vẻ đẹp và ca ngợi nó, Nguyễn Tuân và Thạch Lam, trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ, sử dụng ánh sáng và bóng tối không chỉ như một phương tiện nghệ thuật để tạo ra bối cảnh câu chuyện mà còn đưa ra ý nghĩa biểu tượng về vẻ đẹp trong cuộc sống. Nguyễn Tuân viết Chữ người tử tù dựa trên cảm hứng từ một thú chơi tao nhã của người xưa, trong bối cảnh đặc biệt của người viết chữ và người chơi chữ là người tử tù và người quản ngục. Hai nhân vật này xuất hiện như là một loại tương phản song song của sự tồn tại không thể thiếu nhau giữa hai đối tượng đối ngược, như ánh sáng và bóng tối, thậm chí trở thành đối thủ trong một tình huống đặc biệt. Mặc dù đối lập, nhưng chính sự khác biệt này chứa đựng một sự kết hợp, bổ sung lẫn nhau, thậm chí biến đổi từ tối tăm sang sáng tạo một quy luật tất yếu.
'Chữ' ở đây hiểu theo nghĩa của tác phẩm chính là Thư pháp, một 'nghệ thuật thể hiện chữ viết và là phương tiện để biểu lộ tâm thức của con người... Thư pháp gắn với tính cách, tâm tư, tình cảm, quan niệm triết học, nhân sinh quan của người viết'. Từ nét chữ, ta có thể đọc được tính tình, nhân cách, khí phách của người viết, thể hiện thế giới tâm hồn của họ. Vì vậy, người xưa coi việc chơi chữ như một cách nuôi dưỡng tính cách, làm dạng nguồn cảm hứng tinh thần. Viên quản ngục yêu chữ của Huấn Cao là yêu nhân cách, khí phách, tài hoa của người viết chữ, yêu cái đẹp tỏa ra từ thế giới nội tâm của người này.
Không gian nghệ thuật của Chữ người tử tù chủ yếu được xây dựng trên cơ sở của không gian nhà tù - một 'trại giam tối om', nơi bóng tối tràn ngập, 'quạnh quẽ' và 'tối mịt', toàn bộ nhấn mạnh vẻ âm thầm, u ám. Mẩu đối thoại ngắn đầy e dè, gìn giữ, nghi ngại giữa quản ngục và thầy thơ như là bức tranh rõ nét về số phận của những con người sống trong bóng tối, tự do về thân phận nhưng bị giam tù về nhân cách. Không gian nghệ thuật của tác phẩm giới hạn trong một nhà tù nhỏ, một không gian cuộc sống nơi bóng tối vượt trội ánh sáng, đèn leo lét mờ nhạt giữa bóng tối mịt mù và quạnh quẽ, chỉ vài vì tinh tú nhấp nháy xa xa, trong đó có một 'ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ'. Dù ánh sáng nhỏ bé so với màn đêm bao phủ, nhưng qua sự tương phản đó, tác giả muốn truyền đạt niềm tin vào tinh thần lương tử của con người, luôn chiếu sáng dù trong bất cứ tình huống nào, không bao giờ tắt, và nếu có cơ hội, nó sẽ bùng lên mạnh mẽ như niềm tin vào cái tốt và cái đẹp, vào ánh sáng. Đó chính là vẻ đẹp, là chút ánh sáng cuối cùng trong tâm hồn ngục tù. Con người tồn tại ở một nơi mà vẻ đẹp và xấu xa luôn chen lẫn, và ánh sáng có nguy cơ bị bóp méo bởi bóng tối.
Trong thế giới tăm tối đó, quản ngục như bị lạc lõng cô độc trong thế giới riêng tư của mình: một ngọn đèn leo lét, một bóng tối mịt mù quạnh quẽ, tiếng trống thu không, tiếng kiểng mõ thưa thớt, tiếng chó sủa vào những bóng ma mơ hồ huyền bí ám mãi vào màn đêm hoang hút... Những sợi dây vô hình, những vòng dây trói đeo, từ từ bóp nghẹn cuộc sống mòn rỉ của con người, mà Nguyễn Tuân gọi là 'đang băn khoăn ngồi bóp thái dương', với một hình ảnh mòn mỏi, cô đơn 'tóc hoa râm, râu đã ngả màu'. Nhưng sâu thẳm bên trong người này là một cuộc sống tinh tế như 'một âm thanh trong trẻo xen vào giữa bản nhạc hỗn loạn và xô bồ.' Nguyễn Tuân đã thành công khi xây dựng bối cảnh và không khí để tạo nên tình huống truyện. Nỗi băn khoăn dẫn đến quyết định biệt đôi của quản ngục được đặt trong một không gian nền chứa đầy bóng tối - nơi chỉ có vài đốm sáng nhấp nháy trên bầu trời, thậm chí có một ngôi sao chính vị sắp từ biệt vũ trụ, tất cả như chòng chành giữa hai thế giới để cuối cùng ánh sáng của thiên lương, dù nhỏ bé, vẫn chiến thắng, dẫn đến một thái độ đẹp.
Cuộc gặp gỡ giữa hai con người ban đầu dường như là đối kịch mạnh mẽ nhưng lại hòa hợp ngạc nhiên ở kết thúc câu chuyện. Huấn Cao ngày càng khí khái, cường tráng, khinh thường đối với quản ngục bất kỳ càng nhẫn nhịn, lễ phép, cam chịu bấy nhiêu. Tất cả chỉ vì tác động của cái đẹp, của ánh sáng tỏa ra từ một nhân cách, vì trân trọng một tài năng, thương tiếc một báu vật văn hóa sắp bị chôn vùi mãi mãi. Sự ngợi khen leo lên từ cả hai phía, đối lập nhau về tư duy, tâm trạng, thái độ, và sự đối diện với cuộc sống. Công việc, môi trường trại giam đã hạn chế quản ngục vào một giới hạn nghiệt ngã, con người này hàng ngày chỉ là công cụ, máy móc, nhưng sâu thẳm trong trái tim chứa đựng một cảm giác cô đơn không biểu hiện, không có ai hiểu được. Một con người ban đầu ngoại hình trông như một khối bóng tối khổng lồ nhưng sau đó tài năng của Nguyễn Tuân đã biết bắt lấy khoảnh khắc thuận lợi nhất để chút ánh sáng tỏa ra trong tâm hồn quản ngục và có cơ hội bừng sáng. Không chỉ vậy, tác giả còn dựng tình huống cho phút giây sáng tạo đó thành một hình ảnh thiên thu vĩnh viễn ở đoạn kết - chiến thắng của ánh sáng trước bóng tối, trong 'cảnh cho chữ', 'một cảnh tượng xưa nay chưa từng có'.
Với truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam, có thể nói rằng đây là một tác phẩm 'phi cốt truyện'. Điều này là điểm độc đáo và đồng thời cũng là một trong những đặc điểm tạo nên phong cách riêng biệt trong nghệ thuật viết của Thạch Lam.
Sáng tạo ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ là một yếu tố quan trọng trong nghệ thuật kể chuyện của Thạch Lam. Tác giả thông qua việc sử dụng ánh sáng và bóng tối trong việc xây dựng không khí và nhân vật, đồng thời chú ý đến những chi tiết nhỏ để thể hiện chủ đề của tác phẩm.
Không gian của Hai đứa trẻ là một phố huyện lạnh lẽo, một không gian mà Thạch Lam thường xuyên khai thác trong truyện ngắn của ông. Nơi đây nằm giữa thị trấn và làng quê, và thời gian là một buổi chiều 'êm ả như ru' chuẩn bị để nhường chỗ cho đêm đến, với 'dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ ràng trên bức tranh của bầu trời'. Bối cảnh của phố huyện trong bóng tối tạo nên không khí buồn bã, hiu quạnh và chậm rãi, miêu tả cuộc sống đơn điệu ở nơi này. Bóng tối hiện hữu trong đôi mắt của Liên. Định mệnh của những đứa trẻ nghèo làm công việc thu gom rác tại đây cũng mất màu trong bóng tối. Bối cảnh và tâm trạng nhân vật được tác giả mô phỏng vào các thời điểm khác nhau: hoàng hôn, khi đêm buông xuống và lúc đêm khuya. Trong ánh sáng của đèn leo lét trên vai chị Tý, trên bếp của bác Siêu và những đốm sáng lòa xòa từ ngọn đèn của chị em Liên, con người xuất hiện như những hình bóng không rõ phận, không rõ tính cách. Ngoài công việc chật vật trong ban ngày, họ tập trung lại ở đây vào buổi tối như để bắt đầu một cuộc sống thứ hai trong bóng tối, nhưng cũng để hướng đến ánh sáng. Tất cả đang mong chờ điều gì đó mới mẻ, khác biệt so với cuộc sống buồn tẻ, vướng trở, tù túng của cái 'ao đời bằng phẳng' mà họ trải qua hàng ngày.
