Griezmann trong màu áo đội tuyển Pháp vào năm 2018 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Antoine Griezmann | ||
Ngày sinh | 21 tháng 3, 1991 (33 tuổi) | ||
Nơi sinh | Mâcon, Pháp | ||
Chiều cao | 1,76 m (5 ft 9 in) | ||
Vị trí |
| ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Atletico Madrid | ||
Số áo | 7 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
1997–1999 | EC Mâcon | ||
1999–2005 | UF Mâconnais | ||
2005–2009 | Real Sociedad | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2009–2014 | Real Sociedad | 180 | (46) |
2014–2019 | Atlético Madrid | 180 | (94) |
2019–2022 | Barcelona | 74 | (22) |
2021–2022 | → Atlético Madrid (mượn) | 44 | (9) |
2022– | Atlético Madrid | 38 | (15) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2010 | U-19 Pháp | 5 | (2) |
2011 | U-20 Pháp | 7 | (1) |
2010–2012 | U-21 Pháp | 7 | (3) |
2014– | Pháp | 117 | (42) |
Thành tích huy chương | |||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 21 tháng 3 năm 2023 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 18 tháng 12 năm 2022 |
Antoine Griezmann (phát âm tiếng Pháp: [ɑ̃.twan ɡʁizman]; sinh ngày 21 tháng 3 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo hoặc tiền vệ tấn công cho câu lạc bộ La Liga Atlético Madrid và đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp.
Bắt đầu sự nghiệp của mình tại Real Sociedad, anh đã trải qua năm mùa giải chuyển sang thi đấu cho Atlético Madrid phí chuyển nhượng lên tới 30 triệu Euro. Năm 2019, anh chuyển tới Barcelona với phí chuyển nhượng 120 triệu Euro, trở thành cầu thủ đắt giá thứ 5 mọi thời đại.. Tại đây, anh giành được Copa del Rey. Tháng 8 năm 2021, anh trở lại Atlético Madrid theo dạng cho mượn.
Griezmann đã là một thành viên của Đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Pháp từng tham dự các giải đấu dành cho lứa tuổi U19, 20 và 21. Năm 2010, anh là một phần của U-19 Pháp đã giành chức vô địch tại Giải vô địch U-19 châu Âu được tổ chức ngay trên quê nhà. Antoine Griezmann có trận đấu ra mắt trong màu áo của đội tuyển quốc gia vào năm 2014 và từng cùng đội tuyển Pháp tham dự World Cup 2014, Euro 2016, World Cup 2018, Euro 2020 và World Cup 2022.
Sự nghiệp
Thời kỳ đầu đời của Griezmann
Griezmann ra đời trong một gia đình tại Mâcon, thủ phủ của Saône-et-Loire. Gốc gác của anh ta là từ Alsace, vì vậy có nguồn gốc Đức. Anh bắt đầu sự nghiệp của mình tại câu lạc bộ địa phương UF Mâcon. Trong thời gian này, anh cũng đã thử sức tại một số câu lạc bộ chuyên nghiệp để tìm kiếm một vị trí trong đội hình trẻ, nhưng không thành công do yêu cầu về thể trạng và nhanh nhẹn của các câu lạc bộ.
Năm 2005, khi thử sức tại Montpellier, Griezmann đã tham gia trận đấu giao hữu với các tuyển thủ đến từ học viện bóng đá trẻ Camp des Loges của Paris Saint-Germain ở Paris và để lại ấn tượng sâu sắc với nhiều câu lạc bộ, đặc biệt là Real Sociedad của Tây Ban Nha, khi một giám sát viên của họ đã theo dõi trận đấu này. Sau trận đấu, ban lãnh đạo của câu lạc bộ Tây Ban Nha đã cơ hội cho Griezmann thử việc một tuần tại San Sebastián, và anh đã đồng ý. Anh đã có một kỳ nghỉ hai tuần tại câu lạc bộ này. Ngay sau đó, Real Sociedad liên lạc với gia đình Griezmann và chính thức ký hợp đồng với đội trẻ của họ. Ban đầu, cha mẹ Griezmann không chấp nhận cho con họ sang Tây Ban Nha, nhưng sau đó đã đồng ý khi có sự bảo đảm về đi lại và môi trường học tập thi đấu.
Real Sociedad
Khi mới đến với Real Sociedad, Griezmann lưu trú tại căn nhà nghỉ dưỡng của câu lạc bộ tại Bayonne (Pháp) trong khi phải đi học ở Tây Ban Nha bên kia biên giới, và được đào tạo vào buổi tối tại trung tâm của câu lạc bộ ở San Sebastián. Anh mất một thời gian để hòa nhập với đội bóng, nhưng sau bốn năm ở đội trẻ, anh đã được huấn luyện viên Martín Lasarte gọi lên thi đấu cho đội chính vào đầu mùa giải 2009-10. Trong mùa giải đó, Griezmann ghi năm bàn thắng trong bốn trận, cùng với việc thay đổi vị trí phải khiến cho Lasarte quyết định lựa chọn anh trong mùa giải tiếp theo.
Ngày 2 tháng 9 năm 2009, Griezmann ra mắt trong trận đấu Cúp Nhà vua Tây Ban Nha khi câu lạc bộ của anh đối đầu với Rayo Vallecano. Anh được tung vào sân từ ghế dự bị ở phút thứ 77, nhưng đội bóng của anh thua 0-2. Bốn ngày sau đó, anh thi đấu trong trận hòa 0-0 với Real Murcia. Ngày 27 tháng 9, anh ra sân đá chính lần đầu tiên và ghi bàn đầu tiên trong sự nghiệp trong trận thắng SD Huesca 2-0. Hai tuần sau đó, anh ghi bàn trong chiến thắng 2-0 trước UD Salamanca. Tháng 11 năm 2009, anh ghi bàn trong hai trận liên tiếp trước Hércules CF và Recreativo de Huelva. Đây là những bàn thắng quan trọng cho câu lạc bộ. Griezmann thi đấu thường xuyên hơn trong phần còn lại của mùa giải, ghi thêm hai bàn trong chiến thắng trước Cádiz và Numancia, giúp Real Sociedad lên chơi tại La Liga mùa giải 2010-11 với tư cách vô địch.
Ngày 8 tháng 4 năm 2010, Griezmann ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Real Sociedad, có thời hạn 5 năm đến năm 2015 với điều khoản 30 triệu Euro. Trước đó, anh thu hút sự quan tâm của các câu lạc bộ Ligue 1 như Lyon, Saint-Étienne và Auxerre. Tuy nhiên, sự nghiệp của anh phát triển mạnh mẽ khi chơi cho Real Sociedad, nên anh quyết định ở lại Tây Ban Nha. Anh cũng được quan tâm từ các câu lạc bộ Premier League như Manchester United và Arsenal trước khi ký hợp đồng.
Griezmann ra mắt tại La Liga vào ngày 29 tháng 8 năm 2010 trong trận đấu đầu tiên của mùa giải. Sau trận đấu này, anh đã nói rằng đó là 'một giấc mơ thành hiện thực từ thời thơ ấu' của anh. Anh có phần trong bàn thắng của Raúl Tamudo trong trận đấu với Real Madrid. Real Madrid giành chiến thắng 2-1 với bàn thắng của Cristiano Ronaldo. Ngày 25 tháng 10, Griezmann ghi bàn thắng đầu tiên tại La Liga trong chiến thắng 3-0 trước Deportivo La Coruña. Một tuần sau đó, anh ghi bàn mở tỉ số trong chiến thắng 2-1 trước Málaga. Tháng 11 năm 2010, anh ghi bàn duy nhất trong trận thua 1-2 trước Hércules. Trong trận đấu thứ hai của đội trong năm mới, anh ghi bàn thắng thứ hai trong chiến thắng 4-0 trước Getafe. Sau 9 trận không ghi bàn, Griezmann trở lại vào tháng 3 với bàn thắng duy nhất trong trận thua 1-2 trước Racing Santander. Ngày 17 tháng 4, anh ghi cú đúp trong chiến thắng 2-1 trước Sporting Gijón.
Sau khi ngồi dự bị ở trận đầu mùa giải 2011-12, Griezmann bắt đầu chính thức trong trận gặp Barcelona, đội vô địch mùa giải trước đó. Hai tuần sau đó, anh ghi bàn cân bằng tỉ số trong trận hòa 2-2.
Trên sân cỏ mùa giải 2012-13, là mùa giải cuối cùng của anh tại Real Sociedad, Griezmann ghi bàn duy nhất trong trận gặp Deportivo La Coruña, giúp đội lần đầu tiên từ năm 2003-04 có mặt tại Champions League (vị trí thứ 4 tại La Liga) sau một cuộc đua sít sao với Deportivo.
Vào đầu mùa giải tiếp theo, Griezmann ghi bàn trước Lyon tại Pháp, giúp Real Sociedad vượt qua vòng sơ loại Champions League với tổng tỉ số 4-0. Anh lập công bằng cú sút vô lê trong trận derby xứ Basque với Athletic Bilbao tại Anoeta vào tháng 1 năm 2014 (chiến thắng 2-0 cho Real Sociedad).
Griezmann chuyển đến Atlético Madrid.
Ngày 28 tháng 7 năm 2014, Atlético Madrid và Real Sociedad đạt được thỏa thuận chuyển nhượng Griezmann với mức phí khoảng 24 triệu bảng Anh (30 triệu Euro). Griezmann đã vượt qua kiểm tra y tế vào ngày 29 tháng 7 năm 2014 và ký hợp đồng 6 năm với đội bóng thủ đô.
Ngày 19 tháng 8 năm 2014, Griezmann ra mắt câu lạc bộ mới trong trận Siêu cúp Tây Ban Nha tại sân Santiago Bernabéu. Anh thay thế Saúl Ñíguez ở phút thứ 57 và ghi bàn đầu tiên cho câu lạc bộ vào ngày 17 tháng 9 tại Champions League, trong trận đấu với Olympiakos. Anh có cú đúp đầu tiên cho câu lạc bộ trong chiến thắng 4-2 trước Córdoba CF vào ngày 1 tháng 11. Ngày 21 tháng 12 năm 2014, anh ghi hat-trick đầu tiên tại La Liga khi Atlético Madrid đánh bại Athletic Bilbao 4-1. Anh cũng được bầu là Cầu thủ xuất sắc nhất tháng 1 năm 2015 của La Liga, dù chỉ thi đấu trong 3 trận của Atlético trong tháng.
Ngày 25 tháng 4 năm 2015, Griezmann ghi cú đúp trước Elche, giúp Atlético Madrid thắng 3-0 trên sân nhà. Đây là hai bàn thắng mang tổng số 22 bàn cho Griezmann trong một mùa giải, con số cao nhất và duy nhất mà một cầu thủ người Pháp đạt được tại La Liga.
Griezmann gia nhập Barcelona.
Trước mùa giải 2019/2020, Griezmann chuyển đến Barcelona với hợp đồng 5 năm, kèm mức phá vỡ hợp đồng kỷ lục lên đến 800 triệu Bảng.
Griezmann trở lại Atlético Madrid.
Vào ngày 31 tháng 8 năm 2021, Griezmann quay lại Atlético Madrid theo dạng cho mượn trong một năm, có lựa chọn gia hạn thêm một năm và với điều khoản mua đứt trị giá 40 triệu euro sẽ kích hoạt vào năm 2023. Anh ghi bàn mở tỉ số trong trận đấu đầu tiên khoác áo câu lạc bộ thứ hai vào ngày 28 tháng 9, giúp Atlético lội ngược dòng đánh bại A.C. Milan 2-1 tại UEFA Champions League 2021–22. Vào ngày 19 tháng 10, trong trận đấu với Liverpool tại Sân vận động Metropolitano, anh lập cú đúp trong hiệp một để gỡ hòa 2–2, nhưng sau đó bị đuổi khỏi sân ở phút 52 vì phạm lỗi với Roberto Firmino và Atlético thua 2-3.
Bắt đầu mùa giải 2022–23, Atlético Madrid gia hạn hợp đồng cho mượn với Griezmann thêm một năm. Câu lạc bộ quyết định không kích hoạt điều khoản mua đứt bắt buộc trị giá 40 triệu euro, giới hạn thời gian thi đấu của anh ở mỗi trận chỉ 30 phút. Vào ngày 7 tháng 9 năm 2022, anh ghi bàn quyết định ở phút 90+11 giúp Atlético đánh bại Porto 2-1 tại vòng bảng UEFA Champions League 2022–23. Ngày 10 tháng 10 năm 2022, Atlético đạt thỏa thuận với Barcelona về việc mua đứt Griezmann với mức phí 20 triệu euro, ký hợp đồng đến ngày 30 tháng 6 năm 2026. Anh ghi tổng cộng 16 bàn thắng và 16 đường kiến tạo trên mọi đấu trường trong mùa giải 2022–23, trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất và kiến tạo xuất sắc nhất La Liga. Griezmann bằng với Kevin De Bruyne và Lionel Messi về số lần kiến tạo nhất ở 5 giải đấu hàng đầu châu Âu.
Sự nghiệp quốc tế
Đội trẻ
Vì đã chơi bóng ở Tây Ban Nha, Griezmann không được huấn luyện viên gọi vào Đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Pháp. Sau khi thành công với Real Sociedad, vào ngày 23 tháng 2 năm 2010, anh được triệu tập vào Đội U-19 quốc gia để thi đấu 2 trận giao hữu với Ukraina. Ngày 2 tháng 3, Griezmann ra mắt trong đội tuyển trẻ của Pháp, thi đấu hòa 0–0 với Ukraina. Trận lượt về sau 2 ngày, anh ghi bàn ở phút 88 giúp Pháp đánh bại Ukraina với tỉ số 2–1.
Sau khi Pháp giành chiến thắng tại Giải vô địch bóng đá U-19 châu Âu, đội U-19 Pháp được tham dự Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2011, và Griezmann đã được lựa chọn vào đội hình. Ngày 28 tháng 9 năm 2010, anh được triệu tập vào đội tuyển quốc gia để tham dự các trận giao hữu với Bồ Đào Nha và đội dự bị của Juventus. Tuy nhiên, do chấn thương đùi trong buổi tập, Griezmann đã không tham gia vào cả hai trận đấu này và phải trở về sớm. Sau đó một tháng, mặc dù có thể thi đấu cho đội U-20 tại giải đấu, anh được huấn luyện viên Erick Mombaerts gọi lên thi đấu cho đội U-21 như thay thế cho Gabriel Obertan bị chấn thương, trong trận giao hữu với Nga. Griezmann ra mắt đội tuyển U-21 lần đầu tiên trong hiệp hai từ băng ghế dự bị, nhưng Pháp vẫn thua 0-1.
Sau khi tham gia hai trận đấu với đội tuyển U-21, Griezmann trở lại với đội U-20 và xuất hiện trong đội hình vào ngày 9 tháng 2 năm 2011, trong chiến thắng 2-1 trước đội tuyển Anh. Ngày 10 tháng 6 năm 2011, anh là một trong 21 cầu thủ được triệu tập vào đội U-20 Pháp tham dự Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới. Trận đấu đầu tiên của đội tại giải là vào ngày 30 tháng 7 năm 2011, khi họ thua 1-4 trước đội chủ nhà Colombia. Ngày 10 tháng 8, trong vòng 16 đội, Griezmann ghi bàn duy nhất giúp Pháp đánh bại Ecuador.
Vào tháng 11 năm 2012, Griezmann và bốn cầu thủ trẻ khác bị đình chỉ thi đấu vì lý do kỷ luật, kéo dài đến hết năm 2013, liên quan đến một sự kiện tại hộp đêm trong đêm trước.
Đội chính
Vào ngày 27 tháng 2 năm 2014, Griezmann đã nhận được cuộc gọi thông báo từ huấn luyện viên Didier Deschamps mời anh gia nhập đội tuyển quốc gia, và tham gia trận giao hữu với Hà Lan tại sân vận động Stade de France. Anh có màn ra mắt ấn tượng vào ngày 5 tháng 3, bắt đầu trong đội hình xuất phát và chơi suốt 68 phút, giúp Pháp đánh bại đối thủ 2–0.
Vào ngày 13 tháng 5, tên của Griezmann đã được ghi vào danh sách tham dự World Cup 2014 của huấn luyện viên Deschamps. Vào ngày 1 tháng 6, trong trận đấu giao hữu với Paraguay tại Nice, anh ghi bàn quốc tế đầu tiên cho đội tuyển Pháp, khiến trận đấu kết thúc với tỉ số hòa 1–1. Anh đã trở thành lựa chọn thay thế chính thức, sau Olivier Giroud, trong trận đấu giao hữu cuối cùng của Pháp trước khi bước vào World Cup, với chiến thắng 8–0 trước Jamaica vào ngày 8 tháng 6.
Ngày 15 tháng 6, Griezmann ra sân trong trận đấu đầu tiên của mình cho đội tuyển Pháp tại World Cup 2014, thay thế Franck Ribéry trên cánh trái của Les Bleus, trong chiến thắng 3–0 của Pháp trước Honduras tại Porto Alegre. Pháp đã tiến vào vòng tứ kết trước khi gặp Đức.
Tại Euro 2016, diễn ra tại Pháp, trong trận gặp Albania, Griezmann đã ghi bàn vào phút cuối của hiệp hai, mở tỉ số cho Pháp tại giải đấu này. Anh đã tỏa sáng với cú đúp bàn thắng trong trận đấu thắng 2–1 trước Cộng hòa Ireland ở vòng 16 đội. Ở tứ kết, anh ghi bàn trong chiến thắng 5–2 của Pháp trước Iceland, giúp đội vào bán kết. Anh tiếp tục toả sáng với cú đúp trong chiến thắng 2–0 trước Đức, giúp Pháp vào trận chung kết trước khi để thua Bồ Đào Nha 0–1. Anh đã được UEFA vinh danh với danh hiệu Vua phá lưới Euro 2016 với 6 bàn thắng và giải Cầu thủ xuất sắc nhất giải.
Griezmann tiếp tục được huấn luyện viên Didier Deschamps triệu tập cho World Cup 2018 tại Nga. Trong trận mở màn bảng C gặp Úc, anh ghi bàn mở tỉ số từ chấm 11m, giúp Pháp đánh bại Úc 2–1. Anh còn ra sân trong hai trận còn lại của bảng C gặp Peru và Đan Mạch. Pháp dẫn đầu bảng C với 7 điểm. Ở vòng 16 đội gặp Argentina, Griezmann tiếp tục ghi bàn mở tỉ số từ chấm penalty, giúp Pháp vượt qua Argentina 4–3 để vào tứ kết. Anh ghi bàn quyết định ở tứ kết giúp Pháp vượt qua Uruguay 2–0 để vào bán kết sau 12 năm chờ đợi từ World Cup 2006. Trong trận chung kết gặp Croatia, anh ghi thêm một bàn từ quả phạt sút, khiến cầu thủ Croatia phản lưới nhà và thêm một bàn từ penalty, trong chiến thắng 4-2 của Pháp.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
- Tính đến ngày 21 tháng 1 năm 2023
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải đấu | Copa del Rey | Châu lục | Khác | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Real Sociedad | 2009–10 | Segunda División | 39 | 6 | 1 | 0 | — | — | 40 | 6 | ||
2010–11 | La Liga | 37 | 7 | 2 | 0 | — | — | 39 | 7 | |||
2011–12 | La Liga | 35 | 7 | 3 | 1 | — | — | 38 | 8 | |||
2012–13 | La Liga | 34 | 10 | 1 | 1 | — | — | 35 | 11 | |||
2013–14 | La Liga | 35 | 16 | 7 | 3 | 8 | 1 | — | 50 | 20 | ||
Tổng cộng | 180 | 46 | 13 | 5 | 8 | 1 | — | 201 | 52 | |||
Atlético Madrid | 2014–15 | La Liga | 37 | 22 | 5 | 1 | 9 | 2 | 2 | 0 | 53 | 25 |
2015–16 | La Liga | 38 | 22 | 3 | 3 | 13 | 7 | — | 54 | 32 | ||
2016–17 | La Liga | 36 | 16 | 5 | 4 | 12 | 6 | — | 53 | 26 | ||
2017–18 | La Liga | 32 | 19 | 3 | 2 | 14 | 8 | — | 49 | 29 | ||
2018–19 | La Liga | 37 | 15 | 2 | 2 | 8 | 4 | 1 | 0 | 48 | 21 | |
Tổng cộng | 180 | 94 | 18 | 12 | 56 | 27 | 3 | 0 | 257 | 133 | ||
Barcelona | 2019–20 | La Liga | 35 | 9 | 3 | 3 | 9 | 2 | 1 | 1 | 48 | 15 |
2020–21 | La Liga | 36 | 13 | 6 | 3 | 7 | 2 | 2 | 2 | 51 | 20 | |
2021–22 | La Liga | 3 | 0 | — | — | — | 3 | 0 | ||||
Tổng cộng | 74 | 22 | 9 | 6 | 16 | 4 | 3 | 3 | 102 | 35 | ||
Atlético Madrid (mượn) | 2021–22 | La Liga | 26 | 3 | 1 | 1 | 9 | 4 | 0 | 0 | 36 | 8 |
2022–23 | La Liga | 18 | 6 | 3 | 0 | 6 | 1 | — | 26 | 7 | ||
Tổng cộng | 44 | 9 | 4 | 1 | 15 | 5 | 0 | 0 | 62 | 15 | ||
Tổng cộng sự nghiệp | 478 | 171 | 44 | 24 | 95 | 37 | 6 | 3 | 622 | 235 |
Bàn thắng quốc tế
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 1 tháng 6 năm 2014 | Allianz Riviera, Nice, Pháp | Paraguay | |||
2. | 8 tháng 6 năm 2014 | Sân vận động Pierre-Mauroy, Villeneuve-d'Ascq, Pháp | Jamaica | |||
3. | ||||||
4. | 14 tháng 10 năm 2014 | Sân vận động Cộng hòa Vazgen Sargsyan, Yerevan, Armenia | Armenia | |||
5. | 14 tháng 11 năm 2014 | Sân vận động Route de Lorient, Rennes, Pháp | Albania | |||
6. | 8 tháng 10 năm 2015 | Allianz Riviera, Nice, Pháp | Armenia | |||
7. | 25 tháng 3 năm 2016 | Amsterdam ArenA, Amsterdam, Hà Lan | Hà Lan | |||
8. | 15 tháng 6 năm 2016 | Sân vận động Vélodrome, Marseille, Pháp | Albania | |||
9. | 26 tháng 6 năm 2016 | Parc Olympique Lyonnais, Lyon, Pháp | Cộng hòa Ireland | |||
10. | ||||||
11. | 3 tháng 7 năm 2016 | Stade de France, Saint-Denis, Pháp | Iceland | |||
12. | 7 tháng 7 năm 2016 | Sân vận động Vélodrome, Marseille, Pháp | Đức | |||
13. | ||||||
14. | 7 tháng 10 năm 2016 | Stade de France, Saint-Denis, Pháp | Bulgaria | |||
15. | 25 tháng 3 năm 2017 | Luxembourg | ||||
16. | 2 tháng 6 năm 2017 | Roazhon Park, Rennes, Pháp | Paraguay | |||
17. | 31 tháng 8 năm 2017 | Stade de France, Saint-Denis, Pháp | Hà Lan | |||
18. | 10 tháng 10 năm 2017 | Belarus | ||||
19. | 10 tháng 11 năm 2017 | Wales | ||||
20. | 1 tháng 6 năm 2018 | Allianz Rivera, Nice, Pháp | Ý | |||
21. | 16 tháng 6 năm 2018 | Kazan Arena, Kazan, Nga | Úc | |||
22. | 30 tháng 6 năm 2018 | Argentina | ||||
23. | 6 tháng 7 năm 2018 | Sân vận động Nizhny Novgorod, Nizhny Novgorod, Nga | Uruguay | |||
24. | 15 tháng 7 năm 2018 | Sân vận động Luzhniki, Moscow, Nga | Croatia | |||
25. | 16 tháng 10 năm 2018 | Stade de France, Saint-Denis, Pháp | Đức | |||
26. | ||||||
27. | 22 tháng 3 năm 2019 | Sân vận động Zimbru, Chișinău, Moldova | Croatia | |||
28. | 25 tháng 3 năm 2019 | Stade de France, Saint-Denis, Pháp | Iceland | |||
29. | 2 tháng 6 năm 2019 | Sân vận động Beaujoire, Nantes, Pháp | Bolivia | |||
30. | 17 tháng 11 năm 2019 | Arena Kombëtare, Tirana, Albania | Albania | |||
31. | 8 tháng 9 năm 2020 | Stade de France, Saint-Denis, Pháp | Croatia | |||
32. | 7 tháng 10 năm 2020 | Ukraina | ||||
33. | 14 tháng 10 năm 2020 | Sân vận động Maksimir, Zagreb, Croatia | Croatia | |||
34. | 24 tháng 3 năm 2021 | Stade de France, Saint-Denis, Pháp | Ukraina | |||
35. | 31 tháng 3 năm 2021 | Sân vận động Grbavica, Sarajevo, Bosna và Hercegovina | Bosna và Hercegovina | |||
36. | 2 tháng 6 năm 2021 | Allianz Riviera, Nice, Pháp | Wales | |||
37. | 8 tháng 6 năm 2021 | Stade de France, Saint-Denis, Pháp | Bulgaria | |||
38. | 19 tháng 6 năm 2021 | Puskás Aréna, Budapest, Hungary | Hungary | 1–1 | 1–1 | Euro 2020 |
39. | 1 tháng 9 năm 2021 | Sân vận động Meinau, Strasbourg, Pháp | Bosna và Hercegovina | |||
40. | 7 tháng 9 năm 2021 | Parc Olympique Lyonnais, Lyon, Pháp | Phần Lan | |||
41. | ||||||
42. | 13 tháng 11 năm 2021 | Sân vận động Công viên các Hoàng tử, Paris, Pháp | Kazakhstan |
Danh hiệu
Câu lạc bộ
- Segunda División: 2009–10
- Supercopa de España: 2014
UEFA Europa League: 2017–18
UEFA Super Cup: 2018
- Copa del Rey: 2020–21
Thành tích quốc tế
- Vô địch giải U-19 châu Âu: 2010
- Á quân UEFA Euro 2016
FIFA World Cup: 2018
UEFA Nations League: 2020–21
Á quân FIFA World Cup 2022
Thành tựu cá nhân
- Đội vô địch UEFA châu Âu dưới 19 tuổi: 2010
Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của La Liga: Tháng 1 và tháng 4 năm 2015, tháng 9 năm 2016, tháng 3 năm 2017, tháng 2 và tháng 12 năm 2018
Đội hình xuất sắc nhất La Liga: 2014–15
Cầu thủ xuất sắc nhất La Liga: 2015-16
Cầu thủ yêu thích nhất của người hâm mộ La Liga: 2015-16
Đội hình xuất sắc nhất UEFA Champions League: 2015-16, 2016-17
Đội hình xuất sắc nhất năm của UEFA: 2016
Vua phá lưới Giải vô địch bóng đá châu Âu: 6 bàn (Euro 2016)
Chiếc giày vàng Giải vô địch bóng đá châu Âu: 2016
Cầu thủ xuất sắc nhất Giải vô địch bóng đá châu Âu: 2016
Đội hình xuất sắc tiêu biểu Giải vô địch bóng đá châu Âu: 2016
Cầu thủ Pháp của năm: 2016
Cầu thủ Pháp xuất sắc nhất chơi ở nước ngoài: 2016
Cầu thủ xuất sắc nhất UEFA Europa League: 2017-18
Đội hình xuất sắc nhất UEFA Europa League: 2017-18
Quả bóng đồng Giải vô địch bóng đá thế giới: 2018
Chiếc giày bạc Giải vô địch bóng đá thế giới: 2018
Đội tuyển thế giới nam IFFHS: 2018
Ghi chú
Liên kết ngoài
- Atlético Madrid profile Lưu trữ 2016-09-17 tại Wayback Machine
Antoine Griezmann tại L'Équipe Football (tiếng Pháp)
Antoine Griezmann – Thành tích thi đấu FIFA
Antoine Griezmann – Thành tích thi đấu tại UEFA
BDFutbol profile
Futbolme profile (tiếng Tây Ban Nha)
Atlético Madrid – đội hình hiện tại |
---|
Đội hình Pháp |
---|
Giải thưởng |
---|
Tiêu đề chuẩn |
|
---|
Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ <ref>
với tên nhóm “lower-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng <references group='lower-alpha'/>
tương ứng, hoặc thẻ đóng </ref>
bị thiếu