Áo dài là một loại trang phục phổ biến ở các vùng quê miền Nam Việt Nam. Áo dài còn được gọi là áo Cánh.
Lịch sử
Một số giả thuyết về sự ra đời của áo dài cho rằng:
- Chiếc áo dài xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ 19, được Trương Vĩnh Ký chuyển thể từ trang phục của người dân đảo Penang (người Malaysia gốc Hoa) để phù hợp với người Việt.
Tuy nhiên trong Từ điển Pháp Việt của Trương Vĩnh Ký, tác giả không nhắc đến “áo dài”.
Theo nhà văn Sơn Nam trong cuốn Nghi thức và nghi lễ của người Việt Nam, trang 24:
“ | Áo bà ba được du nhập vào khoảng cuối thế kỷ 19, Bà-ba là người Hoa lai người Mã Lai ở Mã Lai hoặc Singapore. Vải đen được nhập cảng khá tốt, người Nam Bộ thích mặc kiểu áo vải đen của người Bà-ba nên gọi là áo bà ba. Ngày nay, áo bà ba vẫn có thể gợi sự nghiêm túc nếu đừng loè loẹt, cần nhất là thái độ của người mặc.
|
” |
Thực tế không có dân tộc nào được gọi là người Bà Ba với nghĩa là “người Mã Lai lai từ Trung Hoa”. Trên thực tế, chỉ có người Peranakan (Trong tiếng Malaysia và Indonesia, từ Peranakan đều có nghĩa là “hậu duệ”. Khái niệm người Peranakan có nghĩa là “hậu duệ của những người Trung Quốc đến định cư ở những vùng thuộc địa của Anh quốc ở Đông Nam Á.”), thường được gọi là Peranakan Chinese hay Baba-Nyonya, là hậu duệ của những người Trung Quốc nhập cư vào Malaysia từ thế kỷ 15 đến 17.
Từ ghép “Baba-Nyonya” cũng không phải dùng để chỉ người Bà Ba. Đây là thuật ngữ chung cho người Peranakan trong tiếng Malaysia (và cả tiếng Indonesia). “Baba” dùng để chỉ “đàn ông” và Nyonya dùng để gọi “phụ nữ” ở đảo Penang thuộc Malaysia, thời điểm đó là thuộc địa của Anh quốc.
Ở Malaysia, phụ nữ Peranakan mặc loại áo cánh khá giống áo bà ba, được gọi là kebaya. Ở Indonesia, người Peranakan cũng có loại áo tương tự, gọi là kebaya encim (encim có nghĩa là “phụ nữ” trong tiếng Indonesia).
Tóm lại, trong những thế kỷ trước, áo bà ba đã xuất hiện tại Việt Nam. Qua thương mại, người Việt có thể đã tiếp xúc văn hóa với người Peranakan, điều chỉnh phong cách áo của họ để tạo ra 'áo bà ba' như chúng ta thấy ngày nay.
Áo bà ba thế kỷ 18 - 19
Đối với tầng lớp quan lại, ngoài cách mặc áo ngũ thân trắng lót, phụ nữ Nam Bộ thường mặc áo sam trắng dưới áo ngũ thân (lập lĩnh) làm quần áo tiện dụng, kết hợp với hài, nón gụ, kim xuyến, và vòng cổ. Áo sam có nút phía trong để không bị lộ ra ngoài.
Trước khi có thuốc nhuộm hóa học, để nhuộm màu đen hoặc nâu cho áo bà ba, người dân thường dùng lá bàng, vỏ trâm bầu, vỏ cây dà, cây cóc, vỏ sú vẹt hoặc trái dưa… nhuộm rồi phủ bùn để không bị phai màu.
Khi có vải nhập khẩu, người ta lại dùng vải ú, vải sơn đầm, hoặc vải chéo go đen rộng rãi, vì tính tiện dụng, màu sắc tối phù hợp với điều kiện lao động và đi lại trong điều kiện sông rạch, bùn lầy, dễ giặt và mau khô.
Trong thế kỷ 20, phụ nữ thường mặc thêm áo túi trong (áo sam không có túi), một loại áo giống áo sam nhưng ngắn tay, dùng làm áo lót, thân áo cũng ngắn hơn và không xẻ nách, có hai túi to ở hai bên để cất đồ. Có khi phụ nữ chỉ mặc áo túi mà không cần áo bà ba ở ngoài.
Đàn ông thường mặc áo lá, tương đương với áo túi của phụ nữ, ngắn hơn và không có tay, để lộ nách và có hai túi ở hai bên bụng. Bên ngoài mặc áo bà ba. Từ những năm 1950 trở đi, áo túi và áo lá dần không còn được sử dụng làm áo lót nữa.
Áo bà ba đương đại
Nút áo bà ba cũng đa dạng và thay đổi theo từng giai đoạn. Trước đây, thường sử dụng nút bấm truyền thống. Nhưng hiện nay, đã có nhiều mẫu nút được thiết kế sáng tạo, làm nổi bật phần thân áo.
Qua thời gian, chiếc áo bà ba đã được cải tiến nhiều lần để phù hợp với sự vận động của cơ thể người mặc và xu hướng thời trang thay đổi. Áo bà ba truyền thống được các nhà thiết kế cải biên, vừa giữ nét dân tộc, vừa thêm phần đẹp và hiện đại hơn.
Áo bà ba ngày nay không còn thẳng và rộng như trước mà được thêm phần eo bụng, eo ngực ôm sát với thân hình. Ngoài ra, đã có nhiều kiểu cắt cổ vai, cổ tay, cửa tay mới, với các kiểu cổ lá sen, cánh én, đan tôn... được lấy cảm hứng từ thời trang quốc tế.
Các kiểu ráp tay cũng được cải tiến. Từ kiểu may áo cánh xưa liền thân với tay, người ta đã nghĩ đến cách ráp tay rời ở cổ tay áo.
Vào những năm 1970, các tỉnh thành miền Nam phổ biến kiểu ráp tay raglan, tạo nên vẻ đẹp hiện đại cho áo bà ba truyền thống. Hai thân áo trước và sau tách rời khỏi vai và tay áo, trong khi tay và thân áo lại liền từ cổ tới nách.
Áo bà ba vai raglan được may rất khít, vừa vặn với eo lưng, không quá thắt như kiểu áo trước đó. Tay áo dài hơn, hơi bồng, hai túi ở vạt trước được bỏ để làm cho thân áo nhẹ nhàng, mềm mại hơn.
Trong âm nhạc
- Bài hát 'Chiếc áo bà ba' của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh.
- Bài hát 'Thương áo bà ba' của ca sĩ Đình Văn.
- Bài hát 'Duyên dáng áo bà ba' của nhạc sĩ Hồ Hoàng.
- Bài hát Tân cổ 'Duyên dáng áo bà ba' của nhạc sĩ Lê Nghiệp, lời cổ Ngọc Thảo.