Hình tượng ánh sáng ở đây được hình thành như một biểu tượng nghệ thuật độc đáo và gây nhiều ấn tượng. Những đốm sáng nhỏ bé, giản dị lọt qua không gian phố huyện đen tối làm tăng thêm sự bí ẩn của bức tranh đêm, tạo nên không khí buồn bã của phố huyện khi tối xuống. Nỗi buồn của hai đứa trẻ và những người dân tại đây nếu ban đầu chỉ ở mức độ mơ hồ thì khi đêm khuya trở nên rõ ràng hơn. Bầu trời sao và vũ trụ rộng lớn là một sự đối lập, gay gắt so với cuộc sống tù túng ở phố huyện, mở lòng tâm hồn của Liên đối với sự hạnh phúc. Lúc này nỗi buồn không còn mơ hồ mà trở nên rõ ràng, khi cô nhớ lại Hà Nội, một thứ 'siêu cảm giác' vì cô đang hồi tưởng về quá khứ, cảm nhận tâm hồn về một thời khắc khác với thực tại hiện tại của Liên - 'một vùng sáng rực và lấp lánh'.
Dù ánh sáng từ đoàn tàu đã đến, nhưng ánh sáng thực sự, hạnh phúc thực sự của những người ở đây vẫn tồn tại trong tâm trí mà không biết khi nào mới trở thành hiện thực. Hình tượng ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ khi áp dụng vào diễn biến nội tâm phức tạp của Liên làm nổi bật giá trị của nó, thể hiện sự 'khao khát được soi sáng và thay đổi' (7) của hai đứa trẻ và cộng đồng tại đây. Điều này làm tăng giá trị nghệ thuật và tư tưởng của tác phẩm, khiến cho Hai đứa trẻ của Thạch Lam trở thành một trong những tác phẩm truyện ngắn nổi bật và đặc sắc trong văn học Việt Nam.
Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối như một biện pháp trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ đều chứa đựng những điểm tương đồng và khác biệt. Cả hai tác giả đều kỹ thuật ánh sáng và bóng tối như là một nguyên tắc đối lập, một biện pháp nghệ thuật để xây dựng tình huống truyện. Nhưng với Nguyễn Tuân, ánh sáng và bóng tối không chỉ đơn thuần đối lập, mà còn bổ sung, nâng đỡ lẫn nhau, đồng thời có sự chuyển hóa từ bóng tối sang ánh sáng.
Đối với Thạch Lam, bóng tối không chỉ là biểu tượng của cuộc sống tù đọng và quẩn quanh trong phố huyện, mà còn là phông nền quan trọng nhằm làm nổi bật ánh sáng. Ba loại ánh sáng - phố huyện, đô thị, và con tàu - được sử dụng để tạo nên những tương phản rõ ràng, tượng trưng cho số phận và ước mơ của nhân vật.
Với Nguyễn Tuân, cảm hứng thẩm mỹ của ông đến từ cái đẹp lớn lao, cao cả, bi hùng, vì vậy ánh sáng và bóng tối được sử dụng để tạo ra những tương phản mạnh mẽ và chuyển biến đột ngột, dẫn dắt đến kết thúc của sự chiến thắng giữa chân lý và cái xấu.
Tính quy phạm của ánh sáng và bóng tối trong hội họa khi chuyển sang văn chương tạo ra hiệu quả thẩm mỹ mới, đóng góp đặc sắc cho xây dựng tình huống truyện. So sánh giữa hai tác phẩm giúp thấy rõ sự đa dạng và giá trị nghệ thuật, kết hợp với quan điểm và văn hóa riêng của tác giả, tạo nên một cách tiếp cận độc đáo không chỉ từ văn bản mà còn từ sự liên kết giữa các văn bản.
""""--- Kết thúc """"--
Chúng tôi đã chia sẻ 4 mẫu phân tích về ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ. Bước tiếp theo, để chuẩn bị cho các bài học, hãy nghiên cứu bài Phân tích Tính Nghệ Thuật trong Hai Đứa Trẻ, bối cảnh sáng tác của Bài Ca Ngất Ngưỡng, Phân tích bài thơ Chạy Giặc, và Phân tích hai câu thơ cuối cùng của bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương...