Ankara | |
---|---|
— Thành phố tự trị — | |
Theo chiều kim đồng hồ, từ trên: khu kinh doanh Söğütözü, Anıtkabir, Gençlik Parkı, Quảng trường Kızılay, Nhà thờ Hồi giáo Kocatepe, Tháp Atakule | |
Vị trí của Ankara trong Thổ Nhĩ Kỳ. Vị trí của Ankara trong Thổ Nhĩ Kỳ. | |
Ankara | |
Tọa độ: | |
Quốc gia | Thổ Nhĩ Kỳ |
Diện tích | |
• Thành phố tự trị | 25.437 km (9,821 mi) |
Độ cao | 938 m (3,077 ft) |
Dân số (2022) | |
• Đô thị | 5.156.573 |
• Vùng đô thị | 4.875.803 |
Múi giờ | EET (UTC+2) |
• Mùa hè (DST) | EEST (UTC+3) |
Mã bưu chính | 06xxx |
Mã điện thoại | 0312 |
Thành phố kết nghĩa | Minsk, Miami, Pavlodar, Ashgabat, Astana, Bắc Kinh, Bishkek, Bucharest, Chișinău, Hà Nội, Kyiv, Cát Long Pha, Thành phố Kuwait, Nicosia, Manama, Moskva, Tirana, Kinshasa, Bissau, Ufa, Mogadishu, Sana'a, Washington, D.C., Sofia, Tbilisi, Islamabad, Băng Cốc, Khartoum, Santiago de Chile, Damas, Amman, Seoul, Dushanbe, Sarajevo, Priština, North Nicosia, Budapest |
Biển số xe | 06 |
Trang web | http://www.ankara.bel.tr/ http://www.ankara.gov.tr/ |
Ankara (phát âm tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: [ˈan.ka.ɾa]) trước đây gọi là Ancyra (tiếng Hy Lạp: Ἄγκυρα) hoặc Angora, thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ và là thành phố lớn (büyük şehir) thứ hai của quốc gia này sau Istanbul. Là thủ đô hành chính từ thập niên 1920, Ankara đã có vai trò là trung tâm hành chính, nơi ở của các chính khách, viên chức hành chính và công chức Thổ Nhĩ Kỳ. Các nhánh Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ cũng đặt cơ sở ở thành phố Ankara.
Địa lý
Thành phố này nằm ở độ cao trung bình 938 mét trên mực nước biển, trên vùng đồng bằng rộng lớn ở miền trung Anatolia, với những khu rừng trên núi về phía bắc và đồng bằng khô hạn Konya ở phía nam. Các sông chính là các hệ thống Kızılırmak và sông Sakarya. 50% diện tích đất được sử dụng cho nông nghiệp, 28% là rừng và 10% là các đồng cỏ. Hồ nước mặn lớn nhất là Tuz Golu nằm một phần trong thành phố này. Đỉnh cao nhất với độ cao 2.015m là Işık Dağı.
Phát triển đô thị
Thành phố Ankara là một trong 3 đại đô thị tự quản (büyük şehir) đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ, thành lập năm 1984, tương ứng với các huyện Etimesgut, Yenimahalle, Çankaya, Keçiören, Altındağ, Akyurt và Sincan. Do tốc độ phát triển đô thị cao, vùng đô thị nhanh chóng mở rộng ra toàn bộ tỉnh. Năm 2012, Thổ Nhĩ Kỳ thông qua luật, công nhận các tỉnh có dân số trên 750.000 người là những đại đô thị, do đó có quyền tự chủ hơn so với cái tỉnh (il) khác. Thành phố Ankara chính thức được hợp nhất với tỉnh Ankara.
Dân số
Năm 2014, Ankara có dân số 5.150.000 người. Hầu như toàn bộ dân ở đây nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, ngôn ngữ chính thức của quốc gia này. Đa số dân thành phố là tín độ Hồi giáo Sunni.
Lịch sử
Ankara đã từ lâu đã là một trung tâm thương mại. Người Hittite đã chiếm khu vực này từ năm 2000 trước Công Nguyên. Người Phrygians tiếp quản khoảng năm 1000 trước Công Nguyên. Alexander Đại Đế đã chinh phục thành phố vào năm 333 trước Công Nguyên. Sau khi qua đời, bộ lạc Gallic (Galatian) đã chọn thành phố làm kinh đô của họ (xem thêm Galatia). Được gọi là Ancyra, thành phố này đã trở thành một phần của Đế quốc La Mã vào năm 189 trước Công Nguyên và trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Galatia Prima. Sau đó, nó phát triển thành một trung tâm lớn của Đế quốc Byzantine và sau đó bị xâm lược bởi người Ba Tư, Ả Rập, Seljuk Turks và quân Thập Tự Chinh Latin. Thành phố đã được đổi tên thành Angora bởi người Seljuk và sau đó nó đã rơi vào tay Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman vào năm 1360. Thành phố đã bị chiếm đóng trong một thời gian ngắn bởi Tamerlane của Thổ vào năm 1402, nhưng sau đó đã trở lại tay Đế quốc Ottoman.
Năm 1923, sau khi Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ được thành lập, Atatürk đã dời thủ đô từ Istanbul đến Angora, đánh dấu một bước đi phá vỡ truyền thống và thiết lập một vị trí trung tâm cho thủ đô. Quá trình hiện đại hóa thành phố đã bắt đầu, và năm 1930 tên thành phố đã được đổi thành Ankara. Thành phố này đã phát triển nhanh chóng trong nhiều thập kỷ và sớm trở thành một trong những trung tâm đô thị lớn của Thổ Nhĩ Kỳ. Trong những năm gần đây, Ankara đã sáp nhập các vùng ngoại ô để giải quyết vấn đề nhà ở dư thừa của hàng ngàn người di cư từ các vùng kém phát triển khác của đất nước. Ankara hiện đang triển khai nhiều dự án giao thông lớn nhằm giải quyết vấn đề kẹt xe.
Khí hậu
Dữ liệu khí hậu của Ankara (1954–2013) | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Cao kỉ lục °C (°F) | 16.6 (61.9) |
20.4 (68.7) |
26.4 (79.5) |
30.6 (87.1) |
33.0 (91.4) |
37.0 (98.6) |
41.0 (105.8) |
40.4 (104.7) |
36.0 (96.8) |
32.2 (90.0) |
24.4 (75.9) |
20.4 (68.7) |
41.0 (105.8) |
Trung bình ngày tối đa °C (°F) | 4.4 (39.9) |
6.5 (43.7) |
11.7 (53.1) |
17.2 (63.0) |
22.3 (72.1) |
26.7 (80.1) |
30.2 (86.4) |
30.2 (86.4) |
25.9 (78.6) |
19.9 (67.8) |
12.9 (55.2) |
6.6 (43.9) |
17.9 (64.2) |
Trung bình ngày °C (°F) | 0.4 (32.7) |
1.9 (35.4) |
6.1 (43.0) |
11.3 (52.3) |
16.2 (61.2) |
20.2 (68.4) |
23.6 (74.5) |
23.3 (73.9) |
18.7 (65.7) |
13.1 (55.6) |
7.0 (44.6) |
2.6 (36.7) |
12.0 (53.6) |
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) | −3.0 (26.6) |
−2.2 (28.0) |
1.0 (33.8) |
5.6 (42.1) |
9.7 (49.5) |
13.1 (55.6) |
16.0 (60.8) |
16.0 (60.8) |
11.7 (53.1) |
7.3 (45.1) |
2.5 (36.5) |
−0.6 (30.9) |
6.4 (43.5) |
Thấp kỉ lục °C (°F) | −21.4 (−6.5) |
−21.5 (−6.7) |
−19.2 (−2.6) |
−6.7 (19.9) |
−1.6 (29.1) |
3.8 (38.8) |
4.5 (40.1) |
6.3 (43.3) |
2.5 (36.5) |
−4.1 (24.6) |
−10.5 (13.1) |
−17.2 (1.0) |
−21.5 (−6.7) |
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) | 42.2 (1.66) |
37.0 (1.46) |
38.8 (1.53) |
47.7 (1.88) |
49.7 (1.96) |
35.0 (1.38) |
14.5 (0.57) |
10.5 (0.41) |
19.2 (0.76) |
29.4 (1.16) |
32.6 (1.28) |
45.4 (1.79) |
402.0 (15.83) |
Số ngày giáng thủy trung bình | 12.2 | 11.0 | 10.9 | 11.9 | 12.5 | 8.6 | 3.7 | 2.8 | 3.9 | 6.8 | 8.5 | 11.8 | 104.6 |
Số giờ nắng trung bình tháng | 77.5 | 98.9 | 161.2 | 189.0 | 260.4 | 306.0 | 353.4 | 341.0 | 276.0 | 201.5 | 132.0 | 71.3 | 2.468,2 |
Số giờ nắng trung bình ngày | 2.5 | 3.5 | 5.2 | 6.3 | 8.4 | 10.2 | 11.4 | 11.0 | 9.2 | 6.5 | 4.4 | 2.3 | 6.7 |
Nguồn: Cục Khí tượng Quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ |